Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

LVTN 2017 đặc điểm ngôn ngữ phóng sự trên báo lao động từ góc nhìn phân tích diễn ngôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.09 MB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ PHĨNG SỰ TRÊN BÁO LAO ĐỘNG
TỪ GĨC NHÌN PHÂN TÍCH DIỄN NGƠN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NGƠN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Cử nhân tài năng
Khóa học: 2013 - 2017

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


NGUYỄN THỊ KHÁNH LINH

ĐẶC ĐIỂM NGƠN NGỮ PHĨNG SỰ TRÊN BÁO LAO ĐỘNG
TỪ GĨC NHÌN PHÂN TÍCH DIỄN NGƠN

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NGƠN NGỮ HỌC
Hệ đào tạo: Cử nhân tài năng
Khóa học: 2013 - 2017


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. HUỲNH THỊ HỒNG HẠNH

Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2017


CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
ĐỘC LẬP – TỰ DO – HẠNH PHÚC
LỜI CAM ĐOAN
Xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu do tơi thực hiện. Các số liệu, kết quả trình
bày trong luận văn được rút ra từ quá trình khảo sát của cá nhân. Vì thế, mọi sai sót tơi
xin chịu trách nhiệm.
Nguyễn Thị Khánh Linh


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn và sự kính trọng đến Cơ – Tiến sĩ Huỳnh Thị Hồng
Hạnh, người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tơi trong suốt q trình làm đề tài. Tơi
thật sự may mắn khi được Cô hướng dẫn, những kiến thức và kinh nghiệm mà Cô
truyền đạt cho tôi, tôi sẽ không bao giờ quên.
Xin chân thành cảm ơn quý thầy cô thuộc ngành Ngôn ngữ học, trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh đã giảng dạy và truyền đạt cho tôi
những kiến thức sâu sắc, giúp tơi có nền tảng kiến thức và phương pháp nghiên cứu
khoa học để thực hiện đề tài này.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã ủng hộ, tạo điều kiện và động viên giúp đỡ tơi
hồn thành khóa luận này.
Khóa luận chắc chắn sẽ cịn nhiều thiếu sót, vì vậy kính mong q thầy cơ nhiệt
tình chỉ dẫn để tơi có thể hồn thành được cơng trình nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn!
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 06 năm 2017

Người thực hiện: Nguyễn Thị Khánh Linh


MỤC LỤC
ĐỀ MỤC

TRANG

DẪN NHẬP ..................................................................................................................... 1
1.

Lý do chọn đề tài ..................................................................................................... 1

2.

Lịch sử nghiên cứu .................................................................................................. 2

3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................... 5

4.

Mục đích nghiên cứu ............................................................................................... 5

5.

Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu ........................................................... 6

6.


Kết cấu của đề tài .................................................................................................... 6

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT .......................................................... 8
1.1. Diễn ngơn và phân tích diễn ngơn ........................................................................... 8
1.1.1. Diễn ngơn ........................................................................................................... 8
1.1.2. Phân tích diễn ngơn.......................................................................................... 10
1.2. Phóng sự và các vấn đề liên quan .......................................................................... 12
1.2.1. Khái niệm phóng sự ......................................................................................... 12
1.2.2. Các dạng phóng sự ........................................................................................... 13
1.2.3. Đặc trưng của phóng sự ................................................................................... 14
1.3. Một số khái niệm liên quan đến phân tích diễn ngơn phóng sự báo chí ................. 17
1.3.1. Ngữ vực ........................................................................................................... 17
1.3.1.1. Khái niệm ................................................................................................. 17
1.3.1.2. Phương pháp phân tích ngữ vực ............................................................... 19
1.3.3. Cấu trúc diễn ngơn phóng sự ........................................................................... 20
1.3.4. Mạch lạc trong diễn ngôn ................................................................................ 21
1.4. Vài nét về báo Lao Động ........................................................................................ 24
1.4.1. Về báo Lao Động ............................................................................................. 24
1.4.2. Đặc điểm phóng sự trên báo Lao Động ........................................................... 25


Tiểu kết ........................................................................................................................... 25
CHƯƠNG 2: ĐẶC ĐIỂM NGỮ VỰC, CẤU TRÚC VÀ MẠCH LẠC TRONG
DIỄN NGƠN PHĨNG SỰ TRÊN BÁO LAO ĐỘNG .............................................. 27
2.1. Đặc điểm ngữ vực ................................................................................................... 27
2.1.1. Khái qt về trường, thức và khơng khí chung của diễn ngơn phóng sự ........ 27
2.1.2. Bình diện từ vựng ............................................................................................ 29
2.1.3. Bình diện ngữ pháp .......................................................................................... 35
2.2. Đặc điểm cấu trúc diễn ngơn phóng sự ................................................................... 41

2.2.1. Tiêu đề ............................................................................................................. 41
2.2.2. Đề dẫn .............................................................................................................. 46
2.2.3. Phần nội dung diễn ngôn ................................................................................. 49
2.2.3.1. Phần nêu vấn đề ........................................................................................ 49
2.2.3.2. Phần diễn giải và chứng minh vấn đề ....................................................... 52
2.2.3.3. Phần kết luận ............................................................................................ 57
2.3. Đặc điểm mạch lạc trong diễn ngơn phóng sự báo chí ........................................... 62
2.3.1. Mạch lạc trong quan hệ giữa các đề tài - chủ đề của các câu .......................... 62
2.3.1.1. Các phương tiện duy trì sự mạch lạc liên quan đến sự thống nhất về đề
tài, chủ đề ............................................................................................................... 62
2.3.1.2. Các phương tiện triển khai đề tài.............................................................. 64
2.3.2. Mạch lạc biểu hiện trong trật tự hợp lý giữa các câu (hay mệnh đề) .............. 68
Tiểu kết ........................................................................................................................... 71
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG NGƠN NGỮ PHĨNG SỰ BÁO LAO ĐỘNG .......... 73
(SO SÁNH VỚI MỘT SỐ PHÓNG SỰ BÁO THE NEW YORK TIMES) .............. 73
3.1. Đặc trưng về ngữ vực .............................................................................................. 73
3.1.1. Về từ vựng ....................................................................................................... 73
3.1.2. Về ngữ pháp ..................................................................................................... 75


3.2. Đặc trưng về cấu trúc diễn ngôn ............................................................................. 80
3.3. Đặc trưng về tính mạch lạc ..................................................................................... 82
3.3. Những nét tương đồng và khác biệt trong ngơn ngữ phóng sự báo Lao Động và
một số ngữ liệu báo tiếng Anh ....................................................................................... 86
3.3.1. Những nét tương đồng ..................................................................................... 86
3.3.2. Những nét khác biệt ......................................................................................... 87
Tiểu kết ........................................................................................................................... 87
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 89
PHỤ LỤC ...................................................................................................................... 96



1

DẪN NHẬP
1. Lý do chọn đề tài
Nói đến ngơn ngữ, từ trước tới nay chúng ta chỉ nói tới một số bình diện quen
thuộc như ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp...Nhưng nếu chỉ dừng lại ở đây thì cũng chưa có
được một vốn hiểu biết đầy đủ để có thể sử dụng hiệu quả ngơn ngữ vào trong cuộc
sống. Vì lí do đó, trong khoảng vài mươi năm trở lại đây, các nhà ngôn ngữ học đã cố
gắng xây dựng nên một hệ thống các lý thuyết mới nhằm phục vụ xử lý các vấn đề giao
tiếp như dụng học, ngôn ngữ học tri nhận, ngôn ngữ học xã hội...trong đó có lý thuyết
về phân tích diễn ngơn. Đây thực sự là một khái niệm khá mới. Nó khơng chỉ chú ý đến
những vấn đề thuần túy của ngôn ngữ học, mà đi sâu hơn vào mặt ý nghĩa, mặt sử dụng
của văn bản, tập trung vào các nhân tố ngôn ngữ vượt ra khỏi phạm vi từ, ngữ và câu
góp phần để cuộc giao tiếp thành cơng.
Trong xã hội thơng tin hiện nay, báo chí là một lĩnh vực nhận được nhiều quan
tâm từ phía cơng chúng. Nếu như các thể loại: tin, phỏng vấn,...chỉ đơn thuần là ghi
chép sự kiện, phản ánh thơng tin thì phóng sự báo chí lại là một thể loại địi hỏi người
viết phải có suy nghĩ cá nhân, bày tỏ quan điểm của mình đối với những vấn đề xã hội
đang quan tâm. Chính vì vậy, phóng sự là thể loại được độc giả quan tâm nhiều và
cũng là đối tượng được nhiều nhà nghiên cứu tập trung phân tích, tìm hiểu, khảo sát.
Xuất phát từ một số nhân tố khách quan, các bài phóng sự trên báo Lao Động đã
và đang trở thành tâm điểm thu hút sự chú ý của mọi độc giả, nhất là độc giả quan tâm
đến các vấn đề thời sự gây nhiều tranh cãi hay các vấn đề nổi cộm đương thời. Đây
thực sự là một tờ báo có nhiều đóng góp quan trọng vào tiến trình phát triển của các thể
loại báo chí Việt Nam. Các nhà báo nổi tiếng và dày dạn kinh nghiệm, thông qua
chuyên mục này, góp tiếng nói riêng, chia sẻ nỗi lòng suy tư của bản thân về những
thực trạng cần lên tiếng trong xã hội.
Phóng sự là một thể loại báo chí hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam từ
đầu thế kỷ XX với các tên tuổi của các cây bút như Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Đổng

Chi, Tam Lang,...Nghiên cứu về phóng sự và ngơn ngữ phóng sự báo chí tiếng Việt là
vấn đề khá thu hút các nhà nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên tiếp


2
cận vấn đề từ góc độ phân tích diễn ngơn để đi sâu khai thác từ các đặc trưng loại thể
thì chưa có nhiều thành tựu. Việc soi chiếu đặc điểm ngơn ngữ của một thể loại báo chí
dưới góc nhìn phân tích diễn ngơn sẽ giúp chúng ta hiểu thêm những tác động của các
yếu tố siêu ngôn ngữ lên một nội dung ngôn ngữ khá đặc biệt là phóng sự. Vì vậy, với
những lý do trên đây, chúng tơi mạnh dạn chọn“Đặc điểm ngơn ngữ phóng sự trên báo
Lao Động từ góc nhìn phân tích diễn ngơn” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
2.1 Nghiên cứu về phân tích diễn ngơn
*Các nghiên cứu về phân tích diễn ngơn ở nước ngồi
Phân tích diễn ngôn là tên gọi của giai đoạn tiếp nối với thời kỳ của “ngữ pháp
văn bản”, khi mà ngoài phạm vi giới hạn ở văn bản, người ta còn tăng cường sự chú ý
ở những vấn đề ngôn ngữ học chức năng, lý luận về giao tiếp, ngôn ngữ học xã hội,
phong cách chức năng, dụng học hay những cái khác có ý nghĩa đối với thực tiễn xã
hội.
Từ giữa thế kỷ XX, vấn đề phân tích diễn ngơn đã được thế giới quan tâm
nghiên cứu. Một số công trình có thể kể đến như An introduction to Discourse Analysis
(1977) của Malcolm Coulthard. Tiếp tục với phân tích diễn ngơn có tác phẩm
Discourse (1990) của Guy Cook. Tác phẩm Introducing Discourse Analysis (1993) của
David Nunan. Cùng xuất bản vào năm 1993, cuốn Cohesion in English của Halliday và
Hasan đã nêu ra vấn đề hết sức quan trọng của phân tích diễn ngơn là mạch lạc.
Bên cạnh những cơng trình nói trên, cũng có một số cơng trình nghiên cứu về
diễn ngơn của nước ngồi được dịch sang tiếng Việt như: Dụng học, một số dẫn luận
nghiên cứu ngôn ngữ của George Yule (Hồng Nhâm, Trúc Thanh, Ái Nguyên dịch,
1997), Cơng trình Dẫn nhập phân tích diễn ngơn của David Nunan (Hồ Mỹ Huyền,
Trúc Thanh dịch, 1998)

Trong cơng trình Phân tích diễn ngơn (Discourse Analysis) (Trần Thuần dịch,
2002), Gillian Brown và George Yule đã đi sâu vào mô tả các hình thức và chức năng
của ngơn ngữ được sử dụng trong giao tiếp. Đồng thời các tác giả nhấn mạnh vào vai
trò của ngữ cảnh, đặc biệt là ngữ cảnh ngữ dụng như tiền giả định, hàm ý, phép suy


3
luận trong giao tiếp. Vấn đề cấu trúc thông tin với các khái niệm cũ, mới cũng được
các tác giả nhắc đến và làm rõ.
*Các nghiên cứu về phân tích diễn ngôn ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nhờ vào sự tiếp cận với hướng lý thuyết mới nên các nhà Việt ngữ
học đã kịp thời bắt nhịp được với xu hướng phân tích diễn ngơn trên thế giới. Phân tích
diễn ngôn ở giai đoạn đầu chủ yếu tập trung vào “phân tích ngữ pháp văn bản”, các tác
giả đề cập nhiều “liên kết, mạch lạc, cấu trúc”, vì lẽ đó mà chúng ta có cơng trình Hệ
thống liên kết văn bản tiếng Việt của Trần Ngọc Thêm. Đây cũng là cơng trình đánh
dấu sự ra đời của ngơn ngữ học văn bản ở Việt Nam.
Nguyễn Hòa mang đến cho người đọc hệ thống lý thuyết và các phương pháp
luận phân tích diễn ngơn trong ngơn ngữ học qua cơng trình Phân tích diễn ngơn: Một
số vấn đề lý luận và phương pháp. Trong tài liệu này, tác giả đã giới thiệu một cách chi
tiết các đường hướng phân tích diễn ngơn, trong đó có đường hướng biến đổi ngơn ngữ
mang đến cái nhìn đa chiều cho người đọc. Đây được xem là cơng trình chun sâu,
tập trung và hệ thống về các lý thuyết phân tích diễn ngơn.
Với cơng trình Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, Diệp Quang Ban
cũng có những nghiên cứu hết sức thú vị và tồn diện về diễn ngơn. Đối với tác giả,
ông cho rằng mạch lạc là một vấn đề cốt yếu của phân tích diễn ngơn.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp qua cơng trình Dụng học Việt ngữ cũng có những
nghiên cứu về diễn ngơn và phân tích diễn ngơn. Tác giả đã đề cập nhiều đến ngữ cảnh
và ý nghĩa, cấu trúc thơng tin, ngữ dụng học diễn ngơn,.... Nhìn chung những cơng
trình này có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc, tạo tiền đề chắc chắn cho chúng tơi
trong q trình thực hiện đề tài này.

2.2 Nghiên cứu về phóng sự
Cũng như các thể loại tin, phỏng vấn,...phóng sự báo chí là một thể loại có bề
dày lịch sử đáng quan tâm. Thể loại này đã có những nghiên cứu ở nhiều lĩnh vực khác
nhau, song tựu trung có thể chia các nghiên cứu phóng sự ra làm hai hướng tiếp cận
chính, đó là báo chí học và ngơn ngữ học.
❖ Tiếp cận phóng sự trên bình diện báo chí


4
Phóng sự là một thể loại xuất hiện khá sớm và có vị trí quan trọng trong lịch sử
báo chí thế giới cũng như Việt Nam. Phần lớn các nhà nghiên cứu đều xác định thời
gian ra đời của thể loại phóng sự ở Việt Nam là vào những năm ba mươi của thế kỷ
XX với tác phẩm Tôi kéo xe của Tam Lang Vũ Đình Chí đăng trên tờ Đơng Tây tháng
8/1932.
Nghiên cứu thể loại phóng sự từ trước đến nay đã có nhiều cơng trình nổi bật.
Đức Dũng với Các thể ký báo chí đã khái quát đặc trưng của các loại hình báo chí và đi
sâu từng loại hình cụ thể, trong đó có phóng sự. Sau này với chun luận Phóng sự báo
chí hiện đại, tác giả không chỉ đề cập đến đặc điểm, đặc trưng của phóng sự mà cịn
dẫn ra các xu hướng phát triển của phóng sự hiện nay, cùng với đó là những yêu cầu
đặt ra trong quá trình sáng tạo tác phẩm phóng sự báo chí hiện đại.
Bên cạnh giới thiệu về nghề báo, công việc của nhà báo, người biên tập, về nghệ
thuật nhiếp ảnh thì cơng trình Nghề nghiệp và công việc của nhà báo của Nguyễn Uyển
(chủ biên) cũng có đề cập đến một số thể tài báo chí như tin, phóng sự, điều tra, tiểu
phẩm, bút chiến và bình luận.
Với cơng trình Để viết phóng sự thành công, tác giả Huỳnh Dũng Nhân – một cây
bút chuyên về phóng sự cũng đã có những nghiên cứu một cách gần như đầy đủ về thể
loại này, từ quá trình phát triển đến kỹ thuật viết một bài phóng sự trọn vẹn. Bên cạnh
đó, tác giả cịn cho xuất bản tác phẩm Phóng sự - Từ giảng đường đến trang viết trình
bày về kết cấu, đặc trưng và phong cách của thể loại phóng sự. Tuy nhiên ơng đã dành
phần lớn nội dung để bàn về kỹ thuật viết phóng sự.

Tác giả Sơn Tùng với bài nghiên cứu về Các thể ký (Đặc tả, phóng sự, ký sự, bút
ký, tùy bút) trên Tạp chí Văn học đã nêu được một cách khái quát những đặc điểm của
các thể ký, trong đó có phóng sự.
Bên cạnh đó, cơng trình Thể loại báo chí của Khoa Báo chí, Trường Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội và Khoa Ngữ văn và Báo chí
của trường Đai học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học quốc gia Thành phố Hồ
Chí Minh đã có những nghiên cứu gần như đầy đủ và cụ thể các thể loại báo chí như
tin, điều tra, ký chân dung, phỏng vấn, bình luận, tường thuật và thể loại phóng sự.
Trong mục phóng sự báo chí, tác giả đã đưa ra khái niệm, tiêu chí nhận diện một bài


5
báo phóng sự, các cấu trúc chung cũng như một số vấn đề cần lưu ý khi viết phóng sự.
Từ đó, độc giả có thể tự so sánh đối chiếu với các thể loại khác để có cái nhìn sâu sắc
và toàn diện hơn về thể loại này.
❖ Tiếp cận phóng sự trên bình diện ngơn ngữ
Với tư cách là một thể loại báo chí, phóng sự đã được tập trung nghiên cứu khá
cụ thể, xây dựng được một hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh. Về hướng nghiên
cứu trên bình diện ngơn ngữ, có nhiều nghiên cứu có giá trị, có thể kể đến tác giả
Hồng Anh với bài viết Sự hấp dẫn của ngơn ngữ phóng sự. Ngồi ra nhà nghiên cứu
này cũng có bài viết Ngơn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm báo chí
hết sức thú vị, đề cập đến ngơn ngữ tác giả mang “cái tôi” trần thuật – không mang “cái
tôi” trần thuật , ngôn ngữ nhân vật trực tiếp – gián tiếp. Đây được xem là một trong
những yếu tố quan trọng góp mặt trong hầu hết các bài phóng sự.
Bên cạnh đó, cịn có các luận văn, luận án tốt nghiệp chuyên ngành Ngôn ngữ
học như công trình Ngơn ngữ phóng sự trên báo trực tuyến tiếng Việt của Đặng Thị
Hạnh Vân, đề cập đến các vấn đề về từ, câu, kết cấu một bài phóng sự; cơng trình Hàm
ý trong phóng sự trên báo Tuổi trẻ và Lao động năm 2008 – 2009 của Nguyễn Thị Thu
Hiền, nêu các cách thức biểu thị hàm ý trong phóng sự; khóa luận tốt nghiệp Đặc điểm
ngơn ngữ của thể loại phóng sự trên báo chí Việt Nam hiện đại của Đỗ Thị Kim Oanh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để phân tích đặc điểm ngơn ngữ của phóng sự, chúng tơi chỉ đi sâu nghiên cứu
đặc điểm diễn ngôn theo thể loại, ở đây là thể loại phóng sự báo chí, vì vậy cần phải có
một sự nhất qn về trường (field) của diễn ngơn. Khóa luận thu thập phóng sự về đời
sống xã hội, chứ khơng khảo sát các mảng đề tài khác, vì theo cái nhìn tồn thể, phóng
sự trên báo Lao Động chủ yếu viết về các vấn đề xã hội.
Trong đề tài này, chúng tơi sẽ tập trung nghiên cứu các bài phóng sự đời sống
xã hội trong mục Phóng sự trên báo Lao Động. Đây là tờ nhật báo có lượng phóng sự
được đăng đều đặn hằng ngày.
4. Mục đích nghiên cứu
Để làm rõ đặc điểm diễn ngơn phóng sự báo chí khảo sát trên cứ liệu trên báo
Lao Động, khóa luận tìm hiểu các đặc trưng về ngữ vực, về cấu trúc và mạch lạc trong


6
diễn ngơn. Kết quả nghiên cứu để có thể đóng góp thêm cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu diễn ngơn phóng sự nói riêng và diễn ngơn báo chí nói chung. Bên cạnh đó, phân
tích diễn ngơn phóng sự báo chí để thấy rõ được đặc trưng, ngơn ngữ nổi bật của thể
loại phóng sự trong tương quan với thể loại báo chí khác.
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề nêu ra trong đề tài, chúng tôi tiến hành khảo sát 104
văn bản phóng sự trên báo Lao Động. Đề tài được thực hiện dựa trên hai phương pháp
chính như sau:
- Phương pháp miêu tả: Trên cơ sở nguồn ngữ liệu khảo sát, khóa luận tiến hành
miêu tả các đặc điểm sử dụng ngơn ngữ để tìm ra những đặc điểm nổi bật, từ đó rút ra
những nhận xét quan yếu.
- Phương pháp phân tích diễn ngơn: Đây là phương pháp chính chúng tơi sử dụng
để thực hiện nghiên cứu đề tài. Dựa trên những khái niệm hữu quan về các vấn đề diễn
ngơn và phóng sự, chúng tơi sẽ tiến hành phân tích diễn ngơn trên ba phương diện

chính là ngữ vực, cấu trúc diễn ngơn và vấn đề mạch lạc trong diễn ngôn.
5.2. Nguồn ngữ liệu
Để đảm bảo tính cập nhật và tính thời sự của bài báo, chúng tơi chọn khảo sát
các bài phóng sự trên báo Lao Động được xuất bản từ năm 2015 đến nay (tháng
2/2017). Trong giới hạn thời gian này, chúng tơi đã thu thập được 313 bài phóng sự.
Tuy nhiên để phục vụ cho mục đích nghiên cứu đề ra trong khóa luận, chúng tơi tiến
hành chọn lọc ra 104 bài phóng sự trong nguồn ngữ liệu để khảo sát, theo đó, mỗi năm
chúng tơi chọn khảo sát 48 đến 50 bài bằng cách chọn ngẫu nhiên 1 bài/tháng. Trong
phạm vi khóa luận này, cũng nhằm hướng đến mục đích đặt ra của đề tài, đặc biệt là
giải quyết vấn đề ngữ vực diễn ngôn nên chúng tôi chỉ khảo sát phóng sự có nội dung
về đời sống xã hội – một dịng phóng sự tiêu biểu của tờ báo Lao Động.
6. Kết cấu của đề tài
Phần chính văn của khóa luận gồm trang. Ngồi phần mở đầu 8 trang, phần kết
luận 4 trang, khóa luận gồm 3 chương với các nội dung chính như sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết


7
Đây là chương tổng quan, cơ sở lý luận với mục đích xây dựng khung lý thuyết
của đề tài. Chương này trình bày những giới thuyết cơ bản bao gồm khái niệm diễn
ngơn cũng như phân tích diễn ngơn, các vấn đề về ngữ vực, liên kết và mạch lạc. Bên
cạnh đó, chúng tơi cịn tập trung vào vấn đề thể loại phóng sự, khái niệm, vai trị và vị
trí của phóng sự, một số kiến thức nền tảng cơ sở để tiếp cận phân tích các diễn ngơn
phóng sự, từ đó rút ra những đặc trưng cơ bản của ngơn ngữ thể loại phóng sự.
Chương 2: Đặc điểm ngữ vực, cấu trúc và mạch lạc trong diễn ngơn phóng sự
trên báo Lao Động
Ở chương này, chúng tôi đi vào phân tích đặc điểm diễn ngơn phóng sự báo chí
trên các bình diện ngữ vực, cấu trúc diễn ngơn và vấn đề mạch lạc trong diễn ngôn
thông qua các ngữ liệu cụ thể được khảo sát từ báo Lao Động
Chương 3: Đặc trưng ngơn ngữ phóng sự trên báo Lao Động

(So sánh với một số phóng sự báo The New York Times)
Trong chương này, chúng tơi sẽ phân tích đặc điểm ngơn ngữ phóng sự báo trên
các bình diện ngữ vực, cấu trúc và mạch lạc trong diễn ngơn phóng sự trên cứ liệu báo
tiếng Anh. Từ đó có những so sánh, đối chiếu để tìm ra những đặc trưng tiêu biểu của
ngơn ngữ phóng sự trên báo Lao Động.
Ngồi ra, khóa luận cịn có phần thư mục Tài liệu tham khảo với 45 đầu sách và
bài viết trên các tạp chí, nguồn ngữ liệu gồm có 104 bài phóng sự khảo sát trên báo Lao
Động. Đây là những tài liệu và ngữ liệu liên quan trực tiếp đến đề tài mà chúng tôi thu
thập được.


8
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT
1.1. Diễn ngôn và phân tích diễn ngơn
1.1.1. Diễn ngơn
Diễn ngơn là một thuật ngữ ra đời khá lâu nhưng khoa học về phân tích diễn
ngơn cũng chỉ được thực sự quan tâm vào đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Việc
nghiên cứu diễn ngơn được hình thành trong lịng ngơn ngữ học nhưng không phải xuất
hiện tức thời bằng sáng kiến riêng mà trải qua một quá trình tìm kiếm hướng đi. Sau sự
phát triển rực rỡ ngôn ngữ học tiền cấu trúc của F. de Sausure và cấu trúc luận của L.
Bloomfield thì việc tiếp cận những giới hạn cuối cùng trong lý thuyết của họ đã dẫn
đến sự thu hút chú ý của các nhà nghiên cứu về các cấu tạo ngôn ngữ lớn hơn câu.
Hiện nay, trong giới nghiên cứu, khái niệm diễn ngôn được định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau, song vẫn chưa thật sự thống nhất.
Diễn ngôn được Barthes định nghĩa là “một đoạn lời nói hữu tận bất kì, tạo
thành một thể thống nhất xét từ quan điểm nội dung, được truyền đạt cùng với những
mục đích giao tiếp thứ cấp, và có một tổ chức nội tại phù hợp với những mục đích này,
vả lại (đoạn lời này) gắn bó với những nhân tố văn hóa khác nhau nữa, ngồi những
nhân tố có quan hệ đến bản thân ngơn ngữ.” [dẫn theo 8;13]
Cịn Bellert thì cho rằng, “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngơn

S1,…Sn, trong đó việc giải thuyết nghĩa của mỗi phát ngôn Si (với 2≤ i ≤ n) lệ thuộc
vào sự giải thuyết những phát ngôn trong chuỗi S1,…Si – 1. Nói cách khác, sự giải
thuyết thỏa đáng một phát ngơn tham gia diễn ngơn địi hỏi phải biết ngữ cảnh đi
trước.”[dẫn theo 8,17]
Crystal định nghĩa về diễn ngôn như sau: “Diễn ngôn là một chuỗi nối tiếp của
ngôn ngữ (đặc biệt là ngơn ngữ nói) lớn hơn một câu, thường cấu thành một chỉnh thể
có tính mạch lạc, kiểu như một bài thuyết giáo, tranh luận, truyện vui hoặc truyện
kể.”[dẫn theo 8,17]
Widdowson cho rằng, “Diễn ngơn là một q trình giao tiếp. Kết quả về mặt
tình huống của quá trình này là sự thay đổi trong sự thể, thông tin được chuyển tải, các
ý định được làm rõ, và sản phẩm của quá trình này là Văn bản” [dẫn theo 12;32]. Diễn


9
ngơn được xem là một q trình giao tiếp trong một xã hội nhất định, và là toàn bộ sự
giao tiếp có mục đích, thống nhất.
Cho đến nay, cách hiểu về diễn ngơn vẫn cịn chưa thống nhất bởi tính chất
phức tạp, đa nghĩa, thậm chí khó xác định, gây ra nhiều khó khăn trong việc nghiên
cứu chuyên sâu. Có thể kể đến các quan niệm khác nhau về diễn ngơn của các nhà Việt
ngữ học như sau:
Theo Nguyễn Hịa, “Diễn ngơn là sự kiện hay q trình giao tiếp hồn chỉnh
thống nhất có mục đích khơng có giới hạn được sử dụng trong các hoàn cảnh giao tiếp
xã hội cụ thể” [22;34]. Và như vậy, với vai trò là một sự kiện giao tiếp hồn chỉnh,
diễn ngơn tất yếu phải có tính chủ đề từ chủ đề bộ phận đến chủ đề chung, có mạch lạc.
Để tạo nên mạch lạc, diễn ngôn không những phải thể hiện sự liên kết trên nhiều
phương diện mà còn tổ chức một cách hợp lý các yếu tố quan yếu có giá trị giao tiếp
tuân theo các quy tắc cần và đủ (nói thế nào là đủ, là đúng trọng tâm; nói thế nào là
thừa, rườm rà, lạc đề). Nói đến “hồn cảnh giao tiếp cụ thể” là nói đến tác động của các
yếu tố tình huống ngồi ngơn ngữ đối với sự hoạt động của ngơn ngữ như yếu tố văn
hóa, yếu tố dụng học.

Với Diệp Quang Ban, thơng qua cơng trình Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của
văn bản, ông được xem là một trong những tác giả tiêu biểu của nghiên cứu theo
đường hướng phân tích diễn ngơn đầu tiên ở Việt Nam. Trong cơng trình này, tác giả
đồng tình với định nghĩa của Cook cho rằng, “Diễn ngơn là những chuỗi ngôn ngữ
được nhận biết là trọn nghĩa, được hợp nhất lại và có mục đích”. [8,200]
Theo Đỗ Hữu Châu trong cơng trình Đại cương ngơn ngữ học -Tập hai: Ngữ
dụng học, “Diễn ngôn là thuật ngữ chung để chỉ tất cả các đơn vị lời nói...Tùy theo
đường kênh, hay tùy theo dạng ngôn ngữ được sử dụng mà chúng ta có diễn ngơn nói
hay diễn ngơn viết. Diễn ngôn viết là các văn bản. Văn bản là các diễn ngôn liên tục do
một người tạo nên. Diễn ngơn có thể là một phát ngơn mà cũng có thể là hợp thể của
nhiều phát ngôn. Diễn ngôn như đã nói trên có mặt động và mặt tĩnh. Diễn ngơn là một
q trình sản sinh ra và liên kết các phát ngơn thành một chỉnh thể. Nó cũng là tên gọi
của cái sản phẩm ngơn từ do q trình đó tạo nên”. [9;34]. Có thể thấy diễn ngơn


10
không phải là một đoạn hay một chuỗi câu bất kỳ mà nó là tồn bộ sự kiện giao tiếp có
mục đích, thống nhất và có mạch lạc được ghi nhận lại bằng toàn bộ văn bản.
Thực ra, về cách hiểu diễn ngơn vẫn cịn xuất hiện một số vấn đề nhập nhằng,
mơ hồ trong cách sử dụng thuật ngữ nhưng chung quy lại, các định nghĩa đều nhấn
mạnh đến tính liên tục (một dải ngơn ngữ) lớn hơn phát ngơn, có mục đích, thống nhất,
có mạch lạc và ghi nhận lại bằng toàn bộ văn bản. Hiểu một cách đơn giản, diễn ngôn
là các đơn vị ngôn ngữ lớn hơn bậc câu và là một chuỗi liên tục của ngơn ngữ nói và
viết.
Hiện nay chúng ta vẫn cịn chưa phân định rõ giữa hai khái niệm văn bản và
diễn ngôn. Nhiều tác giả sử dụng khái niệm diễn ngôn thay cho văn bản, nhưng cũng
có tác giả phân định rạch rịi giữa hai khái niệm này. Với cơng trình Dụng học Việt
ngữ, Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “Thuật ngữ diễn ngôn (discourse) và văn bản (text)
thường được coi là đồng nghĩa với nhau để chỉ các sản phẩm của ngơn ngữ, viết hay
nói, dài hay ngắn, tạo nên một tổng thể hợp nhất, trong đó diễn ngơn thường được hiểu

là bao hàm văn bản, còn văn bản thiên về sản phẩm viết nhiều hơn” [18;168]. Về cơ
bản, có thể coi văn bản là dạng viết của ngôn ngữ và diễn ngơn là dạng ngơn ngữ nói.
Diễn ngơn thể hiện tính chức năng của ngơn ngữ trong khi văn bản thể hiện mặt hình
thức của ngơn ngữ hành chức.
Thực tế, việc phân định diễn ngôn và văn bản là điều không đơn giản. Chúng tôi
tán thành quan điểm của Nguyễn Hịa: “Nên thấy rằng, trong thực tế rất khó có thể
phân biệt rạch rịi giữa diễn ngơn và văn bản bởi lẽ trong văn bản sẽ có cái diễn ngơn,
trong diễn ngơn sẽ có cái văn bản. Cho nên sự phân biệt chỉ mang tính chất tương đối.
Đây khơng phải là hai thực thể tách biệt mà chỉ là một thực thể biểu hiện của ngôn ngữ
hành chức trong bối cảnh giao tiếp xã hội. [22;33]
1.1.2. Phân tích diễn ngơn
Phân tích diễn ngơn là một lĩnh vực nghiên cứu liên ngành có liên quan đến
nhiều lĩnh vực khác nhau của ngôn ngữ học. Đây được xem là một lý thuyết tiếp nối
của q trình nghiên cứu ngơn ngữ học văn bản. Phải ghi nhận rằng người đầu tiên đề
xướng đến khái niệm phân tích diễn ngơn là Z. Harris với cơng trình Discourse
Analysis cùng với một số tên tuổi khác như Mitchell, T.A. Van Dijk,...


11
Trong cơng trình Giao tiếp, diễn ngơn và cấu tạo văn bản, Diệp Quang Ban đã
đưa ra những cách hiểu phân tích diễn ngơn như sau:“Phân tích diễn ngơn là một cách
tiếp cận phương pháp luận đối với việc phân tích ngơn ngữ bên trên bậc câu, gồm các
tiêu chuẩn (criteria) như tính kết nối (connectivity), hiện tượng hồi chiếu
(anaphora),…Định nghĩa này chỉ nêu đối tượng khảo sát (ngôn ngữ bậc trên câu) và
đối tượng nghiên cứu (tính kết nối, hiện tượng hồi chiếu…) như là một đường lối
nghiên cứu riêng.” [8;158]
Hiểu một cách cụ thể hơn, “Phân tích diễn ngơn là đường hướng tiếp cận tài liệu
ngơn ngữ nói và viết bậc trên câu (diễn ngôn/ văn bản) từ tính đa diện hiện thực của nó,
bao gồm các mặt ngơn từ và ngữ cảnh tình huống, với các mặt hữu quan thể hiện trong
khái niệm ngôn vực (register) mà nội dung hết sức phong phú và đa dạng (gồm các

hiện tượng thuộc thể loại và phong cách chức năng, phong cách cá nhân, cho đến các
hiện tượng xã hội, văn hóa, dân tộc).” [8;158]
Chung quy lại, cả hai định nghĩa đều khằng định phân tích diễn ngơn là phân
tích những đơn vị ở bậc trên câu. Trong định nghĩa thứ hai có hai yếu tố quan trọng mà
phân tích diễn ngơn quan tâm đến đó là đối tượng khảo sát (những tài liệu ngơn ngữ
nói và viết bậc trên câu), và đối tượng nghiên cứu đó là tính đa diện hiện thực. Tính đa
diện hiện thực bao gồm những vấn đề về thể loại, về phong cách chức năng, phong
cách cá nhân và các hiện tượng ngôn ngữ, hiện tượng xã hội văn hóa.
Trong khi trường phái cấu trúc luận tập trung vào việc xác định tính chất hình
thức của ngơn ngữ, thì chức năng luận lại chú trọng gắn ngơn ngữ với việc nó được
dùng để làm gì. Phân tích diễn ngơn hướng đến các sự phân tích ngôn ngữ hành chức,
tiếp cận tài liệu trên nhiều phương diện, khơng chỉ ngơn từ mà cịn bao hàm ngữ cảnh
tình huống. Theo G.Brown và G.Yule [43], phân tích diễn ngơn nhất thiết là sự phân
tích ngơn ngữ đang được sử dụng. Các yếu tố về ngôn từ và ngữ cảnh tình huống thì
được hiểu ở hai khía cạnh, một là ý nghĩa của các từ ngữ trong văn bản, trong diễn
ngôn xét ở quan hệ giữa chúng với nhau, tức là ngữ cảnh ở trong văn bản (sự tương tác
giữa các từ ngữ, các yếu tố trong bản thân văn bản đó) và ngữ cảnh ở ngồi văn bản (sự
tham chiếu các yếu tố bên trong với các yếu tố về quan điểm xã hội, ví dụ như để phân
tích một diễn ngơn cụ thể, chúng ta phải đặt nó ra bên ngồi ngơn cảnh để thấy tình


12
hình đó ảnh hưởng tới cách ta sử dụng từ ngữ như thế nào. Ngữ cảnh bên ngoài chi
phối việc ta hiểu hay cịn gọi là giải thuyết diễn ngơn đó như thế nào. Do vậy, đây là
đường hướng nghiên cứu quan trọng, mang tính ứng dụng cao, giúp chúng ta có thể
tiếp cận và nghiên cứu ngơn ngữ một cách tồn diện, triệt để.
1.2. Phóng sự và các vấn đề liên quan
1.2.1. Khái niệm phóng sự
Giáo trình nghiệp vụ báo chí của Trường Tuyên huấn Trung ương đã khẳng
định: “Phóng sự là một trong những thể tài quan trọng của báo chí ít nhiều có đặc trưng

văn học, phản ánh sự kiện xảy ra có q trình diễn biến, bằng phương pháp miêu tả, tự
thuật, lại có thể kết hợp nghị luận, nhằm nêu lên phẩm chất tinh thần của người và bộ
mặt xã hội theo một hệ thống quan điểm và đường lối chính trị nhất định” [17;196].
Quan điểm này xác định phóng sự là một thể tài thông tin quan trọng, gần gũi với văn
học, không chỉ đơn thuần miêu tả, tường thuật sự việc mà còn kết hợp với những lý lẽ,
đánh giá có giá trị và mang tính biểu cảm.
Phóng sự là một thể loại văn bản báo chí – cơng luận thuộc thể tin tức. Văn bản
phóng sự có cấu trúc khá phức tạp vì “ngồi việc thơng tin sự kiện nó cịn diễn giải tỉ
mỉ quá trình diễn biến của các sự kiện, cuối cùng dự báo khuynh hướng phát triển hay
kết thúc của q trình đó.” [13;211]. Phóng sự cung cấp cho người đọc một cái nhìn
cận cảnh hay tồn cảnh về một sự việc, hiện tượng thông qua những ghi chép cụ thể,
sinh động.
Phóng sự thường viết về người thật việc thật, mang tính thời sự cao và thường
mang dấu ấn “cái tôi” của tác giả. Ngôn ngữ của loại văn bản này thường khơng mang
tính hư cấu mà giàu hình ảnh, sinh động, hóm hỉnh và tế nhị để người đọc, từ đó có
những suy nghĩ, nhận thức rõ hơn về vấn đề.
Huỳnh Dũng Nhân đã đưa ra một định nghĩa rất cụ thể và rõ ràng về phóng sự
như sau: “Phóng sự là một thể tài báo chí, phản ánh những vấn đề có tính thời sự có ý
nghĩa chính trị xã hội được bạn đọc quan tâm. Phóng sự có thể viết bằng bút pháp
mang tính văn học. Trong phóng sự có nhân vật và cái tơi trần thuật. Phóng sự giúp bạn
đọc hiểu sâu hơn, rõ hơn sự việc và chia sẻ được với tác giả những vấn đề được đặt ra
trong tác phẩm”. [28;18]


13
Về phương diện hình thức, phóng sự nằm trong nhóm các thể loại báo chí có
dung lượng lớn và có kết cấu tương đối linh hoạt.
Qua một số khái niệm về phóng sự, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra đâu là đặc
trưng của thể loại phóng sự dựa vào một số đặc điểm như:
- Phóng sự là một trong những thể tài thông tin quan trọng của báo chí có ít nhiều

đặc trưng văn học
- Phóng sự là thể tài phản ánh những sự kiện có q trình diễn biến.
- Phóng sự là thể tài phản ánh sự kiện bằng phương pháp miêu tả hoặc tự thuật,
mặt khác cũng có thể kết hợp nghị luận ở mức độ nhất định hay sử dụng các
phương pháp biểu đạt của văn học (biện pháp tu từ, ngơn ngữ giàu hình ảnh...)
trong phóng sự, nhờ vậy nhiều tác phẩm báo chí có giá trị như tác phẩm văn
học.
Phóng sự viết về nhiều mảng đề tài, nhưng đề tài lớn nhất của phóng sự là sự
kiện xảy ra và số phận con người. Những đề tài này phải mang tính xã hội và có ý
nghĩa chính trị nhất định. Phóng sự là một trong những thể loại biết cách khai thác
những chi tiết đắt giá, xen vào những nhận định, cảm xúc cá nhân tác giả nhằm tạo
điểm nhấn khó quên cho tác phẩm
1.2.2. Các dạng phóng sự
Phóng sự báo chí ở nước ta hiện nay đang có sự giao thoa, chuyển hóa một cách
mạnh mẽ cùng các thể loại báo chí khác. Quá trình này đã tạo ra một số dạng phóng sự
có nội dung và hình thức rất linh hoạt. Chúng ta có thể phân chia các dạng phóng sự
trên cơ sở nhiều tiêu chí khác nhau. Có thể xét phóng sự dựa trên tiêu chí về loại hình
(báo in, báo hình, báo điện tử, báo phát thanh), tiêu chí về đối tượng phản ánh, tiêu chí
về dung lượng tác phẩm (phóng sự ngắn, phóng sự nhiều kỳ). Theo quan điểm của tác
giả Đức Dũng trong Phóng sự báo chí hiện đại, căn cứ vào đối tượng phản ánh, tác giả
đã chia phóng sự thành 5 dạng sau:
- Phóng sự sự kiện: là sự giao thoa giữa phóng sự với các thể loại có năng lực
phản ánh sự kiện như tường thuật, ghi nhanh hoặc bài thông tấn. Biểu hiện cụ
thể nhất của sự giao thoa này là sự kiện trở thành nội dung trọng tâm trong tác
phẩm phóng sự


14
- Phóng sự vấn đề: phản ánh những vấn đề tiêu biểu, xác thực, đáp ứng yêu cầu
thông tin thời sự trong đời sống. Phóng sự dạng này có sự giao thoa với thể loại

bình luận chun luận, ký chính luận. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất trong quá
trình giao thoa đó là vấn đề trở thành nội dung trung tâm của tác phẩm phóng
sự.
- Phóng sự chân dung: phản ánh con người (cá nhân hoặc tập thể) tiêu biểu (cho
cái tốt hoặc cái xấu) bằng cách khắc họa rõ nét bối cảnh sống, chiến đấu, lao
động, học tập của nhân vật. Phóng sự chân dung là sự kết hợp ưu thế của phóng
sự với thể ký chân dung.
- Phóng sự phản ánh hoàn cảnh, hiện trạng: phản ánh những hoàn cảnh, hiện
trạng của đời sống, khám phá và cung cấp cho công chúng những thông tin mới
mẻ, lý thú và bổ ích về đời sống xung quanh để họ suy nghĩ, nhận thức và hành
động.
- Phóng sự điều tra: là một dạng kết hợp giữa phóng sự báo chí với thể loại điều
tra theo ngun tắc: tính chất phóng sự được thể hiện ở những yếu tố thuộc về
hình thức thể hiện tác phẩm, còn đặc điểm của thể loại điều tra được thể hiện
chủ yếu trong việc huy động những chi tiết, số liệu, dữ kiện để xây dựng một hệ
thống luận cứ nhằm làm sáng tỏ cái logic bên trong thể hiện bản chất của sự thật
mà tác phẩm đề cập.
1.2.3. Đặc trưng của phóng sự
Chúng ta có thể khái quát ba đặc trưng nổi bật của thể loại phóng sự như sau:
- Phóng sự phản ánh hiện thực (người thật, việc thật trực tiếp, cụ thể) trong một
quá trình phát sinh, phát triển
Cũng như ở một số thể loại báo chí khác, phóng sự là thể loại mà ở đó, cái nhìn
hiện thực xuất hiện trên trang giấy, đưa độc giả vào trong chính câu chuyện đời thực.
Thông tin thời sự là vấn đề nghiêm ngặt của báo chí, vì vậy, vấn đề mà phóng sự báo
chí quan tâm phải là vấn đề của hơm nay, vấn đề nóng hổi, là “những vấn đề cịn tươi
rói những chất liệu của đời sống hiện thực”[14;24]. Tuy nhiên, điểm khác biệt so với
các thể loại báo chí khác là cùng phản ánh “việc thật” nhưng phóng sự khơng dừng lại
ở việc phản ánh đơn giản mà còn làm rõ bản chất bên trong của sự kiện, giúp công



15
chúng khơng những biết nó xảy ra mà cịn hiểu nguyên nhân “tại sao” lại xảy ra. Và chỉ
những sự kiện, sự việc có vấn đề, cần phải mở rộng nhằm tìm hiểu bản chất, nguyên
nhân mới trở thành đề tài phản ánh trong phóng sự. Do đó, ở phóng sự, chắc chắn, độc
giả sẽ được giải đáp đầy đủ các thông tin theo công thức 5W+H (5W gồm: What (cái
gì), When(khi nào), Where (ở đâu), Who (ai), Why (tại sao) và H chính là How (như
thế nào)).
Điểm mạnh của phóng sự là truyền tải thơng tin sự việc khơng hạn chế, nhờ đó
mà độc giả theo dõi diễn tiến của sự kiện một cách tồn diện hơn.
- Trong phóng sự, vai trị của cái tơi trần thuật – nhân chứng khách quan đặc biệt
quan trọng, vừa góp phần tạo ra sự khác biệt về hình thức thể hiện tác phẩm,
vừa quy định tính chất của nội dung.
Đây chính là yếu tố tạo nên tính hấp dẫn của phóng sự. Trong phóng sự, tác giả
có quyền thẳng thắn bày tỏ quan điểm của mình trước sự thật. Nói như Đức Dũng thì:
“Cái tơi trong phóng sự được ví như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ nội dung tác phẩm,
làm nên linh hồn và bản sắc của tác phẩm đó.” [13;36]. Hay với Huỳnh Dũng Nhân,
“Đã qua rồi cái thời viết báo chung chung, theo chủ nghĩa nghĩa tập thể khơng chịu
trách nhiệm. Đối với tơi, phóng sự phải có dấu ấn của tác giả, nó mang lại cho bài viết
những nét riêng : cái tôi tác giả”[26;80]. Nhiều tác giả đã mạnh dạn xưng “tơi” trong
tác phẩm của mình. Một phóng sự ra đời là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm
túc của một nhà báo chân chính.
Trong phóng sự, cái tơi – tác giả là người dẫn chuyện, trình bày, lý giải, khâu
nối những dữ liệu mà tác phẩm đề cập. Cái tôi trần thuật – nhân chứng khách quan vừa
góp phần tạo ra sự khác biệt về hình thức thể hiện tác phẩm, đồng thời quy định tính
chất của nội dung. Khác với các thể loại báo chí khác sử dụng cái tơi thẩm mỹ, phóng
sự lồng vào trong đó cái tơi nhân chứng nhằm tạo ra một tiếng nói tương đối khách
quan trước hiện thực. Nhà báo không cố gắng áp đặt mà để cho sự thật thuyết phục
công chúng. Trong những trường hợp cần thiết, nhà báo có thể trình bày trong cùng
một tác phẩm những quan niệm, cách đánh giá khác nhau trước một vấn đề của hiện
thực, đồng thời nêu ý kiến thẩm định của mình. Đương nhiên, trong những trường hợp



16
như vậy, tiếng nói của nhà báo phải là tiếng nói đúng đắn nhất trên cơ sở những chi
tiết, sự việc, sự kiện mà nhà báo đã trực tiếp chứng kiến.
Như vậy, với hình thức kết cấu tương đối co giãn, với bút pháp đa dạng và đặc
biệt là sự xuất hiện của cái tơi trần thuật, phóng sự sẽ giúp nhà báo có thể truyền đạt
thơng tin một cách phong phú, hấp dẫn hơn so với các thể loại báo chí khác.
- Phóng sự có kết cấu linh hoạt, bút pháp gần với văn học trong việc phản ánh và
thẩm định hiện thực
Không thể phủ nhận một điều là phóng sự báo chí hiện đại kết hợp trong mình
cả tính chất thơng tấn lẫn tính chất văn học. Tác giả biết cách đặt nội tâm của mình vào
trong bài báo một cách khéo léo và phù hợp, đây cũng là một yếu tố để chia sẻ với bạn
đọc những vấn đề mà tác giả tâm đắc. Do đó mà ngơn ngữ phóng sự giàu chất văn học
được thể hiện qua một số phương thức tiêu biểu như phép điển hình hóa, nhân cách
hóa, so sánh, liên tưởng, miêu tả. Tính văn học giúp cho bài phóng sự phong phú, hấp
dẫn, phần nào bớt đi sự khô khan của thông tin, chứ không dùng quá mức để biến bài
báo thành một bài văn.
Chỉ ở thể loại phóng sự, chúng ta mới bắt gặp những đoạn miêu tả giàu hình ảnh
và sinh động như: “Một trưa nắng tháng 11, làng mộc Canh Nậu mờ ảo trong lớp bụi
mùn gỗ. Tiếng đục đẽo, tiếng chà xát, tiếng cưa, xẻ gỗ rền vang trong bầu khí oi bức
khiến người ta có cảm giác ức chế. Hai bên dẫn vào làng, các xưởng gỗ với quy mô lớn
nhỏ mọc lên san sát. Những người thợ, kẻ khẩu trang, găng tay, người đeo kính, đeo
mặt nạ thoăn thoắt tay làm, cả người để hở mỗi đơi mắt chỉ kịp nhìn theo vị khách lạ là
tơi trong vài giây rồi lại cúi xuống đục, đẽo chăm chú...”(Canh Nậu – nơi không thể
nhận ra tuổi tác, 13/11/2015). Thông qua việc miêu tả một cách chi tiết, tỉ mỉ, người
đọc dễ dàng hình dung ra cảnh tượng của những người dân làng Canh Nậu với cái nghề
“sướng ít khổ nhiều” – nghề mộc. Chính cái nghề ấy lại là mối nguy hiểm đến sức khỏe
của họ, khiến cho ai nhìn cũng phải thảng thốt về sự đối nghịch giữa vẻ ngoài và tuổi
thật quá đỗi bất ngờ của những con người nơi đây.



17
1.3. Một số khái niệm liên quan đến phân tích diễn ngơn phóng sự báo chí
1.3.1. Ngữ vực
1.3.1.1. Khái niệm
Theo Halliday, “Phạm trù ngữ vực được đưa ra để giải thích cho việc sử dụng
ngơn ngữ. Khi hoạt động trong các ngữ cảnh khác nhau, ngôn ngữ sẽ biến đổi cho phù
hợp với tình huống” [46;88]. Như vậy có thể thấy ngữ vực có thể được xây dựng nên
từ những khác biệt về ngữ pháp, từ vựng của mỗi diễn ngơn. Việc sử dụng ngơn ngữ
ln địi hỏi người nói phải lựa chọn các yếu tố ngữ pháp để thực hiện mục tiêu giao
tiếp của mình. Mỗi ngữ vực có ba đặc trưng là: trường (field), thức (mode) và khơng
khí chung (tenor).
Theo Diệp Quang Ban, “Trường là sự kiện tổng qt trong đó văn bản hành
chức, cùng với tính chủ động có mục đích của người nói người viết; bởi vậy nó bao
gồm đề tài-chủ đề (subject-matter) với tư cách một yếu tố trong đó. Nói vắn tắt, trường
là tính chủ động xã hội được thực hiện.”[8;285]. Như vậy, trường là nơi gây ra kích
thích (hoặc cảm hứng) để con người chủ động tạo văn bản và là nơi cung cấp đề tài –
chủ đề cho văn bản. Với một diễn ngơn phóng sự đời sống xã hội, trường có thể là
chuỗi các yếu tố từ vựng dùng trong ngữ vực đời sống xã hội. Hatim và Mason cho
rằng, “Không nên nhầm lẫn giữa khái niệm trường diễn ngôn với chủ đề diễn ngôn, bởi
lẽ trong khi sử dụng ngôn ngữ chúng ta có thể gặp một trường mà trong đó có nhiều
chủ đề. Ví dụ như trong giới hạn của một bài nghiên cứu khảo sát các diễn ngôn phóng
sự về trường đời sống xã hội, sẽ bao gồm nhiều vấn đề về xã hội như an toàn thực
phẩm cho người tiêu dùng, sự tắc trách trong giải quyết vấn đề của những người có
thẩm quyền, vấn đề tham nhũng, vấn đề ngập lụt, vấn đề về người nghèo trong xã
hội,...”[dẫn theo 8;286]
“Thức (mode) là chức năng của văn bản trong sự kiện đó, do vậy bao gồm cả
hai kênh của ngơn ngữ - nói và viết, ứng khẩu và có chuẩn bị - và thể loại của nó, hay
là cách tu từ, loại như kể, giáo huấn, thuyết phục, “giao thiệp đưa đẩy” v.v... Nói vắn

tắt, thức là vai trị ngơn ngữ trong tình huống.”[8;286]. Theo cách hiểu này, thức là
cách tạo ngơn ngữ thích hợp với sự kiện cần diễn đạt, chịu sự chi phối của các điều


18
kiện tạo văn bản. Cụ thể ở diễn ngơn phóng sự thì thức góp phần xác định kiểu (thể
loại) hình thành văn bản thích hợp.
“Khơng khí chung (tenor) phản ánh loại hình tương tác theo vai, tập hợp các
quan hệ xã hội thích ứng, tính lâu dài hay nhất thời, giữa những người tham dự hữu
quan.” [8;276]. Có thể nói, khơng khí chung biểu thị mối quan hệ giữa người nói và
người nghe, hoặc giữa người viết với người đọc, qua đó diễn ngơn có thể được hiểu là
thơng tục, lịch sự, hình thức hay thân mật.
Tóm lại có thể hiểu, trường là hoạt động được nhắc đến, và đang xảy ra, tại thời
điểm diễn ngơn. Khơng khí diễn ngơn là các mối quan hệ xã hội giữa các tham tố.
Thức diễn ngơn là phương tiện diễn tả có thể bằng ngơn bản hay bằng văn bản. Những
tiêu chí này giúp chúng ta phân biệt được các ngữ vực như văn bản khoa học, quảng
cáo, ngơn ngữ báo chí. Ba yếu tố của ngữ vực gồm trường, thức và không khí chung
ln tồn tại lồng ghép vào nhau trong một diễn ngơn. Chính ngữ vực cho phép ta nhận
diện văn bản đang xét thuộc thể loại nào, có thể thuộc truyện kể, văn chương, thơ, hay
hành chính – cơng vụ...Ngữ vực là một yếu tố cần thiết để xác định được những đặc
điểm để phân biệt phóng sự với các thể loại khác.
Vào những năm 1970, Halliday cho rằng ngữ vực là những biến thể được xác
định dưới hình thức ngôn ngữ, trong những chu cảnh sử dụng khác nhau. Tác giả cũng
cho rằng ngữ vực là một loạt các nghĩa phù hợp với chức năng cụ thể của ngôn ngữ, nó
được xem là cấu tạo của các nguồn ngữ nghĩa, trong đó một phần của văn hóa kết hợp
với từng tình huống.
Vai trị của ngữ vực trong diễn ngơn phóng sự báo chí được hiểu như sau:
-

Trường là những gì ngơn ngữ bàn về, cụ thể ở đây là diễn ngơn phóng sự viết về


vấn đề gì.
-

Thức diễn ngơn là vai trị của ngơn ngữ trong giao tiếp tương tác, tức là cách

thức để tạo nên một bài phóng sự, ở đây là hình thức viết.
-

Khơng khí chung là mối quan hệ về vai giữa các bên tham gia tương tác, hay nói

khác đi là diễn ngơn phóng sự nhắm đến ai là đối tượng đọc văn bản.


×