Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NGHỆ THUẬT ĐÁNH THẮNG TỪNG BƯỚC CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.87 KB, 19 trang )

ĐỀ TÀI: NGHỆ THUẬT ĐÁNH THẮNG TỪNG
BƯỚC CỦA ĐẢNG TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Nhận thức chung về nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong lịch sử
1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm phương pháp cách mạng
1.1.2 Khái niệm “nghệ thuật đánh thắng từng bước”
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật đánh
thắng từng bước
1.3 Sự kế thừa nghệ thuật “đánh thắng từng bước” của cha ông ta từ các cuộc chiến tranh
trước
CHƯƠNG 2: Bối cảnh lịch sử và nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong thời kỳ kháng
chiến chống Mỹ và vận dụng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội
2.1 Bối cảnh lịch sử trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
2.1.1 Bối cảnh thế giới
2.1.2 Bối cảnh trong nước
2.2 Nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
2.2.1 Trong chiến lược “chiến tranh đơn phương”
2.2.2 Trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
2.2.3 Trong chiến lược “chiến tranh cục bộ”
2.2.4 Trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh, Đơng Dương hóa chiến tranh”
2.3 Một số vấn đề có tính ngun tắc của nghệ thuật đánh thắng từng bước
2.4 Vận dụng nghệ thuật “đánh thắng từng bước” vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO




MỞ ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Minh kính u đã có câu:
“Dân ta phải biết sử ta
Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”
Câu nói ấy đã nhắc nhở, răn dạy bao thế hệ, lớp lớp người Việt Nam yêu nước về đạo lý
“Uống nước nhớ nguồn”, lịng thành kính, biết ơn đối với cha ông ta đã ngã xuống hy
sinh vì đất nước, dân tộc Việt Nam và cịn là lịng u nước, tinh thần tự tơn dân tộc.
Nước Việt Nam hình chữ S đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, có một bề dày lịch sử
dựng nước và giữ nước của cha ông ta từ thời các vua Hùng, từ các cuộc chiến đấu anh
dũng của bà Trưng, bà Triệu, Lý Bí,…
Trong cùng dịng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc, cuộc kháng chiến chống Mỹ
cũng là một đốm sáng rực, mạnh mẽ tô điểm cho cả thiên sử của dân tộc. Đế quốc Mỹ
trong giai đoạn (1954 -1975) được coi là bá chủ thế giới với tiềm lực về phương tiện, vũ
khí, quân đội hùng hậu, … tất cả đều lớn mạnh hơn Việt Nam rất nhiều lần, đặc biệt nước
ta vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp gần 10 năm đã tổn thất về người và của rất
nhiều. Cuộc kháng chiến chống Mỹ ở cả hai miền vô cùng gay go, ác liệt ta phải lần lượt
đối phó với các chiến lược chiến tranh của Mỹ: chiến lược chiến tranh đơn phương, chiến
tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ, và chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và Đơng
Dương hóa chiến tranh…
Mỗi một chiến lược chiến tranh của Mỹ đề ra quân và dân ta đều chống trả quyết
liệt, có chiến lược chiến đấu, đề ra các chủ trương, nghị quyết, sách lược đối phó với đế
quốc Mỹ như sử dụng phương pháp bạo lực cách mạng, phát huy sức mạnh tổng hợp,
đánh thắng từng bước,… Trong đó nghệ thuật “đánh thắng từng bước” là phương pháp
cách mạng được sử dụng không chỉ trong các cuộc kháng chiến trước đó của quân và dân
ta mà còn được sử dụng rất hiệu quả trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, đóng góp khơng
nhỏ và thành công của cuộc kháng chiến chống Mỹ vĩ đại của dân tộc.
Nghệ thuật “đánh thắng từng bước” được sử dụng nhiều lần trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc ta có tầm quan trọng khơng chỉ trong q khứ mà ngày nay trong công

cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội vẫn được kế thừa nghệ thuật “đánh thắng từng bước” của
dân tộc ta trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Về mặt nhận thức lịch sử và phương
pháp cách mạng của một số cá nhân còn nhiều hạn chế do cả nguyên nhân chủ quan và
khách quan dẫn tới thiếu cơ sở lý luận và thực tiễn phục vụ cuộc cách mạng tiến lên chủ
nghĩa xã hội trường kỳ của dân tộc.
Xuất phát từ những lý do trên em chọn đề tài “Nghệ thuật đánh thắng từng bước
của Đảng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) làm đề tài kết thúc
học phần môn học Lịch sử Đảng.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Nhận thức chung về nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong lịch sử
1.1 Một số khái niệm liên quan
1.1.1 Khái niệm phương pháp cách mạng
Phương pháp cách mạng là cách thức tiến hành cách mạng với tính chất là một hệ
thống các nguyên tắc ứng xử được thực hiện bằng những hình thức, biện pháp, bước đi
thích hợp. Phương pháp ấy cốt yếu phục vụ cho mục tiêu lý tưởng giải phóng dân tộc
đem lại cuộc sống ấm no cho nhân dân.
1.1.2 Khái niệm “nghệ thuật đánh thắng từng bước”
Thắng từng bước “có nghĩa là ở mỗi thời kỳ nhất định hay mỗi tình thế nhất định,
biết đề ra mục tiêu cụ thể sát hợp nhất, biết dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển
cuộc đấu tranh thế nào để thực hiện mục tiêu đó với mức thắng lợi tối đa mở đường cho
cách mạng tiến lên những bước mới cao hơn và tạo ra triển vọng chắc chắn nhất cho
thắng lợi cuối cùng”.
Đánh thắng từng bước là ở mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ nhất định phải đề ra mục
tiêu cụ thể hợp lý nhất cho thời kỳ đó, biết dựa theo quy luật khách quan mà điều khiển
cuộc đấu tranh để thực hiện mục tiêu một cách thành công nhất, từng bước mở ra con
dường thắng lợi cho cách mạng và đưa cách mạng tiến dần tới thắng lợi hoàn toàn.
Phương phát đánh thắng từng bước xuất phát từ quan điểm thực tiễn, quan điểm lịch sử
-cụ thể, quan điểm phát triển biện chứng từ tuần tự đến nhảy vọt, biến đổi từ từ về lượng

dẫn đến biến đổi căn bản về chất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra phương pháp này cho tồn
bộ tiến trình cách mạng Việt Nam, từ khởi nghĩa giành lấy chính quyền tới đấu tranh
chống ngoại xâm và cả trong công cuộc xây dựng đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nghệ thuật đánh
thắng từng bước
Tư duy khoa học và biện chứng ấy của đồng chí Lê Duẩn được thể hiện hết sức linh hoạt
và sáng tạo trong quá trình thực hiện tư tưởng “biết thắng từng bước cho đúng”. Đồng chí
Lê Duẩn cho rằng: “Khơng lĩnh vực nào địi hỏi người cách mạng phát huy trí sáng tạo
nhiều như lĩnh vực phương pháp tiến hành cách mạng. Cách mạng là sáng tạo; khơng
sáng tạo thì cách mạng khơng thể thắng lợi. Xưa nay khơng có và sẽ khơng bao giờ có
một cơng thức duy nhất về cách tiến hành thích hợp với mọi hoàn cảnh, mọi thời gian”
Sự tổng kết này là hết sức quan trọng và đặc sắc, thể hiện sinh động tư tưởng của
V.I. Lênin: Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo. V.I. Lênin đã từng nói, người nào
khơng xem xét đến hồn cảnh lịch sử cụ thể, tức là không hiểu những điều sơ đẳng nhất
của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Thực hiện tư tưởng chỉ đạo này, cách mạng Việt Nam


đã từng bước trưởng thành, lớn mạnh; vừa tránh được những va vấp, sai lầm chủ quan,
duy ý chí, nóng vội, đốt cháy giai đoạn; vừa phát huy cao độ tinh thần chủ động, linh
hoạt, sáng tạo, quyết đoán, biết chớp lấy thời cơ để giành thắng lợi; từ thắng lợi nhỏ, cục
bộ, bộ phận đi tới thắng lợi lớn, toàn diện, toàn thắng.
Trên cơ sở quán triệt phương pháp cách mạng “biết thắng từng bước cho đúng”,
trong mỗi thời kỳ hay mỗi tình huống của cuộc đấu tranh cách mạng, Đảng ta đã xác định
đúng mục tiêu, tích cực xây dựng và phát triển lực lượng; phân tích, lựa chọn, tổ chức
từng trận đánh, vừa tuân theo quy luật khách quan, vừa phát huy cao độ nhân tố chủ quan
để phát triển lực lượng, từng bước thực hiện thắng lợi mục tiêu của cách mạng. Tư
tưởng“biết thắng từng bước cho đúng”, cũng chứa đựng chiều sâu của tư duy chỉ đạo
mang tính kinh điển “dĩ bất biến ứng vạn biến”, “biết địch biết ta, trăm trận trăm
thắng”,...
Nghệ thuật quân sự Hồ Chí Minh cịn là đánh lui từng bước, đánh đổ từng bộ

phận, tiến tới đánh đổ hoàn toàn. "Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào" (Thơ "Xuân
1968"), chủ đổ, tớ ắt phải đổ theo; là nghệ thuật khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng khởi
nghĩa.
1.3 Sự kế thừa nghệ thuật “đánh thắng từng bước” của cha ông ta từ các cuộc chiến tranh
trước
Điển hình như trong giai đoạn 1939 – 1945 nghệ thuật đánh thắng từng bước được
thể hiện: Thứ nhất, kiên định mục tiêu chiến lược, dồng thời xác định nhiệm vụ mục tiêu
cụ thể trước mắt: Tập trung lực lượng cách mạng đánh đổ kẻ thù chủ yếu là đế quốc và bè
lũ bán nước tay sai, giải phóng dân tộc. Nhiệm vụ đánh phong kiến, tiến hành từng bước
nhằm phân hóa kẻ thù, tập hợp lực lượng rộng rãi tập trung chống đế quốc và bọn tay sai,
hoàn thành nhiệm vụ chủ yếu trước mắt. Thứ hai, khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền:
tập trung lực lượng đánh đế quốc, thực dân giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu. Tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất (khơng đánh tồn bộ địa chủ phong kiến, đánh một phận
quan trọng nhất)
Hay trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ( 1945 – 1954) giai đoạn 1945 1946 lại được thể hiện như sau: Thứ nhất, kiên định mục tiêu chiến lược: chống đế quốc
và phong kiến giành độc lập dân tộc, ruộng đất cho dân cày hoàn thành cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân đi lên chủ nghĩa xã hội. Thứ hai, chỉ thị “Kháng chiến kiến quốc”
(25/11/1945) xác định nhiệm vụ trước mắt: củng cố chính quyền cách mạng, chống thực
dân Pháp, bài trừ nội phản, cải thiện đời sống nhân dân -> Trong đó, nhiệm vụ trọng tâm
là củng cố, giữ vững chính quyền cách mạng). Thứ ba, chủ trương: tạm hịa hỗn, kéo dài
thời gian hịa bình, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc chiến đấu sắp tới. Phát động
toàn quốc kháng chiến, thực hiện kìm chế, giam chân địch trong các thành phố, đô thị
(nhất là Hà Nội), bảo tồn, giữ vững lực lượng.


Ngồi ra cịn rất nhiều chiến dịch sử dụng nghệ thuật “đánh thắng từng bước”, và
nghệ thuật này luôn được vận dụng sáng tạo, biến đổi theo từng tình hình, giai đoạn lịch
sử nhất định của dân tộc mang tính chiến lược, lâu dài của quân và dân ta.
CHƯƠNG 2: Bối cảnh lịch sử và nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ và vận dụng trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội

2.1 Bối cảnh lịch sử trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
2.1.1 Bối cảnh thế giới
Chủ nghĩa xã hơi đã hình thành một hệ thống và các nước đều trong q trình
khơi phục đẩy mạnh sự phát triển kinh tế của mình tạo chỗ dựa vững chắc cho nhân dân
Việt Nam.
Liên Xô đạt được những thành tựu đáng kể, từ năm 1956-1961 gần 6000 xí nghiệp
lớn được xây dựng và đi vào hoạt động như nhà máy thủy điện sông Voonga. Nhiều
ngành sản xuất nơng nghiệp có bước phát triển lớn, mặc dù trong chiến tranh có sự tàn
phá nặng nề. về khai thác than 1957 Liên Xô chiến 20 % tổng sản lượng thế giới. Tình
hữu nghị Liên Xơ với nhiều nước Á – Phi được củng cố. Bên cạnh Liên Xô các nước
Đông Âu ( Tiệp Khắc, Ba lan, Nam Tư, Rumani……) sau khi hoàn thành các mạng dân
chủ nhân dân đã bước vào xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngày 8/8/1949 hội đồng tương trợ
kinh tế SEV với sự tham gia của của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu sau đó mở
rộng nhằm hợp tác phát triển kinh tế giữa các nước xã hội chủ nghĩa.
Trung Quốc sau cách mạng thành công ( tháng 10-1949) nhân dân Trung Quốc đã
triển khai kế hoạch phục hồi đất nước. Đến năm 1954 giá trị tổng sản lượng công nghiệp
tăng gấp 2,2 lần so với năm 1949. Công cuộc hợp tác hóa nơng nghiệp cũng đạt được
nhiều kết quả, năm 1950 chỉ có 11% thì năm 1955 có 60% số hộ vào hợp tác xã. Ngồi ra
đảng chính phủ nhân dân Trung Hoa cịn tích cực giúp đỡ các anh em trong hệ thống xã
hội chủ nghĩa ( trong đó có Việt Nam ), ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc và phong
trào hịa bình thế giới.
Mặt trận thế giới phản đối Mĩ, ủng hộ Việt Nam
Ngày 4/7/1959, ban thư kí hội đồng đồn kết nhân dân Á – Phi họp ở Cario đã kêu
gọi các ủy ban đoàn kết nhân dân Á, Phi và toàn thể nhân dân u chuộng hịa bình thế
giới lấy ngày 20-7 là “ Ngày Việt Nam” nội dung hoạt động trong ngày Việt Nam là ủng
hộ cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam, địi thì hành đầy đủ hiệp định Giơ-ne-vơ, đòi
Mĩ rút khỏi miền Nam Việt Nam, đòi Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam bằng thương lượng
của 2 miền, địi chính quyền Diệm chấm dứt khủng bố, tàn sát nhân dân miền Nam, hủy
bỏ luật lệ phát xít, địi hiệp thương tổng tuyển cử để hịa bình thống nhất nước Việt Nam.
Ngày 20-7 “ Ngày Việt Nam” đầu tiên được 20 nước tổ chức trọng thể.



Sự đồn kết giúp đỡ tồn diện có hiệu quả của các nước trên thế giới, các nước xã
hội chủ nghĩa nhất là của Trung Quốc vá Liên Xô từ vũ khí trang phục chiến tranh, lương
thực, ngoại tệ đến cả vật tư kĩ thuật và hàng tiêu dùng thông dụng đã góp phần quan trọng
tăng cường khả năng và sức mạnh chiến đấu của quân đội ta và nhân dân ta. Sự ủng hộ và
cổ vũ của nhân dân trên thế giới đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của nhân ta, nó
cũng góp một phần làm lên thắng lợi của nhân dân ta.
Sự bất đồng và cấu kết giữa các nước lớn Liên Xô – Trung Quốc –Mĩ
Từ giữa những năm 50, Liên Xô thực hiện chiến lược cùng tồn tai hịa bình và hịa
hỗn với Mĩ và phương Tây để tập trung xây dựng kinh tế. Ngược lại Mĩ và phe đế quốc
cũng muốn hòa hỗn với Liên xơ để tập trung đối phó với phong trào cách mạng thế giới.
Năm 1955 tại Gionevo và 1959 tại Mĩ đã diễn ra các các cuộc gặp gỡ cao cấp Xô- Mĩ. Cả
Liên Xô và Mĩ đều lên án cuộc chiến tranh Xâm lược của Anh , Pháp. Liên Xơ và Mĩ đều
thúc đẩy kí hiệp ước Gionevo của Lào 1962. Việc giải quyết cuộc khủng hoảng ở Beclin
năm 1962 và cuộc khủng hoảng tên lửa ở Cuba 1962. Tất cả chứng tỏ Liên Xô và Mĩ đều
muốn tránh một cuộc chiến Tranh giữa 2 nước và giải quyết hịa bình các xung đột. Chiến
lược hịa hỗn Xô- Mĩ đã làm nổ ra công khai sự bất đồng sâu sắc giữa Liên Xô – và
Trung Quốc vào đầu những năm 60. Từ cuối những năm 60 Trung Quốc ra sức hoạt động
trên trường quốc tế hy vọng xóa bỏ thế 2 cực Xơ- Mĩ để trở thành cực thứ 3.
Sự bất đồng trên đã dẫn tới cuộc chiến tranh biên giới giữa Liên Xô và Trung
Quốc 2 nước coi nhau là thù. Điều này thiệt hại lớn cho chủ nghĩa xã hội và phong trào
cách mạng thế giới. Điều đáng chú ý là Xô – Trung xung đột trong khi Mĩ đang bị yếu thế
và sa lầy trong chiến tranh Việt Nam và trong tình thế có mâu thuẫn giữa các nước đế
quốc nhất là giữa Pháp – Mĩ – Anh. Chính từ đó đế quốc Mĩ đã lợi dụng sự thù địch giữa
Liên Xô và Trung Quốc để chơi con bài Trung Quốc, đồng thời Mĩ cũng hịa hỗn với
Liên Xơ và Trung Quốc để gây sức ép cho Việt Nam.
2.1.2 Bối cảnh trong nước
Ở miền Bắc, đến ngày 10/10/1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà Nội và
ngày 16/5/1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi

hịa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương
chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ
nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở miền Nam, đế quốc Mỹ nhảy vào thay chân Pháp nhằm biến miền Nam thành
thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ. Trước khi Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký
kết, ngày 7/7/1954 Mỹ đã đưa Ngơ Đình Diệm về Sài Gịn làm Thủ tướng Chính phủ bù
nhìn thay Bửu Lộc. Ngày 17/7/1955, theo chỉ đạo của Mỹ, Diệm tuyên bố không hợp
thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước và ngày 23/10/1955 đã tổ chức cái gọi là
“trưng cầu dân ý” để phế truất Bảo Đại, đưa Ngơ Đình Diệm lên làm Tổng thống. Sau khi


dựng lên chính quyền Ngơ Đình Diệm, Mỹ - Diệm đã liên tiếp mở các cuộc hành quân
càn quét để bình định miền Nam, áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, chia cắt lâu dài đất
nước ta.
2.2 Nghệ thuật “đánh thắng từng bước” trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhân dân ta phải đương đầu với tên đế
quốc đầu sỏ, có tiềm lực kinh tế và quân sự mạnh nhất trong phe đế quốc.
Đảng ta: Kế thừa và phát triển nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong quá
trình đấu tranh giành chính quyền(1930-1945) và trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp (1945-1954), nâng cao nghệ thuật này trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
đó là: đánh lui từng bước đánh đổ từng bộ phận quân địch, từ giành thắng lợi quyết định
tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta đã chỉ đạo lần lượt đánh
thắng bốn chiến lược chiến tranh của bốn đời tổng thống Mỹ tạo ra thắng lợi quyết định
để từng bước tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn ngày 30/4/1975.
2.2.1 Trong chiến lược “chiến tranh đơn phương” (1954 – 1960)
Về đặc điểm tình hình: Sau năm 1954 so sánh lực lượng giữa ta và địch trên chiến
trường miền Nam có sự thay đổi lớn có lợi cho địch, bất lợi cho ta, do ta chuyển quân tập
kết ra Bắc, thực dân Pháp và thế lực phản động tay sai tập trung vào miền Nam theo quy
định của Hiệp định Giơnevơ.

Về chủ trương:
Đảng chủ trương phải giữ gìn lực lượng chuẩn bị cho cuộc đấu tranh mới cao hơn
(thời kỳ này ta đấu tranh chính trị ở hình thức thấp). -> Nhưng kẻ địch cố tình phá hoại
Hiệp định Giơnevơ dùng “chiến tranh một phía” đàn áp dã man tàn bạo, trả thù những
người đã từng tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược
Đảng đã kịp thời ra Nghị Quyết 15 (1&7/1959).
Nghị quyết chỉ rõ: “Con đường phát triển cơ bản của cách mạng Việt Nam ở miền
Nam là khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền. Muốn đạt được mục tiêu đó cần phải có
một q trình đấu tranh lâu dài, tiến tới những hình thức thấp, từ đẩy lùi chính quyền địch
từng bước đến những hình thức cao với những chuyển biến làm lay chuyển tận gốc chính
quyền đó và cuối cùng phát động quần chúng khởi nghĩa đánh đổ chế độ Mỹ - Diệm khi
có thời cơ”.
Về nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam ở miền Nam, Nghị quyết chỉ rõ:
Nhiệm vụ cơ bản là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc và phong
kiến, thực hiện độc lập dân tộc và người cày có ruộng, hồn cảnh cách mạng dân tộc dân


chủ nhân dân ở miền Nam, xây dựng một nước Việt Nam hịa bình, thống nhất, độc lập
và giàu mạnh.
Nhiệm vụ trước mắt là đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ
xâm lược và gây chiến, đánh đổ tập đồn thống trị độc tài Ngơ Đình Diệm, tay sai của đế
quốc Mỹ, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền Nam, thực hiện
độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hịa
bình, thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo
vệ hịa bình ở Đơng Nam Á và thế giới.
Phương hướng phát triển của cách mạng miền Nam: Ngoài con đường cách mạng,
nhân dân miền Nam khơng cịn con đường nào khác, cho nên con đường phát triển cơ bản
của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân đó là lấy sức
mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp
với lực lượng vũ trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên

chính quyền cách mạng của nhân dân.
Nghị quyết chỉ rõ ở miền Nam cần có mặt trận dân tộc thống nhất riêng cho phù
hợp với tính chất và nhiệm vụ của cách mạng nhằm tập hợp rộng rãi tất cả các lực lượng
chống đế quốc và tay sai. Nghị quyết khẳng định vai trò lãnh đạo quan trọng của Đảng bộ
miền Nam và nhận định vấn đề mấu chốt, hết sức cấp bách hiện nay là củng cố, xây dựng
Đảng.
Về kết quả: Nghị Quyết 15 cuả Đảng soi sáng, cách mạng miền Nam có bước phát
triển mạnh mẽ: bằng cách cuộc đồng khởi (khởi nghĩa từng phần ở nông thơn) nhân dân
ta đã làm phá sản hồn tồn chiến lược của Aixenhao, chuyển cách mạng từ thế giữ gìn
lực lượng sang thế chiến lược tiến công, tạo cơ sở vững chắc cho nhân dân ta đánh bại
chiến lược chiến tranh mới của đế quốc Mỹ.
2.2.2 Trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965)
Về âm mưu của địch: Đế quốc Mỹ tiến hành “chiến tranh đặc biệt” với công thức:
quân Ngụy + cố vấn + trang bị Mỹ. Nhằm càn quét, bình định gom dân lập ấp chiến lược
“Tát nước bắt cá”, cô lập và tiêu diệt lực lượng cách mạng. -> Chúng dùng miền Nam
làm nơi thí điểm loại “chiến tranh đặc biệt” nhằm chống lại phong trào giải phóng dân tộc
của nhân dân ta và nhân dân nhiều nước trên thế giới.
Về chủ trương của Đảng:
Nghị quyết Bộ Chính Trị (1/1961) và Nghị quyết Trung ương 9 (12/1963) vạch rõ
con đường phát triển tất yếu của cách mạng miền Nam:
Từ khởi nghĩa từng phần ở nông thôn phát triển thành chiến tranh cách mạng
(chứ không thể tiến lên tổng khởi nghĩa như trong cách mạng Tháng Tám 1945),


Phải liên tục tiến công, vừa tiến công vừa tự vệ, tiếp tục phát triển lực lượng
chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh quân sự đưa
cách mạng tiến lên không ngừng.
Đảng cũng chỉ ra mục tiêu cụ thể là phải đánh cho quân Ngụy suy sụp và quyết
tâm giành thắng lợi quyết định với mức thắng lợi tối đa. Phải kiềm chế thắng địch trong
chiến tranh đặc biệt.

Về kết quả: Nhờ có chủ trương, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, cách mạng miền Nam
đã phát triển mạnh mẽ, sôi nổi. Các cuộc khởi nghĩa từng phần liên tục diễn ra ngày càng
mạnh mẽ phát triển thành chiến tranh cách mạng và kết hợp với chiến tranh cách mạng,
trong đó du kích cục bộ là bước mở đầu. Khởi nghĩa từng phần càng mở rộng phạm vi
hoạt động thì càng thúc đẩy chiến tranh cánh mạng phát triển ngày càng cao. Ngược lại
chiến tranh cách mạng càng được đẩy mạnh thì càng làm cho điều kiện khởi nghĩa chín
muồi. -> Nhân dân ta đã đánh thắng chiến lược “chiến tranh đặc biệt” tạo ra điều kiện căn
bản để giành thế chủ động đánh thắng chiến lược “chiến tranh cục bộ” .
Về hạn chế: Chúng ta đánh thắng địch trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt”
nhưng chúng ta không giành được thắng lợi tối đa như mục tiêu đã vạch ra -> Nguyên
nhân chủ yếu là chúng ta phát triển lực lượng không theo kịp tình hình.
2.2.3 Trong chiến lược “chiến tranh cục bộ” (1965 – 1968)
Về âm mưu: Thất bại trong chiến lược “chiến tranh đặc biệt” và đứng trước nguy
cơ sụy đổ hoàn toàn, đế quốc Mỹ bị động, chúng chuyển sang tiến hành chiến lược
“chiến tranh cục bộ”: quân Mỹ và đồng minh + Ngụy+ vũ khí trang bị, ở miền Nam, tiến
hành cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân đối với miền Bắc hòng cứu
vãn sự sụp đổ của ngụy quân, ngụy quyền tay sai. -> Đến cuối 1965, Tổng số quân Mỹ và
đồng minh của Mỹ vào miền Nam đã lên tới 20 vạn tên, gồm 18 vạn quân Mỹ hơn 2 vạn
quân chư hầu.
Về chủ trương của Đảng: Hội nghị lần thứ 11(3/1965) và Hội nghị lần thứ 12
(12/1965) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã xác định:
Do những thất bại nặng nề của địch và những thắng lợi to lớn của ta, đế quốc Mỹ
đưa vào miền Nam Việt Nam hàng chục vạn quân viễn chinh Mỹ, mặc dù như vậy, lực
lượng đối sánh giữa ta và địch căn bản không thay đổi.
Nêu cao quyết tâm động viên lực lượng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: kiên
quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ trong bất kể tình huống nào,
để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước, tiến tới thực hiện hịa bình thống nhất nước nhà.



Quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài, chúng ta cần phải cố gắng đến
cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ thời cơ giành thắng lợi quyết
định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến trường miền Nam.
Về kết quả: Thực hiện quyết tâm của Đảng theo tình thần Nghị quyết Trung ương
11,12: Nhân dân miền Nam đã giữ vững thế chủ động, liên tục tiến công, không những
tiêu diệt nhiều đơn vị lớn quân Ngụy mà còn trực tiếp đánh thắng quân Mỹ nhiều trận
lớn. -> Quân và dân miền Nam đã mở hàng loạt trận phản công đánh bại các cuộc hành
quân của Mỹ-ngụy, đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khơ 1965-1966 và 19661967 loại ra vịng chiến dấu 290.000 tên địch trong đó có 128.000 quân Mỹ và chư hầu.
Thắng lợi của quân, dân ta ở miền Nam đập tan hai cuộc phản công chiến lược mùa khô,
đã làm thất bại một bước quan trọng chiến lược “chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ,
làm cho hàng ngũ địch thêm mâu thuẫn, đẩy địch vào thế phòng ngự, bị động hơn trước.
Ta ngày càng phát triển thế chiến thắng, thế chủ động và thuận lợi, địch ở thế thua, thế bị
động và khó khăn. => Hội nghị Trung ương 14 chủ trương mở cuộc tiến công và nổi dậy
đồng loạt Tết Mậu thân nhằm giáng một địn quyết định vào ý chí xâm lược của Mỹ.
Thực hiện chủ trương đó, ngày 30 – 31/1/1968 quân dân miền Nam đồng loạt tiến công
và nổi dậy ở 64 thành phố và thị xã và ở nhiều vùng nông thơn sát đơ thị. Chính quyền
cách mạng được thành lập ở Huế và nhiều vùng nơng thơn mới giải phóng.
Về ý nghĩa:
Cuộc tiến công và nổi dậy dầu xuân 1968 là một đòn sấm sét đánh vào Mỹ-Ngụy.
Thắng lợi của cuộc tiến cơng và nổi dậy tết Mậu Thân có ý nghĩa chiến lược to lớn
và toàn diện: làm đảo lộn chiến lược của địch; làm lung lay ý chí xâm lược của Mỹ; làm
phá sản chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Giônxơn, buộc chúng phải chấm dứt chiến
tranh phá hoại miền Bắc và phải chấp nhận đàm phán với ta.
Thắng lợi đã làm chấn động dư luận nước Mỹ và làm giảm sút ý chí xâm lược của
chúng buộc đế quốc Mỹ phải đưa ra chiến lược chiến tranh mới “Việt Nam hóa chiến
tranh”.
Về hạn chế:
Chủ quan trong việc đánh giá tình hình, nên đã đề ra yêu cầu chưa thật sát với tình
hình thực tế -> sau đợt tấn công tết Mậu Thân (1968), ta đã kịp thời kiểm điểm rút kinh
nghiệm ngay, đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp thời.

Ta đã chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta,
khơng đánh giá hết âm mưu của địch trong kế hoạch bình định nơng thơn nhằm thực hiện
chính sách “Việt Nam hóa chiến tranh” của Nichxơn -> Nên ta gặp lại khó khăn trong
một thời gian.


2.2.4 Trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh, Đơng Dương hóa chiến tranh”
(1968- 1975)
Về âm mưu: rút quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam mà vẫn giữ được chính
quyền tay sai Nguyễn Văn Thiệu. -> “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm kéo dài chiến
tranh xâm lược, từng bước rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam và ngụy quân, ngụy quyền vẫn
mạnh lên.
Về chủ trương:
1/1/1969 trong khi chúc mừng năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nhiệm vụ
của đồng bào và chiến sĩ cả nước trong thời kỳ mới là “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 18 (1/1970) đã tổng kết quá trình thắng từng
bước trước đây, chỉ ra nội dung và bước đi của thắng lợi quyết định từ 1968-1975:
Về nội dung: giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh
cho Mỹ phải rút hết quân, đánh cho ngụy sụp. Ta làm chủ phần lớn nông thôn các vùng
chiến lược quan trọng, các vùng xung quanh đơ thị.
Về bước đi: q trình giành thắng lợi quyết định cũng là một quá trình ta tiến lên
từng bước, đẩy lùi địch từng bước
Về kết quả:
Quân và dân ta ở miền nam đã liên tục tấn công trong năm 1970-1971, thắng lớn ở
Cánh Đồng Chum, ở Cămpuchia, ở đường 9 Nam Lào. -> Chiến thắng ở mặt trận đường
9 Nam Lào mở ra khả năng đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Trên mặt trận ngoại giao, ta đã triển khai cuộc đấu tranh trực diện với Mỹ tại cuộc
đàm phán ở Pari (Pháp).
Thắng lợi to lớn của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 và chiến công xuất sắc

của quân và dân miền Bắc đập tan cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà
Nội, Hải Phịng -> Chính phủ Mỹ phải ký Hiệp định Pari chấm dứt chiến tranh,lập lại hịa
bình ở Việt Nam (27/1/1973). Quân Mỹ buộc phải chấp nhận giải pháp rút khỏi miền
Nam, tạo ra so sánh lực lượng mới có lợi cho cách mạng nước ta, mở ra khả năng tiến lên
đánh cho ngụy nhào, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả
nước. Đây là giai đoạn giành thắng lợi quyết định (đánh cho Mỹ cút)
Về tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn (1973-1975)
Hoàn cảnh: Tháng 7/1973 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 21, Đảng xác định
nhiệm vụ của cách mạng miền Nam sau Hiệp định Pari được ký kết: Đoàn kết tồn dân,
đấu tranh trên ba mặt trận chính trị, qn sự, ngoại giao một cách hết sức chủ động, linh


hoạt tùy theo từng lúc, từng nơi mà kết hợp giữa các mặt trận đó cho thích hợp để buộc
địch phải thi hành nghiêm chỉnh Hiệp định Pari về Việt Nam không ngừng giữ vững và
phát triển lực lượng cách mạng về mọi mặt, thắng địch từng bước và chủ động trong mọi
tình huống đưa cách mạng miền Nam tiến lên
Chủ trương:
Hội nghị Bộ Chính trị (10/1974) và Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
(1/1975) nhận định so sánh lực lượng giữa ta và địch trên phạm vi cả nước và chiến
trường miền Nam đã có những chuyển biến cơ bản, ta đã mạnh hơn địch:
Hội nghị quyết định: Động viên nỗ lực của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả
hai miền giải phóng hồn tồn miền Nam trong thời gian 1975-1976 .
Hội nghị nhấn mạnh: Phải ra sức chuẩn bị mọi mặt để khi có thời cơ lịch sử thì
giải phóng MN ngay năm 1975.
Hội nghị Bộ Chính trị 25/3/1975 Đảng ta chủ trương giải phóng miền Nam trước
mùa mưa 1975.
Hội nghị Bộ Chính trị (31/3/1975) quyết định: giải phóng Sài Gịn tốt nhất trong
tháng 4/ 1975.
Kết quả: Thực hiện chủ trương nhạy bén, kịp thời của Đảng, quân và dân cả nước
đã dốc sức để giải phóng miền Nam hồn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân

trong cả nước. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 giành thắng lợi vang dội
mở đầu là chiến dịch Tây Nguyên (10/3 đến 24/3/1975), thắng lợi của chiến dịch Huế Đà Nẵng (24-29/3/1975), Chiến dịch Hồ Chí Minh(26-30/4/1975) lịch sử kết thúc thắng
lợi tồn bộ cuộc KC chống Mỹ, cứu nước.
Tóm lại: Q trình phát triển của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở nước ta là
q trình phát triển, vừa có tính liên tục vừa có tính giai đoạn; là q trình giành thắng lợi
từng bước đi đến thắng lợi toàn bộ; thắng lợi trước tạo tiền đề cho thắng lợi sau, thắng lợi
của giai đoạn sau kế thừa và phát huy thắng lợi của giai đoạn trước, cách mạng đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn. Đại hội IV của Đảng
đã tổng kết : Trong điều kiện lấy nhỏ đánh lớn, phải biết thắng từng bước nhằm đánh bại
những âm mưu chính trị, quân sự của địch trong từng thời kỳ, đẩy lùi từng bước, không
ngừng củng cố trận địa cách mạng tạo thế và lực hơn hẳn địch để tiến lên giành thắng lợi
hồn tồn.
2.3 Một số vấn đề có tính ngun tắc của nghệ thuật đánh thắng từng bước
Thứ nhất, luôn luôn kiên định mục tiêu chiến lược, biết đề ra mục tiêu biện pháp
cụ thể chính xác cho mỗi thời kỳ cách mạng.


Về cơ sở: Xuất phát từ tư tưởng cách mạng khơng ngừng của Lênin: cách mạng
vừa có tính liên tục vừa có tính giai đoạn. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa mục
tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể: đòi hỏi trong mỗi thời kỳ cách mạng biết nhạy bén đề
ra mục tiêu, biện pháp thích hợp nhằm giành thắng lợi tối đa mở đường tiến lên giành
thắng lợi cho mục tiêu cuối cùng.
Về yêu cầu:
Phải tuân thủ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về xác định mối
quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu trước mắt. Mục tiêu trước mắt luôn hướng
tới mục tiêu chiến lược.
Khi xác định đường lối phải đáp ứng nguyện vọng bức thiết của quần chúng cách
mạng nhưng phải phù hợp thực tế cách mạng trong thời gian đó. Chống khơng quan tâm
đến nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của quần chúng, đồng thời chống khơng phân tích
khả năng cách mạng nên đảng viên theo đi quần chúng.

Xác định mục tiêu, nhiệm vụ, biện pháp phải phù hợp tình hình thực tiễn thế giới,
trong nước, các mối quan hệ, tương quan so sánh lực lượng ta và địch, phải dự báo và
đón trước được xu hướng vận động của tình hình.
Cần chống tư tưởng “tả khuynh” nơn nóng, muốn ngay một lúc thực hiện mục tiêu
cuối cùng bất chấp quy luật và điều kiện khách quan đồng thời chống tư tưởng “hữu
khuynh” thỏa mãn dừng lại coi mục tiêu trước mắt là tất cả, từ bỏ, xa rời mục tiêu cơ bản
lâu dài.
Thứ hai,quán triệt tư tưởng tiến cơng, vừa chống bảo thủ trì trệ, vừa chống nơn
nóng chủ quan
Về cơ sở: Từ chủ nghĩa Mác- Lênin về bản chất cách mạng là tiến công, không
tiến công thì cách mạng khơng thể giành được thắng lợi. Từ vai trị của tư tưởng chiến
lược tiến cơng với đấu tranh cách mạng của giai cấp vô sản, tư tưởng đó cũng phản ánh
tính quy luật đấu tranh của một dân tộc nhỏ chống lại thế lực đế quốc lớn mạnh. Từ quan
điểm thắng từng bước không phải là kéo dài lê thê mà phải quán triệt tư tưởng chiến lược
tiến cơng với hình thức, phương pháp, bước đi thích hợp. Từ đặc điểm của cuộc chiến
tranh giải phóng dân tộc thường đi từ khơng đến có, từ nhỏ đến lớn, từ chưa hồn chỉnh
đến hồn chỉnh. Trong khi đó giai cấp thống trị nắm trong tay bộ máy bạo lực phản cách
mạng đồ sộ quyết đè bẹp phong trào cách mạng của quần chúng. Cho nên các lực lượng
phải tiến công không ngừng và biết tiến công địch từ nhỏ đến lớn để chuyển hóa so sánh
thế và lực tạo cơ sở giành thắng lợi ngày càng lớn hơn.
Về yêu cầu:
Phải chủ động tích cực xây dựng thực lực cách mạng ngày càng lớn mạnh; sử
dụng kết hợp các lực lượng, các hình thức đấu tranh có thể huy động được trên các địa


bàn khác nhau; giải quyết đúng đắn mối quan hệ tiến công trong thời gian và không gian
khác.
Tư tưởng chiến lược tiến cơng địi hỏi phải liên tục tiến cơng, đánh lui từng bước
đánh đổ từng bộ phận tiến lên đánh đổ hoàn toàn quân địch. Muốn thắng từng bước phải
tiên công từ nhỏ đến lớn, từ bộ phận đến tồn cục.

Tư tưởng tiến cơng phải thể hiện ngay cả lúc cách mạng gặp khó khăn, phải tạm
thời phịng ngự, tạm thời chấp nhận những giải pháp bất lợi nào đó. Phải kiên quyết
chống bảo thù trì trệ, chờ thời, đồng thời chống chủ quan nơn nóng muốn đánh nhanh
thắng nhanh khi điều kiện chưa cho phép.
Giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển cách mạng một cách tuần tự với phát
triển một cách nhảy vọt.
Thứ ba, nắm chắc thực tiễn, hành động theo quy luật khách quan, kịp thời thay đổi
chủ trương, biện pháp thích hợp giành thắng lợi cho cách mạng
Về cơ sở: Xuất phát từ chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn: từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn. Xuất phát từ vai trò của thực tiễn đối với cách mạng: Thực tiễn là căn cứ khoa
học để xem xét và giải quyết mọi vấn đề nảy sinh trong cuộc sống và hoạt động. Thực
tiễn là căn cứ khách quan để cho Đảng vô sản định ra đường lối, phương pháp cách mạng
đúng đắn và cũng là cơ sở duy nhất để kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển đường lối,
phương pháp cách mạng. Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn: Thực tiễn rất phong phú,
sinh động và biến đổi nhanh chóng khơng ngừng. Do đó muốn giành thắng lợi trong đấu
tranh cách mạng phải luôn luôn nắm chắc thực tiễn, bám sát tình hình, hành động theo
quy luật khách quan kịp thời thay đổi chủ trương chính sách, biện pháp khi cần thiết.
Xuất phát từ đặc điểm thực tiễn cách mạng mỗi nước: cách mạng mỗi nước phát triển,
vận động theo quy luật chung nhưng những quy luật đó bao giờ cũng biểu hiện một cách
cụ thể, riêng biệt phù hợp với điều kiện lịch sử của mỗi nước.
Về yêu cầu:
Phải sâu sát vào phong trào cách mạng của quần chúng để nắm chắc nguyện vọng,
khả năng cách mạng của quần chúng đồng thời phân tích đầy đủ các nhân tố tác động để
đề ra chủ trương biện pháp đúng đắn.
Phải thường xuyên dự báo xu hướng vận động thực tiễn một cách khoa học, có kế
hoạch, chủ động đón trước khi thực tiễn thay đổi, kịp thời đề ra hoặc điều chỉnh bổ sung
phù hợp.
2.4 Vận dụng nghệ thuật “đánh thắng từng bước” vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam hiện nay



Bước vào thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam có
những thuận lợi, song cũng gặp khơng ít khó khăn. Khó khăn lớn nhất là nền kinh tế sản
xuất nhỏ, năng suất lao động thấp và những hậu quả nặng nề do chiến tranh để lại. Trong
quan hệ quốc tế, chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động bên ngồi ln tìm mọi cách
phá hoại, bao vây, cấm vận, gây khó khăn cho cách mạng Việt Nam. Trên thế giới, phong
trào cộng sản và công nhân Quốc tế trải qua nhiều diễn biến phức tạp: chủ nghĩa xã hội
lâm vào khủng hoảng, thoái trào, đặc biệt là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và Đông Âu. Tình hình đó đã tác động, ảnh hưởng rất lớn đến sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong 10 năm (1975-1985), cách mạng Việt Nam đã
vượt qua những khó khăn tưởng chừng khơng vượt qua nổi. Với tinh thần nhìn thẳng vào
sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, tại Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986),
Đảng đã nghiêm khắc kiểm điểm, khẳng định những mặt làm được, phân tích rõ những
sai lầm, khuyết điểm, đặc biệt là khuyết điểm chủ quan, duy ý chí trong lãnh đạo xây
dựng, phát triển kinh tế - xã hội. Thật đáng tiếc, chúng ta đã mắc phải những sai lầm,
khuyết điểm do việc không quán triệt tư tưởng “biết thắng từng bước cho đúng”. Chúng
ta đã để cho tư duy chủ quan, nóng vội, đốt cháy giai đoạn dẫn dắt cách nghĩ, cách làm
của chúng ta. Và chúng ta đã phải trả giá đắt cho những sai lầm, khuyết điểm ấy. Không
chỉ trên các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp, phân phối lưu thông, cải tạo kinh tế tư
bản tư nhân mà cả trong văn hóa, quốc phịng, an ninh, đối ngoại.
Trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường,
việc tiếp tục quán triệt tư tưởng và phương pháp cách mạng “biết thắng từng bước cho
đúng” vẫn mang tính thời sự. Về một phương diện nào đó, những thành quả to lớn có ý
nghĩa lịch sử chúng ta đã giành được qua hơn 30 năm đổi mới cũng là thắng lợi của
phương pháp cách mạng “biết thắng từng bước cho đúng”. Chúng ta chủ trương phải đổi
mới toàn diện và đồng bộ, nhưng cần phải có bước đi đúng. Trước hết là đổi mới tư duy;
từ đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, từng bước đổi mới trong lĩnh vực chính trị.
Trong bối cảnh thế giới đa cực, những tác động của xu thế tồn cầu hóa, tác động

của mặt trái nền kinh tế thị trường, giao lưu, hội nhập quốc tế càng mở rộng, chúng ta
càng phải quán triệt phương pháp cách mạng “biết thắng từng bước cho đúng”. Sự nghiệp
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là hết sức mới mẻ.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta luôn xuất phát từ thực tiễn trong nước và quốc tế để
nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan các chủ trương, biện pháp mà chúng ta đang áp
dụng. Phát huy cao độ những thắng lợi chúng ta đã giành được cả trong tư duy, nhận thức
cũng như trong hoạt động thực tiễn; đồng thời tỉnh táo, dũng cảm chỉ ra những thiếu sót,
bất cập. Có những chủ trương, biện pháp mặc dù chúng ta hô hào, cổ súy rất nhiều nhưng
vẫn khó đi vào cuộc sống. Trong đó có những vấn đề rất cơ bản như vấn đề sở hữu; vị trí,
vai trị các thành phần kinh tế; vấn đề phân phối; vấn đề phản biện xã hội; cách thức tổ
chức giám sát quyền lực, hoặc cả trong vấn đề hết sức nóng bỏng và nhức nhối là đấu


tranh phòng, chống tệ nạn tham nhũng và quan liêu đang làm suy yếu Đảng và chế độ,
v.v... Đó là những vấn đề cần được nhìn nhận một cách khách quan, mặt nào cần kế thừa,
nhân rộng, phát huy; mặt nào cần điều chỉnh, hạn chế hoặc sửa đổi. Cả trong lĩnh vực văn
hóa, giáo dục, y tế, quốc phịng, an ninh, đối ngoại... cũng cần phải tiếp tục đổi mới cách
nghĩ, cách làm, quyết tâm khắc phục tất cả những gì đang cản trở sự phát triển đi lên của
đất nước.

KẾT LUẬN
Sau hơn 20 năm chiến đấu trường kỳ và gian khổ, quân và dân ta đã giành được
chiến thắng vang dội trước đế quốc Mỹ, từng bước, từng bước đánh tan các chiến lược


chiến tranh của Mỹ đề ra, phá tan được mưa bom bão đạn của B52 trên bầu trời Hà Nội,
thống nhất được hai miền Tổ quốc, anh em sum vầy, Việt Nam hình chữ S đã khơng cịn
bị phân chia trên bản đồ thế giới. Thắng lợi ấy là của Đảng lãnh đạo, của nhân dân chiến
đấu, của tinh thần đoàn kết quốc tế tương trợ,.., là thắng lợi với các chiến lược, đường lối
của Đảng đề ra, với việc vận dụng , sử dụng có hiệu quả nhiều phương pháp cách mạng,

trong đó khơng thể thiếu nghệ thuật đánh thắng từng bước được vận dụng linh hoạt trong
suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.
Bài tiểu luận viết về đề tài “Nghệ thuật đánh thắng từng bước của Đảng trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975) em đã trình bày trên đây đã đóng góp về
mặt lý luận những kiến thức chung về nghệ thuật đánh thắng từng bước, đồng thời cơ bản
chỉ ra được đường lối vận dụng linh hoạt của Đảng ta trong nghệ thuật “đánh thắng từng
bước” qua các chiến lược chiến tranh của Mỹ đề ra, cùng với việc kế thừa, vận dụng có
sáng tạo vào thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Tuy bài tiểu luận chỉ mới đem tới cái nhìn sơ lược, cơ bản nhưng cũng góp phần
hình thành nên nền tảng kiến thức sơ lược về nghệ thuật đánh thắng từng bước của Đảng
trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1954 – 1975), đánh giá chủ quan cá
nhân trong công cuộc vận dụng nghệ thuật đánh thắng từng bước vào xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam. Không chỉ góp phần trau dồi kiến thức lịch sử, mà cịn bồi đắp thêm
tình yêu đất nước, dân tộc Việt Nam, tiếng chuông thức tỉnh trách nhiệm của cá nhân
trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam tươi đẹp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2008), Giáo trình lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà

xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội


2. Học viện An ninh nhân dân (2019), Sách hướng dẫn học tập hỏi đáp lịch sử Đảng

Cộng sản Việt Nam, Hà Nội
Lê Duẩn - Tuyển tập (1965 - 1975), Sđd, t.II, tr. 562.
Lê Duẩn, Dười lá cờ vẻ vang của Đảng ., NXB Sự thật, 1976
Hồ Chí Minh: Tồn tập , Nxb. Chính trị quốc gia, 2000
Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Tập 1, Dùng cho các lớp đào tạo dài
hạn cán bộ trung cao, cấp trong các nhà trường Quân đội, Nxb Quân đội nhân dân,

1995
7. Hỏi đáp Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, 1996
3.
4.
5.
6.



×