Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đánh giá thực trạng thị trường chứng khoán việt nam và các giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.7 KB, 27 trang )

Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

LỜI MỞ ĐẦU
Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước
cơng nghiệp phát triển địi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính sách huy động
tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngồi nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi
trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường CK tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ
vai trị quan trọng đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế.
Nhận thức rõ việc xây dựng TTCK là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và
phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và
xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và
mơ hình TTCK trên thế giới, TTCK VN đã ra đời, và bước đầu không tránh khỏi những
khó khăn và trở ngại. Vì vậy nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài:
“Đánh giá thực trạng thị trường chứng khốn Việt Nam
và các giải pháp hồn thiện “
Do qui mô của bài viết và thời gian làm bài bị hạn chế, cho nên bài viết này cũng
chỉ tập trung vào những vấn đề cơ bản nhất, quan trọng nhất đối với TTCK VN. Kiến
thức về thị trường CK rất lớn nhưng những kiến thức trong bài viết này cũng tương đối
đủ để hiểu về thị trường CK.

Trang 1

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

CHƯƠNG 1:


TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1.1 Khái niệm
TTCK là một bộ phận của thị trường vốn dài hạn , thực hiện cơ chế chuyển vốn
trực tiếp từ NĐT sang nhà phát hành, qua đó thực hiện chức năng của thị trường tài
chính là cung ứng nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế
TTCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua bán, chuyển nhượng các loại CK
dài hạn như các loại TP, CP và các cơng cụ tài chính khác như chứng chỉ quỹ đầu tư,
công cụ phái sinh,…
1.2 Chức năng của TTCK
1.2.1 Huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế
TTCK cung cấp cho công chúng một môi trường đầu tư lành mạnh với các cơ hội
lựa chọn phong phú. Các loại CK trên thị trường rất khác nhau về tính chất, thời hạn và
độ rủi ro, cho phép các NĐT có thể lựa chọn loại hàng hố phù hợp với khả năng, mục
tiêu và sở thích của mình.
1.2.2 Cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng
Khi các NĐT mua CK do các công ty phát hành, số tiền nhàn rỗi của họ được đưa
vào hoạt động sản xuất kinh doanh và qua đó góp phần mở rộng sản xuất xã hội. Thơng
qua TTCK, Chính phủ và chính quyền ở các địa phương cũng huy động được các nguồn
vốn cho mục đích sử dụng và đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ các nhu cầu
chung của xã hội.
1.2.3 Tạo tính thanh khoản cho các CK
Nhờ có TTCK các NĐT có thể chuyển đổi các CK họ sở hữu thành tiền mặt hoặc
các loại CK khác khi họ muốn. Khả năng thanh khoản là một trong những đặc tính hấp
dẫn của CK đối với người đầu tư. Đây là yếu tố cho thấy tính linh hoạt, an toàn của vốn
đầu tư. TTCK hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính thanh khoản của các
CK giao dịch trên thị trường càng cao.
1.2.4 Đánh giá hoạt động của DN
Thông qua CK, hoạt động của các DN được phản ánh một cách tổng hợp và chính
xác, giúp cho việc đánh giá và so sánh hoạt động của DN được nhanh chóng và thuận

tiện, từ đó cũng tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn, kích thích áp dụng cơng nghệ mới, cải tiến sản phẩm.
1.2.5 Tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô
Các chỉ báo của TTCK phản ánh động thái của nền kinh tế một cách nhạy bén và
chính xác. Giá các CK tăng lên cho thấy đầu tư đang mở rộng, nền kinh tế tăng trưởng;
ngược lại giá CK giảm sẽ cho thấy các dấu hiệu tiêu cực của nền kinh tế. Vì thế, TTCK
được gọi là phong vũ biểu của nền kinh tế và là một công cụ quan trọng giúp Chính phủ
thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mơ. Thơng qua TTCK, Chính phủ có thể mua và bán
Trang 2

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

TP Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.
Ngồi ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
1.3 Phân loại TTCK
1.3.1 Căn cứ vào quá trình luân chuyển chứng khoán
1.3.1.1 Thị trường sơ cấp
Còn gọi là thị trường cấp một hay thị trường phát hành. Trên thị trường này vốn từ
NĐT sẽ được chuyển sang nhà phát hành thông qua việc NĐT mua các CK mới phát
hành. Thực hiện quá trình chu chuyển tài chính trực tiếp đưa các khoản tiền nhàn rỗi
tạm thời trong dân chúng vào đầu tư, chuyển sang dạng vốn dài hạn
Đặc điểm:
− Là nơi duy nhất mà các CK đem lại vốn cho người phát hành và tạo hàng hóa
cho thị trường giao dịch làm tăng vốn đầu tư.
− Người bán trên Thị trường sơ cấp: Kho bạc, Ngân hàng Nhà Nước, Cơng ty
phát hành,Tập đồn bảo lãnh phát hành…

− Thị trường Sơ cấp chỉ tổ chức một lần cho một loại CK nhất định, trong thời
gian hạn định.
1.3.1.2 Thị trường thứ cấp
Còn gọi là thị trường cấp hai hay thị trường chuyển nhượng quyền sở hữu CK
đảm bảo tính thanh khoản cho các CK đã phát hành
Đặc điểm:
− Trên thị trường thứ cấp các khoản tiền thu được từ việc bán CK thuộc về các
NĐT và các nhà kinh doanh CK chứ không thuộc về các nhà phát hành
− Giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do,giá CK
trên thị trường thứ cấp sẽ do cung và cầu quyết định.
− Thị trường thứ cấp hoạt động liên tục, NĐT có thể mua và bán các CK nhiều
lần trên thị trường này.
1.3.2 Căn cứ vào phương diện pháp lý của hình thức tổ chức thị trường
1.3.2.1Thị trường chứng khoán chính thức (The stock exchange), hay còn gọi là
TTCK tập trung
Tại SGDCK, các giao dịch tập trung tại một điểm, các lệnh được chuyển tới sàn
giao dịch và tham gia vào quá trình ghép lệnh để hình thành nên phiên giao dịch. Chỉ có
CK đủ tiêu chuẩn niêm yết mới được giao dịch tại đây.
3.2.1.2 Thị trường chứng khoán phi chính thức (Over the counter market – OTC),
hay còn gọi là TTCK phi tập trung
Đây là một thị trường có tổ chức dành cho những CK không niêm yết trên trung
tâm giao dịch CK .
Trang 3

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

Thị trường OTC khơng có địa điểm giao dịch chính thức, thay vào đó các nhà mơi

giới (công ty CK) kết nối các giao dịch qua mạng máy tính diện rộng giữa các cơng ty
CK và trung tâm quản lý hệ thống.
1.3.3 Căn cứ vào đặc điểm các loại hàng hóa lưu hành trên TTCK
1.3.3.1 Thị trường cổ phiếu: Là thị trường giao dịch và mua bán các loại CP bao
gồm CP thường, CP ưu đãi.
1.3.3.2 Thị trường trái phiếu: Là thị trường giao dịch và mua bán các loại TP đã
được phát hành bao gồm các TP công ty, trái phiếu đô thị và TP chính phủ.
1.3.3.3 Thị trường các công cụ phái sinh: Là thị trường phát hành và mua đi bán
lại các chứng từ tài chính khác như quyền mua CP, chứng quyền, hợp đồng quyền
chọn….
1.4 Các nguyên tắc hoạt động cơ bản của TTCK
Thị trường CK hoạt động theo 3 nguyên tắc cơ bản sau:
1.4.1 Nguyên tắc trung gian
Mọi hoạt động giao dịch, mua bán CK trên thị trường CK đều đuợc thực hiện
thơng qua các trung gian, hay cịn gọi là các nhà môi giới. Các nhà môi giới thực hiện
giao dịch theo lệnh của khách hàng và hưởng hoa hồng. Ngoài ra, nhà mơi giới cịn có
thể cung cấp các dịch vụ khác như cung cấp thông tin và tư vấn cho khách hàng trong
việc đầu tư...
Theo nguyên tắc trung gian, các NĐT không thể trực tiếp thoả thuận với nhau để
mua bán CK. Họ đều phải thông qua các nhà mơi giới của mình để đặt lệnh. Các nhà
mơi giới sẽ nhập lệnh vào hệ thống để khớp lệnh.
1.4.2 Nguyên tắc đấu giá
Giá CK đuợc xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh mua và các lệnh bán.
Tất cả các thành viên tham gia thị trường đều không thể can thiệp vào việc xác định giá
này. Có hai hình thức đấu giá là đấu giá trực tiếp và đấu giá tự động.
Đấu giá trực tiếp là việc các nhà môi giới gặp nhau trên sàn giao dịch và trực tiếp
đấu giá.
Đấu giá tự động là việc các lệnh giao dịch từ các nhà môi giới được nhập vào hệ
thống máy chủ của Sở GD CK. Hệ thống máy chủ này sẽ xác định mức giá sao cho tại
mức giá này, CK giao dịch với khối lượng cao nhất.

1.4.3 Nguyên tắc công khai
Tất cả các hoạt động trên thị trường CK đều phải đảm bảo tính cơng khai. Sở GD
CK công bố các thông tin về SGD CK trên thị trường. Các tổ chức niêm yết công bố
công khai các thơng tin tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thường
cho các NĐT tham gia vào thị trường CK.

Trang 4

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

1.4.4 Ngun tắc cơng bằng
Ngun tắc này nhằm đảm bảo lợi ích cho tất cả những người tham gia thị trường.
Mọi người tham gia đều phải tuân thủ những quy đinh chung, bình đẳng trong chia sẻ
thơng tin và gánh chịu các hình thức xử phạt nếu quy phạm quy định.
1.4.5 Nguyên tắc tập trung
TTCK phải hoạt động trên nguyên tắc tập trung, các giao dịch chỉ diễn ra trên
SGDCK và thị trường OTC, có sự kiểm tra giám sát của cơ quan quản lý Nhà nước và
các tổ chức tự quản.
Các nguyên tắc trên đây nhằm đảm bảo cho giá cả CK được hình thành một cách
thống nhất, công bằng cho tất cả các bên giao dịch. Do đó, ở hầu hết các nước trên thế
giới hiện nay, mỗi nuớc chỉ có một SGDCK duy nhất (tuy nhiên, người dân mọi miền
đất nước đều có thể tiếp cận thị truờng thơng qua các phịng giao dịch của công ty CK
mở tới các điểm dân cư). Một số nước rộng lớn còn tồn tại vài SGDCK do lịch sử để lại
thì đều nối mạng với nhau hoặc giao dịch những CK riêng biệt.
1.5 Các chủ thể tham gia vào TTCK
1.5.1 Nhà phát hành
Là các tổ chức thực hiện huy động vốn thơng qua TTCK dưới hình thức phát hành

các CK.
− Chính phủ và chính quyền địa phương: phát hành TP chính phủ và TP địa
phương.
− Cơng ty: phát hành CP và TP công ty.
− Các tổ chức tài chính (như các qũy đầu tư CK, cơng ty quản lý quỹ): phát hành
cơng cụ tài chính như: TP, chứng chỉ quỹ đầu tư…
1.5.2 Nhà đầu tư
Là những người thực sự mua và bán CK trên TTCK. NĐT có thể được chia thành
2 loại:
− NĐT cá nhân: là những người có vốn nhàn rỗi tạm thời, tham gia mua bán trên
TTCK với mục đích kiếm lời.
− NĐT có tổ chức: là các định chế đầu tư thường xuyên mua bán CK với số
lượng lớn trên thị trường.
Các định chế này có thể tồn tại dưới các hình thức sau: công ty đầu tư, công ty bảo
hiểm, Quỹ lương hưu, cơng ty tài chính, ngân hàng thương mại và các công ty CK.
1.5.3 Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
1.5.3.1 Các công ty CK
Là những công ty hoạt động trong lĩnh vực CK, có thể đảm nhận một hoặc nhiều
trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, mơi giới,tự doanh và tư vấn đầu tư
CK

Trang 5

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

1.5.3.2 Cơng ty quản lý quỹ
Thực hiện quản lý quỹ đầu tư CK.Công ty quản lý quỹ thay mặt quỹ đầu tư để

phát hành chứng chỉ quỹ, qua đó hình thành nên các quỹ đầu tư hoạt động trên thị
trường CK với chức năng kinh doanh CK và quản lý danh mục đầu tư..
1.5.3.3 Các tổ chức có liên quan đến TTCK
− Ủy ban CK Nhà nước: là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước đối với TTCK ở Việt nam nhằm bảo vệ lợi ích của NĐT và đảm
bảo TTCK hoạt động lành mạnh,có hiệu quả và phát triên bền vững.
− Sở giao dịch CK: là cơ quan thực hiện vận hành thị trường giao dịch tập trung
và ban hành những quyết định điều chỉnh các hoạt động giao dịch CK trên
SGDCK phù hợp với các quy định của luật pháp và UBCK.
− Hiệp hội các nhà kinh doanh CK: là tổ chức của các công ty CK và các nhà
kinh doanh CK, được thành lập với mục đích bảo vệ lợi ích cho các NĐT.
− Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ CK :là tổ chức nhận lưu giữ các CK và
tiến hành các nghiệp vụ thanh toán bù trừ cho các giao dịch CK
− Công ty dịch vụ máy tính CK: cung cấp hệ thống máy tính với các chương
trình để thơng qua đó có thể thực hiện được các lệnh giao dịch một cách chính
xác nhanh chóng.
− Các tổ chức tài trợ CK: được thành lập với mục đích mở rộng và tăng trưởng
của thị trường CK
− Cơng ty đánh giá hệ số tín nhiệm: là công ty chuyên cung cấp dịch vụ đánh giá
năng lực thanh toán các khoản vốn gốc và lãi của các chủ thể phát hành CK..

Trang 6

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHỐN VIỆT NAM
2.1 Sự hình thành TTCK ở VN.

Ngày 10/07/1998, Chính phủ ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP về CK và
TTCK cùng với quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/07/1998 về việc thành lập
TTGDCK tại Hà Nội và TP.HCM chính thức khai sinh cho TTCK VN.
Ngày 20/07/2000, TTGDCK TP HCM chính thức vận hành, thực hiện phiên giao
dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Ngày 11/05/2007 TTGDCK TP.HCM chính thức
chuyển đổi thành SGDCK TP.HCM và khai trương vào ngày 08/08/2007.
TTGDCK Hà Nội chính thức hoạt động vào ngày 08/03/2005. Ngày 02/01/2009,
theo Quyết định số 01/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, TTGDCK Hà Nội
được chuyển đổi, tổ chức lại thành SGDCK Hà Nội. Ngày 24/06/2009, SGDCK Hà
Nội chính thức khai trương thị trường đăng ký giao dịch dành cho CK công ty đại
chúng chưa niêm yết (UPcom).
2.2 Các giai đoạn phát triển của TTCK VN.
2.2.1 Giai đoạn 2000 – 2005: Giai đoạn sơ khai của TTCK VN
Kinh tế - xã hội Việt Nam 2000 - 2005 ổn định và trên đà phát triển. Nhờ những
nỗ lực trong cải cách, Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng kể, tăng trưởng kinh tế
GDP khá và ổn định, năm sau cao hơn năm trước (năm 2002 tăng 7,1%, năm 2003 tăng
7,3%, năm 2004 tăng 7,6%).
Năm 2000, TTGDCK TP.HCM bước vào hoạt động với 2 loại CP (REE và SAM)
với số vốn 270 tỷ đồng và một số ít TP Chính phủ được niêm yết giao dịch. Từ đó cho
đến 2005, thị trường ln ở trong trạng thái “gà gật”, loại trừ cơn sốt vào năm 2001 (chỉ
số VN-Index cao nhất đạt 571.04 điểm sau 6 tháng đầu năm nhưng chỉ trong vòng chưa
đầy 4 tháng, từ tháng 6 đến tháng 10, các CP niêm yết đã mất giá tới 70% giá trị, chỉ số
VN-Index sụt từ 571,04 điểm vào ngày 25/4/2001 xuống chỉ còn khoảng 200 điểm vào
tháng 10/2001). Giai đoạn tỉnh ngủ dần xuất hiện từ năm 2005 khi tỷ lệ nắm giữ của
NĐT nước ngoài được nâng từ 30% lên 49% (trừ lĩnh vực ngân hàng).
Trong 5 năm chỉ số VN-Index lúc cao nhất chỉ có 300 điểm, mức thấp nhất xuống
đến 130 điểm, dường như thị trường không thực sự thu hút được sự quan tâm của đông
đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã hội
mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc sống
của mỗi người dân. Theo thống kê của UBCKNN, tính đến hết năm 2005, tổng giá trị

TTCKVN đạt gần 40.000 tỷ đồng, chiếm 0,69% tổng thu nhập quốc nội (GDP), với
4.500 tỷ đồng CP, 300 tỷ đồng chứng chỉ quỹ đầu tư và gần 35.000 tỷ đồng TP chính
phủ, TP chính quyền địa phương, thu hút 28.300 tài khoản giao dịch.

Trang 7

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

2.2.2 Giai đoạn 2006 – 2007: Giai đoạn tăng trưởng nóng của TTCK VN.
Trong giai đoạn đầu, hoạt động của thị trường rất khó khăn. Các yếu tố thị trường
chưa hình thành đồng bộ, hiểu biết của NĐT chưa cao, hàng hóa trên thị trường cịn ít,
các DN CPH chưa nhiều và chủ yếu là DN nhỏ, cơ chế phối hợp trong chính sách điều
hành, quản lý giám sát thị trường còn hạn chế, cung cầu CP mất cân đối nên giá bị đẩy
lên hàng ngày. UBCK đã đưa ra một số giải pháp hành chính can thiệp vào thị trường,
nhằm hạn chế hiện tượng "bong bóng" của CP. Dẫn đến thị trường hoạt động cầm
chừng, DN CPH không muốn niêm yết.
Thị trường chỉ phát triển từ năm 2006, sau những thay đổi về mặt chính sách và sự
kiện toàn hệ thống luật pháp. Cụ thể:
− Luật Doanh nghiệp được Quốc Hội thơng qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi
hành từ 01/07/2006 hình thành một khung pháp lý chung, bình đẳng áp dụng thống nhất
cho mọi loại hình doanh nghiệp.
− Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ X (tháng 04/2006) khẳng định: “…
đẩy mạnh CPH DN nhà nước và phát triển các DN cổ phần mới, để hình thức kinh tế
này trở thành phổ biến, chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong nền kinh tế…”.
− Luật CK được Quốc Hội thơng qua ngày 29/06/2006, có hiệu lực thi hành ngày
01/01/2007, đã xây dựng được một thị trường làm định hướng cho sự phát triển của các
thành phần tham gia.

− Luật Đầu tư có hiệu lực từ 01/07/2006 thay đổi một cách căn bản về quan
điểm hạn chế đầu tư vào DN Việt Nam của đối tượng NĐT nước ngoài.
− Ngày 07/11/2006 là ngày Việt Nam được chính thức cơng nhận là thành viên
thứ 150 của WTO. Liên quan đến TTCK, các cam kết tại WTO của Việt Nam là cho
phép các DN nước ngoài được thành lập cơng ty CK 100% vốn nước ngồi sau 5 năm
kể từ ngày gia nhập.
− Chính sách cắt giảm ưu đãi thuế cho DN niêm yết từ ngày 01/01/2007. Chính
sách này đã có ảnh hưởng sâu sắc đến tiến trình lên sàn của nhiều DN.
Cùng với các chính sách hỗ trợ tích tụ trong nhiều năm, tích tụ về lượng dẫn đến
tích tụ về chất, tạo sự đột biến phát triển thị trường giai đoạn 2006 – 2007:

Trang 8

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

Năm 2006: được coi là mang tính chất phát triển “đột phá”, tạo cho thị trường CK
Việt Nam một diện mạo hoàn toàn mới với hoạt động giao dịch sôi động tại cả 3 “sàn”:
SGDCK TP.HCM, TTGDCK Hà Nội và thị trường OTC.
Năm 2006, kỷ lục mới của VN-Index được xác lập ở mốc 809,86 điểm, với
HASTC-Index là nỗ lực chạm mốc 260 điểm. Tính chung so với đầu năm Vn-Index
tăng 144%, HASTC-Index tăng 152,4%. Tổng giá trị vốn hóa đạt 13,8 tỉ USD (chiếm
22,7% GDP) giá trị CP do các NĐT nước ngoài đang nắm giữ đạt khoảng 4 tỉ USD. Số
công ty niêm yết trên cả hai sàn tăng gần 5 lần, từ 41 công ty năm 2005 đã lên tới 193
công ty, số tài khoản giao dịch đạt hơn 10 vạn, gấp 3 lần năm 2005 và 30 lần so với 6
năm trước.

(Nguồn : />

Trong khoảng từ giữa đến cuối năm 2006, tình trạng đầu tư vào CP ở nước ta
mang tâm lý “đám đơng”, cả người có kiến thức và hiểu biết, cả những người mua, bán
theo phong trào, qua đó đẩy TTCK vào tình trạng “nóng”.
Năm 2007: VN-Index đạt đỉnh 1.170,67 điểm; HASTC-Index chạm mốc 459,36
điểm. Kết thúc phiên giao dịch cuối năm, VN-Index đạt 927,02 điểm; HASTC-Index
dừng ở mức 323,55 điểm, như vậy sau 1 năm hoạt động VNIndex đạt được mức tăng
trưởng là 23,3%; Hastc-Index tăng 33,2% so với mức điểm thiết lập vào cuối năm 2006.
Tính đến ngày 28/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 248 phiên giao
dịch với tổng khối lượng giao dịch đạt hơn 2,3 tỷ CK tương đương với tổng giá trị giao
dịch toàn thị trường đạt 224.000 tỷ đồng, gấp 2 lần khối lượng và 2,8 lần giá trị giao
dịch so với năm 2006. Bình quân mỗi phiên giao dịch có 9,2 triệu CK được chuyển
nhượng tương đương với 980 tỷ đồng.

Trang 9

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

Đơn vị tính: tỷ đồng.

TTGDCK Hà Nội thực hiện thành công 248 phiên giao dịch, với tổng khối lượng
giao dịch toàn thị trường đạt 616,3 triệu CK tương đương với tổng giá trị giao dịch toàn
thị trường đạt 63.859 tỷ đồng, tăng gấp 6 lần về khối lượng và 15,8 lần về giá trị giao
dịch so với năm 2006. Quy mô giao dịch tăng trưởng mạnh khi mức giao dịch bình quân
năm 2007 đạt 255 tỷ đồng/phiên trong khi năm 2006 chỉ đạt 19 tỷ đồng/phiên.
3 tháng đầu năm 2007 là giai đoạn thị trường đạt mức tăng trưởng với tốc độ lớn
nhất (126%). Nhờ sự tăng trưởng về giá của các CP, tổng giá trị vốn hóa của thị trường
trong giai đoạn này lên đến con số 398.000 tỷ đồng. Trong giai đoạn này, giá các CP

tăng trưởng với tốc độ phi mã, đồng loạt các CP từ Blue – chip, Penny stock, các CP
mới niêm yết trên sàn… Yếu tố quan trọng góp phần vào sự tăng trưởng nóng trong giai
đoạn này phải kể đến sức cầu trên thị trường tăng một cách đột biến khiến giá trị giao
dịch trung bình mỗi phiên giao dịch lên tới hàng ngàn tỷ đồng. Với nỗi lo sợ về một “thị
trường bong bóng”, các cơ quan quản lý nhà nước cũng như Chính phủ đã vào cuộc để
giảm nhiệt thị trường bằng các biện pháp kiểm soát thị trường chặt chẽ, ban hành những
thiết chế để kiềm chế sự tăng trưởng quá nóng của thị trường.
Từ tháng 04/2007 đến đầu tháng 09/2007, phản ứng trước các chính sách kiềm chế
thị trường trước đó như Chỉ thị 03, Luật thuế thu nhập cá nhân,… cộng với yếu tố tâm
lý của NĐT, TTCK đã có những đợt điều chỉnh rõ rệt. VN-Index chỉ trong vòng 1 tháng
giao dịch đã rơi xuống mức 905,53 điểm (24/04/2007), giảm tới 22,6% so với mức đỉnh
vào tháng 3. HASTC-Index trở về mốc 321,44 điểm (24/04/2007), giảm 30% so với
mức đỉnh. Đầu tháng 8, thị trường xác lập mức đáy 883,9 điểm của VN-Index
(06/08/2007) và 247,37 điểm của HASTC-Index (23/08/2007). Thị trường mất điểm quá
nhanh trong một thời gian ngắn khiến giá giao dịch của các CP đã trở về gần mức giá
thiết lập vào đầu năm.
Những tháng cuối năm thị trường bước vào giai đoạn phục hồi mạnh mẽ, đặc biệt
là các mã CP Blue – chip trên cả 2 sàn đều lấy lại được những gì đã mất trong 6 tháng
giữa năm, tuy nhiên sức bật của các CP không đủ mạnh để đưa các CP trở về mức giá
đỉnh thiết lập vào tháng 3. Trong giai đoạn này, VN-Index đã có những phiên giao dịch
vượt lên trên ngưỡng 1.100 điểm, HASTC-Index cũng gần chạm trở lại ngưỡng 400
Trang 10

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

điểm (393,59 điểm ngày 01/10/2007). Tuy nhiên, thị trường sau một đợt phục hồi đã
nhanh chóng điều chỉnh giảm vào 2 tháng cuối năm. Trong giai đoạn này, thị trường

thỉnh thoảng cũng có các đợt phục hồi giả với sự tăng lên mạnh mẽ của tất cả các yếu
tố. Tuy nhiên sự phục hồi này không duy trì được lâu, thậm chí đã có dấu hiệu suy giảm
chỉ sau 1 phiên tăng điểm. Chính điều này đã dẫn tới việc các NĐT bị đọng vốn. Trong
khi nguồn cầu có xu hướng cạn kiệt, thì nguồn cung vẫn tiếp tục gia tăng. Tương quan
cung cầu mất cân bằng khiến thị trường ngày càng tuột dốc cả về giá lẫn khối lượng
giao dịch và giá trị giao dịch. VN-Index giảm xuống dưỡi ngưỡng điểm 1.000 và chỉ
xoay quanh mốc 900 điểm, với lượng CK chuyển nhượng rất hạn chế.
2.2.3 Giai đoạn 2008 – 2010: Giai đoạn thị trường tự điều chỉnh.
Cuộc khủng hoảng tài chính thế giới trong năm 2008 đã đẩy kinh tế thế giới vào
tình trạng suy thoái, làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường vốn, thị
trường lao động và tác động tiêu cực tới nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội khác của nước
ta. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của tỷ lệ lạm phát tăng cao trong nước và sự biến động
mạnh của giá cả hàng hóa trên thế giới, thị trường tiền tệ và thị trường vốn của Việt
Nam cũng có những biến động mạnh: trên thị trường tiền tệ, lãi suất từ NHNN và các
NHTM liên tiếp xác định các mặt bằng mới, lãi suất cho vay từ các NHTM tăng mạnh
trong cuối quý II/2008, dao động từ 20-21%.
TTCK năm 2008 tiếp tục xu hướng điều chỉnh giảm từ cuối năm 2007 đến giữa
tháng 6, hồi phục từ giữa tháng 6 đến cuối tháng 8 và lại tiếp tục giảm từ đầu tháng 9 tới
cuối tháng 12. Nhằm mục đích ngăn chặn đà suy giảm của TTCK, các cơ quan điều
hành bắt đầu đưa ra những chủ trương và biện pháp hỗ trợ: UBCKNN điều chỉnh biên
độ giao dịch, SCIC tham gia mua vào CP, NHTM được vận động ngừng giải chấp, tổ
chức niêm yết được khuyến khích mua vào CP quỹ…. Tuy nhiên, TTCK Việt Nam kết
thúc năm 2008 với một kết quả khá buồn: khởi đầu năm 2008 tại mức điểm 921,07 VNIndex đã thiết lập đáy mới là 286,85 điểm vào ngày 10/12/2008, và tại 31/12/2008 đạt
312,49 điểm (giảm 66% so với cuối năm 2007).
Sang năm 2009, nền kinh tế trong nước bị ảnh hưởng mạnh của nền kinh tế tồn
cầu, TTCK vì thế tiếp tục đổ dốc và tạo thành đáy 235 điểm và cuối tháng 02/2009. Sau
khi Chính Phủ thực hiện các biện pháp kích thích kinh tế, chính sách tài khóa mở rộng
và chính sách tiền tệ nới lỏng thơng qua gói kích cầu, đặc biệt là hỗ trợ lãi suất 4%, cũng
như chính sách giãn, giảm thuế đối với DN, TTCK đã dần dần phục hồi, tính từ ngày
01/01/2009 đến 31/12/2009 thì VN-Index đã tăng thêm 171,96 điểm từ 312,49 điểm lên

đến 494,77 điểm tương đương với mức tăng là 58%.
Năm 2010 là năm nhiền biến động với TTCKVN:
Nguồn cung ồ ạt lên thị trường. Tính đến ngày 26/12/2010, số lượng DN niêm
yết trên cả 2 sàn là 643 với giá trị với giá trị vốn hóa thị trường đạt 701,9 tỷ đồng. So
với năm 2009, số DN niêm yết mới đã tăng 189 DN (42%).

Trang 11

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

Sự tăng nóng của các “penny”. Trong bối cảnh dòng tiền tệ thị trường yếu, các
CP bluechips với vốn hóa lớn khơng được ưa chuộng, làn sóng đầu cơ vào các CP vừa
và nhỏ đã lên ngôi trong suốt 5 tháng đầu năm 2010. Từ đó đã xuất hiện những CP có
kết quả kinh doanh lỗ hoặc kém hiệu quả mà giá vẫn tăng (MTG, PVA, SRA, SRB…).
Thay vì được dẫn dắt bởi các tổ chức chính quy, thị trường đã bị dẫn dắt bởi các đội lái,
hùa theo đó là các NĐT nhỏ lẻ. Từ tháng 5/2010, cùng với xu hướng giảm của thị
trường, nhóm CP nhỏ lao dốc không phanh, gây mất niềm tin, sự chán nản tột độ của
NĐT nhỏ.
HNX-Index phản ánh trung thực diễn biến của thị trường hơn chỉ số VNIndex. Trong nhiều giai đoạn của năm 2010, chỉ số VN-Index đã khơng cịn phản ánh
chính xác tình hình chung trên sàn HOSE khi chỉ cần một vài bluechip tăng điểm là giữ
được màu xanh của chỉ số. Trong bối cảnh đó, NĐT đã quan tâm đến chỉ số HNX-Index
nhiều hơn, bởi diễn biến trên sàn Hà Nội phản ánh cung cầu thật của thị trường. Giá CP
cũng thường biến động cùng chiều với biến động của chỉ số chính.
Năm 2010 là năm niêm yết ồ ạt của các CTCK với con số từ 4 công ty niêm yết
trong năm 2009, đã tăng lên 25 CTCK niêm yết trong năm 2010 với động cơ chủ yếu là
tạo thanh khoản và uy tín, tuy nhiên hiệu quả hoạt động không cao
Khối các NĐT nước ngồi mua rịng các mã bluechips khi TTCK sụt giảm, đồng

thời bán ra cơ cấu lại trong các phiên tăng điểm. Năm 2010, khối này mua ròng trên
HSX tới 14.400 tỷ đồng về giá trị và 244 triệu đơn vị về khối lượng. Đây là khối lượng
mua ròng kỷ lục trong 10 năm hoạt động của khối các NĐT nước ngồi trên TTCK Việt
Nam.
Dịng tiền mạnh vào cuối năm 2010 đã giúp TTCKVN thoát khỏi xu hướng giảm
trung hạn. Dòng tiền mạnh được xác định trước tiên từ các tài khoản lớn trong nước,
bên cạnh đó là dịng vốn chốt lời từ các thị trường vàng/ngoại tệ, dòng vốn nóng từ các
thị trường như Thái Lan, Malaysia, Indonesia… đã quay trở lại thị trường Việt Nam.
Nhìn chung trong giai đoạn 2008-2010: số tài khoản của NĐT , số công ty niêm
yết đều gia tăng, mức vốn hóa và tỉ lệ trong GDP suy giảm trong năm 2008 nhưng đã
khôi phục và gia tăng tốt trong 2 năm 2009 và 2010.
Trang 12

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

2.3 Thành tựu và hạn chế TTCK VN
2.3.1 Thành tựu của thị trường CK Việt Nam
Trải qua những thời kỳ thăng trầm trong 10 năm qua, TTCK Việt Nam đã có bước
phát triển mạnh mẽ về chất lượng cũng như quy mô.
Về chất lượng: công nghệ giao dịch trên cả hai Sở giao dịch và các CTCK đã có
bước phát triển đáng kể. Từ chỗ sử dụng cơng nghệ giao dịch bán tự động với hình thức
đại diện giao dịch tại sàn, hiện nay cả 2 Sở đều thực hiện giao dịch điện tử hóa hồn
tồn dưới hình thức kết nối và giao dịch trực tuyến. Hệ thống trung gian cũng nhanh
chóng mở rộng cả số lượng, chất lượng, công nghệ. Cơ sở pháp lý của TTCK từng bước
được hồn thiện.
Về quy mơ: từ vài cơng ty niêm yết trong những ngày đầu tiên, đến nay, TTCK
Việt Nam đã có 576 cơng ty niêm yết, 4 chứng chỉ quỹ, 612 TP, 105 Công ty CK, 46

công ty quản lý quỹ, 8 ngân hàng lưu ký, gần 900.000 tài khoản đầu tư; trong đó có trên
14.000 NĐT nước ngồi. Vì vậy, có thể khẳng định rằng: đến nay, TTCK đã trở thành
một thực thể không thể thiếu trong nền kinh tế cũng như trong đời sống của người dân
Việt Nam.
Hơn 6 năm đầu, mức vốn hoá của thị trường mới chỉ tăng lên 0,5 tỉ USD. Vài năm
gần đây mức vốn hóa của thị trường CK Việt Nam đã tăng đột biến, tháng 12-2006 đạt
13,8 tỉ USD (chiếm 22,7% GDP) và đến cuối tháng 4- 2007, đạt 24,4 tỉ USD (chiếm
38% GDP), tăng hơn 1400 lần so với năm 2000. Mức vốn hố thị trường CK tính đến
cuối tháng 12 năm 2010 là 620 nghìn tỷ đồng, tương đương gần 38% GDP năm 2009.
Vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FDI) đổ vào thị trường CK Việt Nam cũng có sự gia
tăng đáng kể.
Sau 10 năm, khi nhìn lại, những gì đã đạt được khiến nhiều người khơng khỏi
ngạc nhiên. Hai Sở giao dịch, một thị trường UPCoM, hơn 550 mã CP niêm yết, 105
CTCK, 46 công ty quản lý quỹ, gần 1 triệu tài khoản giao dịch, trong đó khoảng 25% là
của NĐT nước ngồi… là những con số hết sức ấn tượng. Mười năm qua, hai sàn đã
thực hiện trên 3.000 phiên giao dịch (tại HOSE là 2.327 phiên, HNX là 1.163 phiên) và
tất cả đều diễn ra an tồn.
Những thành tích trên thị trường thứ cấp đã tác động tích cực đến thị trường phát
hành, nhiều công ty đại chúng, đặc biệt là các công ty niêm yết đã tăng vốn lên từ hàng
chục đến hàng trăm lần. Riêng 2 năm 2008-2009 đã có 35.000 tỷ đồng giá trị CP (tính
theo mệnh giá) được phát hành ra cơng chúng, góp phần làm lành mạnh cơ cấu tài chính
của DN.
Mức vốn hóa thị trường hiện đạt khoảng 40% GDP, vẫn còn nhiều tiềm năng để
phát triển. Quy mơ thị trường hồn tồn có thể tăng gấp 2 - 3 lần hiện nay trong vòng 5 7 năm tới. Thị trường sẽ tiếp tục phát triển để ngày càng trở thành kênh đầu tư và huy
động vốn hiệu quả, với thông tin ngày càng đầy đủ, minh bạch.

Trang 13

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20



Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

2.3.2 Hạn chế của thị trường CK Việt Nam
2.3.2.1 Hạn chế của thị trường cổ phiếu
Quy mô thị trường nhỏ, các CP niêm yết chưa đại diện cho ngành, cung và cầu
thị trường mất cân đối
Thị trường CK Việt Nam còn thiếu CP của những ngành, lĩnh vực lớn và quan
trọng, nên lượng vốn hóa lớn nhưng chưa có tính đại diện nền kinh tế.
Trong khi nguồn cung CK có tốc độ phát triển mạnh, đơi khi đẩy thị trường đến
tình trạng “bội thực”, số lượng các CTCK được cấp phép hoạt động cũng gia tăng nhanh
quá mức cần thiết thì số lượng NĐT, đối tượng cần phát triển lại tăng quá chậm, không
tương xứng với tốc độ tăng trưởng kinh tế và quy mô dân số của Việt Nam.
Cụ thể, trong số gần 900.000 tài khoản hiện có đến nay, nếu loại trừ số tài khoản
được mở để tránh né các quy định thì con số tài khoản thực sự giao dịch ước tính chỉ
khoảng 300.000 - 500.000. So với mức dân số xấp xỉ 85 triệu của nước ta thì tỷ lệ này
chưa tới 1% NĐT CK trong tổng dân số là mặt hạn chế nhất trong 10 năm hình thành và
phát triển của TTCK VN.
NĐT cá nhân chiếm đa số (khoảng 90%), đầu tư theo phong trào trên cơ sở
thơng tin chưa chính thức và chịu sự chi phối của NĐT nước ngoài, các NĐT tổ
chức.
Nhiều NĐT cá nhân thường thiếu thơng tin chính xác khi đầu tư. Họ hay căn cứ
vào “tin đồn”. Hơn nữa, họ cũng gặp nhiều hạn chế trong việc đánh giá tình hình hoạt
động kinh doanh của DN để quyết định đầu tư, dẫn đến việc định giá giá trị CP dễ có sai
lầm. Việc đánh giá giá trị CP theo kiểu “tốt xấu lẫn lộn” cho thấy sự thiếu chuyên
nghiệp của nhiều NĐT cá nhân.
Thực tế, trong gần 900.000 tài khoản CK được mở, số vốn của NĐT cá nhân
chiếm tỷ trọng lớn so với vốn của các tổ chức, nhưng các NĐT cá nhân hay dõi theo
NĐT tổ chức - nhất là tổ chức nước ngồi. Chính vì hay thế, khả năng “bị dẫn dắt” là
điều khơng thể tránh khỏi.

Hệ thống trung gian tài chính chưa lớn
Điều này thể hiện qua các CTCK mới chủ yếu cung cấp được dịch vụ môi giới và
tư vấn đầu tư CK, các nghiệp vụ địi hỏi trình độ chun mơn cao, năng lực tài chính lớn
như: bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư CK chậm phát triển; chất lượng tư
vấn niêm yết, tư vấn đầu tư CK chưa cao; các CTCK hầu hết có quy mơ vốn nhỏ, nên
hoạt động tự doanh rất hạn chế, chưa góp phần ổn định và tạo lập thị trường.
Thiếu hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ mới đi vào thị trường
Sau 10 năm thị trường vận hành, sự liên thông với TTCK thế giới rất lớn, song sản
phẩm mới lại rất nghèo nàn. Thực tế thị trường đang đòi hỏi sớm có các quy định hướng
dẫn các nghiệp vụ CK trọng yếu như giao dịch ký quỹ, giao dịch bán khống có quản lý
(cơ chế vay, cho vay CK), giao dịch mua - bán bắt buộc, các quy định hướngdẫn tổ chức
thực hiện và giao dịch CK phái sinh như quyền chọn, hợp đồng tương lai...
Công tác quản lý giám sát thị trường cịn yếu
Về phía cơng ty:

Trang 14

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

Việc quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK còn nhiều
bất cập, đặc biệt là giám sát công bố thông tin, hoạt động của các công ty chứng khoán.
Một thủ thuật mà nhiều công ty đã sử dụng là thông tin bất thường, thông tin
không minh bạch. Các số liệu sổ sách khơng chính xác, khơng kịp thời. Nhiều NĐT rất
muốn có đủ thơng tin về sản xuất kinh doanh, về thực trạng tài chính, về triển vọng phát
triển DN mà họ sở hữu CP. Song sự mong muốn đó hồn tồn khơng được đáp lại. Họ
hồn tồn bị động và gặp rủi ro cao hơn.
Trong bối cảnh tăng nóng của thị trường và trong bối cảnh chất lượng kiểm soát

báo cáo tài chính của nhiều cơng ty kiểm tốn khơng được bảo đảm, việc nhiều công ty
niêm yết tranh thủ phát hành đã làm cho chất lượng CP niêm yết có chiều hướng giảm
sút.
Những vi phạm về CK thường bị phát hiện trong thời gian gần đây là người có
liên quan với cổ đông nội bộ giao dịch CP mà không báo cáo với cơ quan quản lý và
công bố thông tin; DN trở thành công ty đại chúng nhưng khơng đăng ký.
Về phía nhà đầu tư:
Tình trạng làm giá, thao túng giá với các công nghệ “bơm, hút,xả, đẩy”, với các
kỹ thuật phao tin; các kỹ thuật xuất bản các báo cáo phân tích khẳng định một cách chắc
chắn VN-Index sẽ lùi về mốc X hoặc tăng đến mốc Y được suy diễn hết sức chủ quan
trong những thời điểm nhạy cảm, hoặc đưa ra các phân tích dự báo về chính sách tiền tệ
thay cho cả một ngành, được thực hiện bởi các “đội lái tàu” chuyên nghiệp đang làm
xói mịn nghiêm trọng lịng tin của NĐT.
Theo nhiều nguồn tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, hiện nay có hiện
tượng lũng đoạn thị trường khá phổ biến mà dân chơi CK gọi là "cá mập", họ có thể
đánh lên hay đánh xuống một số cổ phiểu nào đó nếu họ muốn, và việc này khơng phụ
thuộc vào tình hình kinh doanh của cơng ty. Việc này làm hoang mang các NĐT và tạo
ra cảm giác CK như đánh bạc
Chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm pháp luật trên thị trường CK còn quá
nhẹ, chưa phù hợp, nên xảy ra tình trạng liên tục vi phạm...
Tính bảo mật thơng tin thị trường chưa cao
Các thông tin chi tiết của các khách hàng tại các ngân hàng, thông tin về tài khoản
của NĐT (kể cả các CTCK có chức năng tự doanh), trong đó có thơng tin về danh mục
đầu tư là những thơng tin mật, chỉ được phép tiết lộ khi có yêu cầu của các cơ quan thực
thi pháp luật. Tuy nhiên, đây lại là những thơng tin dễ dàng tìm được trên các trang
mạng CK và thường bị các công ty CK vi phạm Thực tế này là một dấu hỏi lớn của dư
luận đặt ra cho các cơ quan quản lý có liên quan về tính minh bạch của thị trường, quy
trình bảo mật các thơng tin nhạy cảm của các cơ quan quản lý.
Nếu không giải quyết rốt ráo các vấn đề này, nếu khơng có biện pháp quản lý để
có đủ các các tiêu chuẩn “LET” - viết tắt của ba thuật ngữ: Liquidity (Tính lưu động),


Trang 15

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

Efficiency (Hiệu quả), Transparency (Minh bạch) - của một thị trường phát triển, nguy
cơ HOSE và HNX sẽ trở thành “HOSINO” và “HASINO” là nguy cơ có thực.
2.3.2.2

Hạn chế của thị trường trái phiếu

Thiếu các tổ chức định mức tín nhiệm đủ uy tín.
Khơng có tổ chức xếp hạng tín dụng chuyên nghiệp, là rào cản cho các DN nhỏ
khi phát hành TP. Hiện tại ở Việt nam, chưa có một tổ chức chuyên nghiệp nào thực
hiện dịch vụ cung cấp các chỉ tiêu xếp hạng tín dụng DN để làm cơ sở xếp hạng TP DN.
Các cơng ty kiểm tốn mặc dù đã rất nỗ lực trong việc đa dạng hóa các dịch vụ
cung cấp. Song, với nguồn nhân lực còn khan hiếm như hiện nay, thị trường mục tiêu
của các công ty này vẫn chỉ là cung cấp các dịch vụ kiểm tốn các cơng ty niêm yết hay
tư vấn CPH, định giá DN.
Vào tháng 12 năm 2007, CIC (Credit Information Center), SBV hợp tác cùng
D&B (Dun and Bradstreet), một công ty hàng đầu thế giới trong lĩnh vực cung cấp
thông tin, xuất bản cuốn “Xếp hạng tín dụng DN của các cơng ty được niêm yết trên thị
trường CK Việt Nam” công bố xếp hạng tín dụng DN của 198 cơng ty được niêm yết
cho đến ngày 24 tháng 8 năm 2007 (trừ các ngân hàng và các quĩ đầu tư). Hầu hết các
công ty đều được xếp hạng B trở lên, chỉ có 7 công ty xếp hạng C chiếm 3%. Những
thông tin này rất quan trọng đối với ngân hàng và các NĐT, tuy nhiên, chúng cũng chỉ
có ý nghĩa tại thời điểm xếp hạng, không phải trong cả một giai đoạn. Nếu việc xếp

hạng tín dụng DN được thực hiện định kỳ, ít nhất là hàng tháng hoặc hàng quí, chắc
chắn chúng sẽ trở nên hữu ích hơn cho người sử dụng. Hiện nay, CIC mới chỉ cung cấp
dịch vụ xếp hạng tín dụng theo yêu cầu, chưa phổ biến ra cơng chúng do chi phí khá
cao. Do đó, cho đến trước khi CIC xuất bản cuốn sách này, các NĐT vẫn chưa được tiếp
cận với các thông tin trên.
Thực tế hiện nay, hầu hết các DN phát hành TP đều là các công ty lớn nhất trong
ngành. Các điều kiện về tài chính của họ tốt hơn nhiều so với mặt bằng chung của tồn
ngành. Bên cạnh đó, một số DN được chính phủ bảo đảm, do vậy rủi ro khơng có khả
năng chi trả của họ là rất thấp. Tuy nhiên, để phát triển thị trường trong đó tất cả các
loại hình DN đều có thể phát hành TP, cần thiết phải thành lập một chuẩn mực về xếp
hạng tín dụng hay xếp hạng TP DN. Đặc biệt, trong xu thế tồn cầu hố, khi một DN
được niêm yết trên thị trường CK nước ngồi, TP của DN đó phải được xếp hạng theo
tiêu chuẩn quốc tế. Hiện tại, chỉ có VCB và BIDV được xếp hạng tín dụng theo tiêu
chuẩn quốc tế Một số các DN nhà nước cũng đang có kế hoạch để được xếp hạng theo
tiêu chuẩn quốc tế, để phát hành TP quốc tế. Khi lãi suất TP chính phủ giảm, TP DN có
thể trở nên hấp dẫn hơn đối với các NĐT vì lãi suất coupon cao hơn.
Thị trường TP Việt Nam có quy mô quá nhỏ
Quy mô của thị trường TP Việt Nam hiện chỉ ở mức 17% GDP, trong khi tỷ lệ này
ở Thái Lan là 58%, Malaysia 82%, Singapore 74% và Trung Quốc là 53%.
Hàng hố trên thị trường vẫn cịn đơn điệu và chủ yếu nằm ở khu vực TP Chính
phủ, trong khi TP chính quyền địa phương và TP DN còn giữ một tỷ lệ rất khiêm tốn.
Hiện nay, trên thị trường TP, hầu hết tập trung ở TP chính phủ, trong đó, TP chính
Trang 16

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

quyền địa phương (mới chỉ có Hà Nội, TP.HCM và Đồng Nai phát hành) giữ một tỷ

trọng thấp. Cịn đối với TP DN thì cũng chỉ có một số tổng công ty, DN lớn của nhà
nước phát hành, cịn DN quy mơ vừa và nhỏ chưa thể phát hành.
Biểu đồTrong khi TP DN được coi là kênh huy động vốn có rất nhiều thuận lợi so
với phát hành CP, vay ngân hàng thì chỉ chiếm tỷ trọng 15%, rất nhỏ so với TP chính
phủ (85%) thì ở các nước khác, tỷ trọng này lại cân đối hơn rất nhiều so với Việt Nam.
Đơn cử tỷ trọng lần lượt giữa TP DN và TP chính phủ ở Trung Quốc: 35% - 65%; Hàn
Quốc: 51% - 49%; Singapore: 44% - 56%; Malaysia: 50% - 50%; Thái Lan: 33% - 67%.
Nguyên nhân của những hạn chế trên là do chưa có một kế hoạch phát hành hồn chỉnh,
cách thức phát hành cũng chưa thuận lợi cho việc giao dịch trên thị trường.

TP chính phủ với nhiều đợt phát hành quy mơ nhỏ
(Nguồn: NHTG, Báo cáo Phát triển Việt Nam, 2009.)
Tính thanh khoản của các loại TP còn thấp
Tuy khối lượng ít nhưng TP Việt Nam lại ở trong tình trạng phân tán do quy mơ
phát hành nhỏ, có q nhiều loại, hình thức, chưa có sự thống nhất trong thơng lệ giao
dịch nên gây nên sự lộn xộn và phức tạp khi giao dịch.
Ở nước ngồi, họ phát hành lơ lớn ở một số kỳ hạn nhất định 3 - 5 - 7 - 10 hay 15
năm và mặc dù ngày phát hành khác nhau nhưng ngày đến hạn luôn khớp với nhau.
Ở Việt Nam có hơn 500 loại TP, lại phát hành thành nhiều lô nhỏ, ngày phát hành
khác nhau, ngày đến hạn khác nhau. Do vậy, nhiều khi một NĐT mua một lô TP và giữ
lại, lập tức chúng không thể giao dịch được cho đến khi đến hạn thanh tốn. Thực tế này
khơng chỉ làm cho tính thanh khoản của thị trường thấp mà cịn khó hình thành đường
cong lãi suất chuẩn trên thị trường vốn.
Thị trường chưa xác lập đường cong lãi suất
Ở Việt nam chưa có đơn vị nào xây dựng đường cong lãi suất chuẩn. Ngân hàng
Ngoại Thương đang phối hợp với Reuters và Trung tâm giao dịch CK để tìm cách xây
dựng nhưng cho đến nay vẫn chưa thành công.
Một trong những nguyên nhân cơ bản là sự nhỏ lẻ, lộn xộn của thị trường hiện nay
cùng với việc giao dịch repos và giao dịch mua đứt bán đoạn khơng bóc tách được
khiến cho thị trường TP Việt Nam khơng thể hình thành được một đường cong lãi suất

chuẩn.

Trang 17

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

Thực tế tại các nước có TTTP phát triển cho thấy, đường cong lãi suất có ý nghĩa
quan trọng không chỉ đối với các nhà phát hành (hạn chế rủi ro), các NĐT (xác định
được giá theo thị trường, quyết định đầu tư trên cơ sở phân tích được rủi ro của khoản
đầu tư cũng như lợi tức thu được) mà cịn rất có ý nghĩa đối với các nhà trung gian (phát
triển các công cụ phát sinh và tạo lập thị trường qua các giao dịch mua bán có kỳ hạn và
giao dịch tương lai)

Lợi suất TP chính phủ
(Nguồn: Global Financial Data)
Thiếu đội ngũ tạo lập thị trường
Sự nghèo nàn của thị trường TP Việt Nam cịn ở chỗ chưa có đầy đủ các lực
lượng gồm nhà phát hành, NĐT, các nhà cung cấp dịch vụ (tư vấn phát hành, bảo lãnh
phát hành), nhà môi giới, các nhà cung cấp xếp hạng tín nhiệm cho các tổ chức phát
hành, cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan.
Tính cạnh tranh của thị trường TP Việt Nam cịn thấp
TP chính phủ chưa cạnh tranh được với sự tiện lợi của hình thức gửi tiết kiệm, đầu
tư kỳ phiếu ở các ngân hàng thương mại cùng với tính thanh khoản kém hơn nên chưa
thu hút được tiền nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế và cá nhân
Phương thức huy động vốn thơng qua phát hành TP cịn khá mới mẻ khơng
những đối với các DN mà cịn đối với nhiều tổ chức tư vấn
Thị trường TP DN kém phát triển do các công ty chưa quen với việc huy động vốn

vay trực tiếp qua phát hành TP mà vẫn dựa vào nguồn vốn vay của ngân hàng
2.3.2.3 Hạn chế của thị trường CK phái sinh
Dù đã ra đời và vận hành hơn 10 năm nhưng đến nay kênh CK Việt Nam hầu như
vắng bóng các sản phẩm tài chính phái sinh. Thời gian qua, một số CTCK do muốn đáp
ứng nhu cầu thị trường đã cho ra đời một số sản phẩm tài chính phái sinh và thu hút khá
đông NĐT tham gia. Tuy nhiên, hầu hết các sản phẩm tài chính mới này do khơng có
hành lang pháp lý để vận hành nên chết yểu, thậm chí có một số sản phẩm vừa cơng bố
đã bị cơ quan quản lý yêu cầu ủy bỏ.
Hạn chế của TTCK phái sinh được thể hiện qua một số nguyên nhân sau:

Trang 18

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

− Có thể gây ra thua lỗ lớn do việc sử dụng các cơng cụ địn bẩy hay vay mượn;
rủi ro do đối tác không thực hiện nghĩa vụ hợp đồng (đặc biệt là trong hợp
đồng swaps); tiềm ẩn rủi ro rất lớn đối với những NĐT nhỏ, thiếu kinh
nghiệm.
− Giá trị danh nghĩa quá lớn: rủi ro dẫn đến thua lỗ lớn mà NĐT không thể bù
đắp được. Khả năng dẫn đến phản ứng dây chuyển phá hủy hàng loạt khi có
khủng hoảng kinh tế. Giá trị danh nghĩa quá lớn dẫn tới việc làm méo mó thị
trường vốn thực. NĐT bắt đầu nhìn vào thị trường các công cụ phái sinh để
quyết định mua hoặc bán CK, như vậy cái mà ban đầu được xem là thị trường
là để chuyển rủi ro trở thành một chỉ số hướng dẫn thị trường.
− Đòn bẩy nợ trong nền kinh tế: việc gia tăng đòn bẩy nợ trong nền kinh tế làm
nền kinh tế thực không đủ khả năng để tài trợ cho nghĩa vụ nợ và điều chỉnh
những hoạt động kinh tế thực, điều này có thể gây ra suy thoái hay khủng

hoảng kinh tế.
2.4 Thị trường UPCoM: “ Sân chơi” an toàn nhưng chưa hấp dẫn
Ra đời từ tháng 6-2009, với 10 DN niêm yết, đến nay thị trường GDCK công ty
đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) đã thu hút được 43 DN. Mặc dù chưa sôi động,
nhưng sàn UPCoM được đánh giá là "sân chơi an toàn" giúp NĐT tránh được rủi ro trên
thị trường giao dịch tự do.
Bên cạnh thị trường tập trung do Nhà nước quản lý được tổ chức tại Sở GDCK Hà
Nội và TP Hồ Chí Minh, giao dịch trên thị trường OTC hiện vẫn diễn ra khá phổ biến
với quy mơ lớn. Nguồn hàng hóa trên thị trường này là CP của các DN nhà nước CPH,
công ty cổ phần do các tổ chức kinh doanh và đầu tư tư nhân thành lập. Thị trường OTC
thực tế là thị trường "chợ đen".
Trên thị trường này, giao dịch tự phát, không được thanh tốn tập trung, CP khơng
được lưu ký, việc mua bán thông qua các nhà môi giới tự do, khơng được cấp phép...
nên có nhiều yếu tố rủi ro mà tổ chức phát hành, CTCK tổ chức hoạt động giao dịch trên
không chịu trách nhiệm với NĐT. Do vậy, khi thị trường UPCoM hoạt động, nhiều
NĐT khá hồ hởi, bởi những giao dịch CP của các DN chưa niêm yết được quản lý chặt
chẽ. Trên thị trường này, NĐT có thể mua, bán các loại CP của các cơng ty đại chúng
chưa niêm yết hoặc hủy niêm yết trên SGDCK TP.HCM và Sở GDCK Hà Nội. Sàn
UPCoM là môi trường giao dịch cơng bằng, minh bạch, an tồn giảm rủi ro cho NĐT,
tăng khả năng huy động vốn cho DN. Với thị trường UPCoM, NĐT giao dịch tại công
ty CK theo phương thức thỏa thuận. Kết quả giao dịch được chuyển qua hệ thống
UPCoM để chuyển đến trung tâm lưu ký CK thực hiện thanh toán.
Theo lãnh đạo Sở GDCK Hà Nội, thị trường UPCoM đã góp phần đạt mục tiêu
thu hẹp thị trường tự do, mở rộng thị trường giao dịch CK có tổ chức và quản lý của
Nhà nước. Tính đến hết tháng 2-2010, sàn UPCoM đã có 43 DN niêm yết, với tổng khối
lượng đăng ký hơn 634 triệu CP; tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt hơn 50
triệu CP, giá trị hơn 691 tỷ đồng. Sự ra đời của thị trường UPCoM cùng với việc Ủy ban

Trang 19


Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

CK Nhà nước cơng bố lộ trình đưa CP của công ty đại chúng chưa niêm yết vào đăng ký
tại Trung tâm Lưu ký CK cũng là động lực khiến nhiều DN quyết định lựa chọn phương
án niêm yết, đưa số lượng công ty niêm yết tại hai sở GDCK tăng lên 461 công ty.
Các chuyên gia nhận định, quy mô thị trường UPCoM hiện nay vẫn nhỏ, hàng hóa
trên thị trường chưa đa dạng, do vậy tính thanh khoản chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu
là do thị trường mới ra đời, sự quan tâm và hiểu biết của các công ty và NĐT chưa đầy
đủ. Nhiều cơng ty đại chúng cịn quan niệm thị trường UPCoM là thị trường của các
công ty chất lượng thấp, do đó khơng muốn tham gia vì sợ ảnh hưởng đến hình ảnh CK
của đơn vị. Ngồi ra, các cơng ty CK chưa tận dụng được ưu thế của phương thức giao
dịch thỏa thuận một cách hiệu quả, nên chưa phát huy vai trị trung tâm của mình trong
việc giao dịch cho NĐT, ảnh hưởng đáng kể đến tính thanh khoản trên thị trường. Vì
thế, trong nhiều phiên liên tiếp, chỉ số UPCoM giảm điểm, với khối lượng giao dịch đạt
ở mức thấp. Sau gần một năm hoạt động, chỉ số UPCoM-Index khơng những khơng
tăng điểm, mà cịn giảm tới hơn 50%. Đóng cửa phiên ngày 17-3, chỉ số UPCoM-Index
đạt 44,29 điểm, với khối lượng giao dịch chỉ đạt 341.031 CP, tương đương giá trị 4,268
tỷ đồng.

Trang 20

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

CHƯƠNG 3:


MỘT SỐ GIẢI PHÁP HỒN THIỆN TTCK VIỆT NAM

3.1 Định hướng phát triển
Tại hội thảo khoa học "Định hướng chiến lược phát triển thị trường CK Việt Nam
giai đoạn 2010-2020," tổ chức tại Hà Nội ngày 18/11/2010 của Ủy ban CK Nhà nước :
− Mục tiêu chiến lược phát triển thị trường CK giai đoạn 2011-2020 là phát triển
về quy mô, chất lượng hoạt động cho thị trường CK, duy trì trật tự an tồn cho
thị trường.
− Mở rộng phạm vi, tăng cường hiệu quả quản lý, giám sát thị trường; Bảo vệ
quyền lợi và lợi ích hợp pháp của người đầu tư; Nâng cao khả năng cạnh tranh
và hội nhập thị trường tài chính quốc tế.
− Về định hướng chiến lược, dự kiến năm 2015, quy mơ vốn hóa thị trường đạt
65-70% GDP và đến năm 2020 quy mơ vốn hóa thị trường đạt 90-100% GDP.
− Chiến lược phát triển thị trường CK liên hệ mật thiết với chiến lược phát triển
kinh tế xã hội nói chung và chiến lược phát triển tài chính đến năm 2020 nói
riêng.
− Tăng quy mơ, chất lượng cơng ty CK theo hướng tái cấu trúc (phá sản, thâu
tóm, sáp nhập); giảm số lượng công ty CK từ trên 100 như hiện nay xuống
khoảng 50 cơng ty (bình qn thị phần mỗi công ty CK là 4 tỷ USD).
− Để thực hiện được những mục tiêu trên, cần hoàn thiện khung pháp lý, thể chế
mà cơ bản là hoàn thiện Luật CK và các văn bản hướng dẫn; Tạo cơ chế để các
cơ quan quản lý có tính độc lập; Tăng nguồn cung cho thị trường CK, nâng cao
hiệu lực quản lý của nhà nước và phát huy vai trò các Hiệp hội ngành nghề
CK, vai trò tư vấn độc lập, phản biện chính sách từ các tổ chức...
Năm 2011 là năm bản lề, mở đầu cho phát triển kinh tế giai đoạn 2011-2020: nền
kinh tế cũng như thị trường CK có khí thế, tinh thần của Nghị quyết ĐH Đảng tồn
quốc lần thứ XI; Chính phủ thực thi các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô để phát triển
bền vững. Do đó, UBCKNN cần tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Một là: Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và thể chế thị trường; Hoàn thiện các

văn bản hướng dẫn Luật sửa đổi, bổ sung và các Nghị định về CK, TTCK.
Hai là: Đẩy mạnh CPH, sắp xếp DNNN phần tái cấu trúc DN, tái cấu trúc tài
chính để phát triển.
Ba là: Phát triển nghiệp vụ mới, sản phẩm mới; Triển khai các nghiệp vụ mới như
giao dịch mua CK ký quỹ, mua bán trong cùng phiên giao dịch, mở nhiều tài khoản, cho
vay CK; Chuyển đổi quỹ đóng sang quỹ mở; Xây dựng lộ trình cụ thể cho thị trường;
Đưa ra các giải pháp nhằm đạt được lợi ích cận biên, về phương diện thị trường thì lợi
ích chung gồm an tồn, hiệu quả, và an tồn tài chính, NĐT có lợi ích hợp pháp.

Trang 21

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện

Bốn là: Tăng cường quản lý giám sát hoạt động thị trường; Quản lý giám sát chặt
chẽ để thị trường phát triển; Kiện toàn bộ máy thanh tra, kiểm tra, giám sát trên tinh
thần mới của Luật thanh tra.
3.2 Giải pháp
3.2.1 Giải pháp dài hạn
Phát triển thị trường vốn theo hướng hiện đại, hoàn chỉnh về cấu trúc (bao gồm thị
trường CP, thị trường TP, thị trường các công cụ phái sinh, thị trường tập trung, thị
trường phi tập trung...), vận hành theo các thông lệ quốc tế tốt nhất, có khả năng liên
kết với các thị trường khu vực và quốc tế.
Phát triển mạnh các kênh cung cấp vốn cả trong và ngoài nước cho thị trường; mở
rộng hệ thống các NĐT, đặc biệt là các NĐT có tổ chức; phát triển đầy đủ các định chế
trung gian: đa dạng hóa các dịch vụ cung cấp,... đảm bảo có đầy đủ các yếu tố cấu thành
một thị trường vốn phát triển của khu vực.
Kết hợp chặt chẽ giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; hài hịa giữa mục

tiêu huy động vốn cho tăng trưởng kinh tế, phát triển bền vững thị trường vốn với ổn
định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát, đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Tăng cường quản lý nhà nước, thực hiện có hiệu quả chức năng thanh tra, kiểm tra
giám sát việc tuân thủ pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động trên thị
trường.
3.2.2 Giải pháp trước mắt
3.2.2.1 Phát triển qui mô, nâng cao chất lượng và đa dạng hóa các loại hàng hóa để
đáp ứng nhu cầu của thị trường
Mở rộng qui mơ và đa dạng hóa các loại TP, các phương thức phát hành TP Chính
phủ, TP chính quyền địa phương, TP DN trên thị trường vốn; phát triển các loại TP
chuyển đổi của DN, TP cơng trình để đầu tư vào các dự án hạ tầng trọng điểm của quốc
gia;
Đẩy mạnh chương trình CPH các DN, tổng cơng ty nhà nước, tập đoàn kinh tế và
các ngân hàng thương mại nhà nước, gắn việc CPH với niêm yết trên thị trường CK; mở
rộng việc phát hành CP mới để huy động vốn trên thị trường. Đối với những DN đã
CPH đủ điều kiện phải thực hiện việc niêm yết; đồng thời tiến hành rà soát, thực hiện
việc bán tiếp phần vốn của Nhà nước tại các DN nhà nước không cần giữ cổ phần chi
phối hoặc không cần nắm giữ cổ phần. Chuyển đổi các DN có vốn đầu tư nước ngồi
sang hình thức cơng ty cổ phần và niêm yết, giao dịch trên thị trường CK;
Phát triển các loại CK phái sinh như: quyền chọn mua, quyền chọn bán CK; hợp
đồng tương lai; hợp đồng kỳ hạn; các sản phẩm liên kết (CK-bảo hiểm; CK-tín dụng,
tiết kiệm-CK...); các sản phẩm CK hóa tài sản và các khoản nợ...

Trang 22

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện


3.2.2.2 Từng bước hoàn chỉnh cấu trúc của thị trường vốn, đảm bảo khả năng
quản lý, giám sát của Nhà nước
Tách thị trường TP ra khỏi thị trường CP để hình thành thị trường TP chuyên biệt.
Từng bước nghiên cứu hình thành và phát triển thị trường giao dịch tương lai cho các
công cụ phái sinh, thị trường CK hóa các khoản cho vay trung, dài hạn của ngân
hàng,...;
Phát triển thị trường CP theo nhiều cấp độ để đáp ứng nhu cầu phát hành CP, niêm
yết, giao dịch của nhiều loại hình DN và đảm bảo khả năng quản lý, giám sát của Nhà
nước theo hướng tách biệt thị trường giao dịch tập trung, thị trường phi tập trung, thị
trường đăng ký phát hành, giao dịch cho các DN vừa và nhỏ;
Tổ chức thị trường GDCK phi tập trung theo hướng có quản lý thơng qua các giải
pháp: thực hiện đăng ký, lưu ký tập trung đối với các công ty cổ phần đủ điều kiện theo
qui định của Luật CK; nghiên cứu cơ chế giao dịch đối với các CK không đủ điều kiện
niêm yết theo mơ hình thỏa thuận thơng qua các cơng ty CK; các giao dịch CK tập trung
thanh toán và chuyển giao thông qua Trung tâm Lưu ký CK; đồng thời, thiết lập cơ chế
giám sát của thị trường giao dịch CK trong việc cơng bố thơng tin để tăng cường tính
cơng khai, minh bạch trên thị trường, đảm bảo sự quản lý, giám sát của Nhà nước đối
với các giao dịch CK, thu hẹp hoạt động trên thị trường tự do.
3.2.2.3 Phát triển các định chế trung gian và dịch vụ thị trường
Tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực tài chính cho
các cơng ty CK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư CK,... Đa dạng hóa các loại hình
dịch vụ cung cấp trên thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch
vụ; đảm bảo tính cơng khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường;
Mở rộng phạm vi hoạt động Trung tâm Lưu ký CK, áp dụng các chuẩn mực lưu
ký quốc tế, thực hiện liên kết giao dịch thanh toán giữa thị trường vốn và thị trường tiền
tệ;
Từng bước hình thành thị trường định mức tín nhiệm ở Việt Nam. Cho phép thành
lập các tổ chức định mức tín nhiệm đủ điều kiện tại Việt Nam và cho phép một số tổ
chức định mức tín nhiệm có uy tín của nước ngồi thực hiện hoạt động định mức tín
nhiệm ở Việt Nam.

3.2.2.4 Phát triển hệ thống NĐT trong và ngồi nước
Khuyến khích các định chế đầu tư chun nghiệp (ngân hàng, CK, bảo hiểm,...)
tham gia đầu tư trên thị trường theo qui định của pháp luật. Thực hiện lộ trình mở cửa
đối với các NĐT chuyên nghiệp nước ngồi và thị trường Việt Nam theo lộ trình đã cam
kết.
Đa dạng hóa các loại hình quỹ đầu tư; tạo điều kiện cho phép Bảo hiểm xã hội
Việt Nam, Tiết kiệm bưu điện,... tham gia đầu tư trên thị trường vốn; từng bước phát
triển, đa dạng hóa các quỹ hưu trí để thu hút các vốn dân cư đang tham gia đầu tư;

Trang 23

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hồn thiện

khuyến khích việc thành lập các quỹ đầu tư ở nước ngoài đầu tư dài hạn vào thị trường
Việt Nam.
3.2.2.5 Hoàn thiện khung pháp lý, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý, giám sát của
Nhà nước
Hoàn thiện hệ thống khuôn khổ pháp lý thống nhất, đồng bộ, đáp ứng được yêu
cầu quản lý, giám sát và hội nhập với thị trường vốn của khu vực và quốc tế;
Bổ sung các chế tài xử lý nghiêm minh về dân sự, hình sự để phịng ngừa và xử lý
các hành vi vi phạm trong hoạt động trên thị trường vốn, thị trường CK;
Nghiên cứu hồn chỉnh các chính sách về thuế, phí, lệ phí đối với hoạt động CK,
khuyến khích đầu tư dài hạn, hạn chế đầu tư ngắn hạn; điều tiết lợi nhuận thu được do
kinh doanh CK, đồng thời thơng qua thuế, phí, lệ phí góp phần giám sát hoạt động của
thị trường CK và từng đối tượng, thành viên tham gia thị trường (bao gồm cả các NĐT
trong và ngoài nước)
Áp dụng các tiêu chuẩn giám sát thị trường theo thông lệ quốc tế; đẩy mạnh việc

thanh tra, kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các thành viên tham gia thị
trường; kiểm tra, giám sát hàng hóa đưa ra thị trường, đảm bảo tính cơng khai, minh
bạch; tăng cường năng lực giám sát, cưỡng chế thực thi của cơ quan giám sát thị trường;
Củng cố bộ máy, nâng cao năng lực quản lý, giám sát của Nhà nước đối với thị
trường vốn; từng bước tách bạch chức năng quản lý với chức năng giám sát các hoạt
động của thị trường; sớm nghiên cứu thành lập Cơ quan giám sát tài chính quốc gia giúp
Thủ tướng Chính phủ điều phối chính sách và công cụ cảnh báo, điều hành, giám sát
hoạt động tài chính tiền tệ ở tầm vĩ mơ.
3.2.2.6 Chủ động mở cửa, hội nhập với khu vực và quốc tế
Thực hiện mở cửa từng bước thị trường vốn cho NĐT nước ngồi theo lộ trình hội
nhập đã cam kết, đồng thời đảm bảo kiểm soát được luồng vốn vào, vốn ra; mở rộng
hoạt động hợp tác quốc tế trên các mặt tư vấn chính sách, tư vấn pháp luật và phát triển
thị trường;
Đẩy mạnh công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho thị trường vốn; tăng
cường phổ cập kiến thức về thị trường vốn, thị trường CK cho công chúng, DN, và các
tổ chức kinh tế.
3.2.2.7 Đảm bảo an ninh tài chính quốc gia: thực hiện tốt việc giám sát các giao dịch
vốn
Áp dụng các biện pháp kiểm soát luồng vốn chặt chẽ; Trong những trường hợp
cần thiết để giảm áp lực đối với tỷ giá, ngăn ngừa nguy cơ biến dạng và khủng hoảng
trên thị trường, cần có những giải pháp xử lý thích hợp. Các giải pháp này được thể hiện
trong văn bản quy phạm pháp luật và công bố cho NĐT được biết và chỉ áp dụng khi có
những nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh của hệ thống tài chính. Thực hiện cơ chế giám

Trang 24

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam và các giái pháp hoàn thiện


sát đặc biệt với các định chế trung gian yếu kém để giảm thiểu tác động tiêu cực có tính
chất dây chuyền trong tồn hệ thống.
3.2.3 Bảy đề xuất để thị trường CK phát triển:
Để các chủ thể tham gia thị trường có thể thấy được sự phát triển bền vững của thị
trường CK trong lần kỷ niệm 15, 20 năm tới, cần giải quyết 7 vấn đề chính:
Một là, thị trường cần một cơ quan quản lý độc lập, trực thuộc Chính phủ, để có
đầy đủ các thẩm quyền, điều kiện và khả năng ban hành các văn bản pháp quy nhằm xử
lý nhanh, nhạy các vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn giống như mơ hình trước
đây thay vì mơ hình một Ủy ban (cấp Nhà nước) lại trực thuộc Bộ (Bộ Tài chính), phải
qua quá nhiều tầng, nấc như hiện nay.
Đương nhiên, nâng quyền hạn của SSC phải gắn liền với trách nhiệm trong việc
quản lý. Không nên quản lý theo kiểu “cái gì khơng quản được thì cấm”. Việc nghiêm
cấm các CTCK mở đại lý nhận lệnh trước đây (vi phạm Luật DN) hay cấm sử dụng môi
giới tự do như thời gian gần đây (khơng khả thi) là các ví dụ cụ thể.
Hai là, với trên 100 CTCK đang hoạt động, nhằm đáp ứng được các yêu cầu thực
tế của các thành viên, đã đến lúc phải tổ chức lại các Sở giao dịch CK theo mơ hình của
các tổ chức tự quản (self-regulation) với các thành viên là các CTCK theo thơng lệ của
nhiều nước. Trong mơ hình này, các tổ chức tự quản không chỉ được phép xác định các
quy tắc, các quy định điều chỉnh, các hành vi giao dịch trên TTCK, xác định tư cách,
tiêu chuẩn thành viên của Sở giao dịch mà còn xác định hàng loạt các biện pháp kỹ thuật
giám sát thị trường, các chế tài bắt buộc phải tuân thủ các nguyên tắc đã đề ra nhằm bảo
đảm một thị trường công bằng và trật tự.
Ba là, với các diễn biến ngày càng tinh vi trong công nghệ làm giá, thao túng thị
trường, hơn lúc nào hết, TTCK Việt Nam cần một hệ thống công nghệ giao dịch hiện
đại, đủ sức theo dõi, phát hiện và xử lý các hành vi thao túng, lũng đoạn thị trường theo
kiểu “một tay che cả bầu trời”, gây phẫn nộ và bức xúc dư luận trong thời gian gần đây.
Bốn là, cần sửa đổi Luật CK và bổ sung các chế tài mới đầy đủ hơn, xử lý nghiêm
minh hơn, có tính răn đe hơn các hành vi vi phạm nghĩa vụ công bố thông tin, giao dịch
nội gián, thao túng, lũng đoạn thị trường.

Năm là, cần hiện đại hóa các phương tiện cơng bố thơng tin và đa dạng hóa
phương pháp cơng bố thơng tin trên các SGDCK. Song song với việc hoàn thiện hệ
thống cung cấp thông tin qua internet để cung cấp tất cả những thông tin về thị trường
và các thông tin có liên quan đến tổ chức niêm yết. Cần khẩn trương xây dựng mạng
lưới truyền thông (broadcasting network), mạng tin nhắn RSS để phục vụ cho việc cung
cấp thông tin trực tiếp từ tổ chức niêm yết đến các CTCK thành viên và hệ thống mạng
điện thoại trả lời tự động (audio automatic response system) các thông tin do NĐT yêu
cầu.
Sáu là, để kiểm soát rủi ro, cần nâng cao tiêu chuẩn niêm yết trên cả hai SGDCK.
Theo đó, đối với HOSE, môt công ty muốn niêm yết phải có lịch sử hoạt động 5 năm, số
Trang 25

Nhóm 2, Đêm 6 – Khóa 20


×