Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Phân lập và tuyển chọn vi khuẩn từ ruột cá Trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella) có khả năng sinh tổng hợp cellulase

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (503.06 KB, 8 trang )

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM - HỘI NGHỊ KHOA HỌC QUỐC GIA LẦN THỨ 4
DOI: 10.15625/vap.2020.000106

PHÂN LẬP VÀ TUYỂN CHỌN VI KHUẨN TỪ RUỘT CÁ TRẮM CỎ
(Ctenopharyngodon idella) CÓ KHẢ NĂNG SINH TỔNG HỢP CELLULASE
Đoàn Văn Thược*, Nguyễn Thị Ngọc Huyền
Tóm tắt: Nghiên cứu này tập trung phân lập và tuyển chọn vi khuẩn có khả năng
sinh tổng hợp cellulase từ ruột cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella). Sử dụng
môi trường tuyển chọn có chứa Carbomethyl cellulose (CMC), chúng tơi đã phân
lập và cấy tách được 35 chủng vi khuẩn. Hai chủng vi khuẩn có khả năng sinh
tổng hợp cellulase cao nhất đã được tuyển chọn để nghiên cứu tiếp. Hai chủng
tuyển chọn đều là vi khuẩn Gram dương, hình trực khuẩn và có khả năng sinh
tổng hợp cellulase cao nhất sau 24-30 giờ nuôi cấy ở điều kiện môi trường có
chứa 2-2,5% CMC, pH trung tính, và nhiệt độ 35 oC. Ở các điều kiện tối ưu này,
hai chủng C1 và C4 có hoạt tính endoglucanase (EG) cao nhất lần lượt là
4,32 IU/mL và 4,36 IU/mL, hoạt tính exoglucanase (CBH) cao nhất lần lượt là
1,37 IU/mL và 1,39 IU/mL.
Từ khóa: Ctenopharyngodon idella, Cá trắm cỏ, cellulase, vi khuẩn.

1. MỞ ĐẦU
Cellulose là một hợp chất cao phân tử được cấu tạo từ các đơn phân D-glucose qua
các liên kết β - 1,4 - glucoside, có cơng thức cấu tạo là (C6H10O5)n với n nằm trong khoảng
1.000 - 15.000. Hằng năm một lượng lớn sinh khối cellulose (trên 7,5 x 1010 tấn) được tạo
thành chủ yếu từ quá trình quang hợp của thục vật. Cellulose là thành phần chính tạo nên
lớp thành tế bào của thực vật, giúp các mô thực vật có độ bền cơ học và tính đàn hồi
(Jayasekara & Ratnayyaka, 2019). Cellulase là một nhóm gồm nhiều enzyme hoạt động
cùng nhau để phân giải cellulose thành sản phẩm cuối cùng là các phân tử glucose. Phức hệ
cellulase gồm 3 loại enzyme là endoglucanase (EG), exoglucanase (cellobiohydrolase CBH) và β-glucosidases. Cellulase đã và đang được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực của cuộc
sống: trong nông nghiệp, công nghiệp sản xuất giấy, công nghiệp dệt, nhiên liệu sinh học,
công nghiệp chế biến thực phẩm và thức ăn cho động vật, công nghiệp rượu bia (Kuhat et
al., 2018; Jayasekara & Ratnayyaka, 2019). Các chế phẩm cellulase trên thị trường hiện nay


chủ yếu có nguồn gốc từ vi sinh vật. Cellulase có thể được sinh tổng hợp bởi các chủng nấm
thuộc các chi như Aspergillus, Rhizopus, Tricoderma, Fusarium, Neutospora, Penicillium
(Sajith et al., 2016), hoặc bởi vi khuẩn thuộc chi Cellulomonas, Cellvibrio, Bacillus,
Pseudomonas,… (Kuhat et al., 2018; Jayasekara & Ratnayyaka, 2019).
Những động vật ăn cỏ ví dụ trâu bị, cá chép khơng có khả năng sinh tổng hợp
cellulase nên chúng phải dựa vào hệ vi sinh vật (nấm, vi khuẩn, nguyên sinh vật) trong
đường tiêu hóa để tiêu thụ cellulose (Li et al., 2016). Nhiều vi khuẩn có khả năng sinh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
*Email:


PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

857

tổng hợp cellulase đã được phân lập từ ruột cá trắm cỏ (Ctenopharyngodon idella). Saha et
al., (2006) đã phân lập được chủng vi khuẩn Bacillus megaterium (CI3) có khả năng sinh
tổng hợp cellulase khá mạnh (35,8 IU/mL). Gần đây, Li et al., (2016) đã phân lập được
499 chủng vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp cellulase từ ruột cá trắm cỏ.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi phân lập và tuyển chọn các chủng vi khuẩn từ ruột
cá trắm cỏ có khả năng sinh tổng hợp cellulase mạnh nhằm định hướng ứng dụng trong
sản xuất thức ăn cho động vật. Kết quả phân lập và nghiên cứu ảnh hưởng của các điều
kiện nuôi cấy như nhiệt độ, pH, thời gian nuôi cấy, nồng độ Carbomethyl cellulose (CMC)
sẽ được trình bày chi tiết trong bài báo này.
2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Vật liệu nghiên cứu: Cá trắm cỏ được thu mua ở chợ.
Thành phần môi trường sử dụng trong nghiên cứu
Môi trường phân lập vi khuẩn (g/L): NaCl, 0,5; K2HPO4.3 H2O, 1; MgSO4.7H2O,
0,4 KH2PO4, 1; FeSO4.7H2O, 0,001; CaCl2.2H2O, 0,02; NH4Cl, 2; CMC, 10; thạch, 20;

pH = 7,0.
Môi trường giữ giống và nghiên cứu (g/L): peptone: 5; cao thịt: 5; NaCl: 5;
CMC:10; bổ sung thêm 20 g thạch nếu là môi trường đặc, pH = 7,0.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân lập mẫu
Thu mẫu phân trong ruột cá trắm cỏ, cân 1 g mẫu và hòa trong 9 mL dung dịch có
chứa 0,9% NaCl được dung dịch có độ pha loãng 10-1, tiếp tục pha loãng trong dung dịch
0,9% NaCl để được các dung dịch có nồng độ 10-2, 10-3, 10-4, 10-5, 10-6. Dùng pipet hút 50
µl dịch ở các nồng độ khác nhau dàn đều lên đĩa thạch có chứa mơi trường phân lập và ủ ở
nhiệt độ 30 oC trong 48 giờ. Chọn các khuẩn lạc to mọc riêng rẽ, cấy tách và giữ giống
trên môi trường giữ giống. Các chủng vi khuẩn sau đó được cấy chấm điểm trên mơi
trường có chứa 1% CMC để đánh giá sơ bộ và lựa chọn các chủng có khả năng sinh tổng
hợp cellulase mạnh.
Ảnh hưởng của điều kiện nuôi cấy (nhiệt độ, pH) và nguồn carbon đến khả năng sinh
tổng hợp cellulase
Nuôi các chủng giống vi khuẩn tuyển chọn trong bình tam giác 100 mL có chứa
25 mL mơi trường lỏng. Ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy, nhiệt độ nuôi cấy (25, 30, 35,
40 oC), giá trị pH ban đầu khác nhau (4,5 - 8,5, bước nhảy 0,5) và nồng độ CMC đã lần
lượt được nghiên cứu. Sau 30 giờ ni cấy trong tủ lắc có tốc độ 180 vòng/phút, li tâm thu
dịch nổi để xác định hoạt tính cellulase ngoại bào. Dựa vào hoạt tính enzyme thu được để
xác định điều kiện nuôi cấy và nguồn carbon phù hợp.
Phương pháp xác định hoạt tính enzyme


BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

858

Xác định sơ bộ hoạt tính cellulase bằng phương pháp cấy chấm điểm
Cấy chấm điểm các chủng vi khuẩn trên đĩa thạch mơi trường có chứa 1% CMC, ủ ở

nhiệt độ 30 oC trong 48 giờ. Sử dụng 1% congo đỏ để nhuộm và giữ trong 30 phút, rửa lại
bằng nước muối 1 M. Hoạt tính enzyme được xác định bằng hiệu số D - d (D là đường
kính vịng phân giải, d là đường kính khuẩn lạc).
Xác định hoạt tính enzyme bằng phương pháp định lượng đường khử
Cơ chất CMC được sử dụng để xác định hoạt tính endoglucanase và bột giấy lọc
được sử dụng để đánh giá hoạt tính exoglucanase. Hàm lượng đường khử được tạo ra
trong quá trình thủy phân cellulose được định lượng bằng phương pháp DNS (Miller,
1959), glucose được sử dụng để xây dựng đồ thị chuẩn. Dịch nuôi cấy (50 µL) được trộn
với 450 µL dung dịch cơ chất 0,5% pha trong đệm acetate (pH = 5,5), ủ hỗn hợp phản ứng
ở 50 oC trong 1 giờ. Sau đó, 750 µL dung dịch có chứa 1 % DNS được thêm vào hỗn hợp
phản ứng, tiếp tục ủ hỗn hợp này ở 100 oC trong 5 phút, để nguội và đo mật độ quang
(OD) ở bước sóng 540 nm. Mẫu đối chứng được chuẩn bị tương tự như mẫu thí nghiệm
nhưng bỏ qua bước ủ ở 50 oC trong 1 giờ và xử lý ngay với DNS để xác định lượng đường
ban đầu khơng có sự hoạt động của enzyme.
Đơn vị hoạt tính enzyme (IU/mL) được tính là lượng enzyme cần thiết để tạo ra
0,18 mg (ứng với 1 µmol) đường khử glucose trong 1 phút ở điều kiện thí nghiệm.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Kết quả phân lập và tuyển chọn vi khuẩn sinh tổng hợp cellulase
Từ các mẫu phân lấy từ ruột cá trắm cỏ, chúng tôi đã tiến hành phân lập và tuyển chọn
35 khuẩn lạc vi khuẩn to, mọc riêng rẽ đã được cấy tách trên mơi trường giữ giống (kí hiệu từ
C1 đến C35). Khả năng sinh tổng hợp cellulase của 35 chủng vi khuẩn phân lập được đã được
kiểm tra bằng phương pháp cấy chấm điểm trên mơi trường có chứa 1% CMC.
Bảng 1. Hoạt tính cellulase của các chủng vi khuẩn phân lập được
Chủng
vi khuẩn
C1
C2
C3
C4
C5

C6
C7
C8
C9
C10
C11
C12

Đường kính vịng
phân giải (D-d, cm)
1,5
0
0
1,3
0
0
0
0
0
0
1,0
0,8

Chủng vi
khuẩn
C13
C14
C15
C16
C17

C18
C19
C20
C21
C22
C23
C24

Đường kính vịng
phân giải (D-d, cm)
1,0
0,7
1,3
0,4
0,6
0,9
0,7
0,7
0
0,9
0
0

Chủng vi
khuẩn
C25
C26
C27
C28
C29

C30
C31
C32
C33
C34
C35

Đường kính vịng
phân giải (D-d, cm)
0
0
0
0
0
0,5
0,5
0,6
0
0,8
1,0

Kết quả trong Bảng 1 cho thấy có 18 chủng vi khuẩn trên tổng số 35 chủng tuyển
chọn (chiếm 51,4%) có khả năng sinh tổng hợp cellulase. Kết quả nghiên cứu này cũng


PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

859

tương tự như kết quả nghiên cứu của Li et al., (2016), các tác giả này đã tuyển chọn được

499 chủng vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp cellulase từ ruột cá trắm cỏ và thấy rằng
quá nửa số chủng vi khuẩn phân lập được có khả năng sinh tổng hợp cellulase. Trong số
18 chủng có khả năng sinh cellulase, chúng tơi đã chọn 2 chủng vi khuẩn có khả năng sinh
trưởng mạnh và có đường kính vịng phân giải cơ chất lớn hơn 1 cm: đó là chủng C1
(1,5 cm) và chủng C4 (1,3 cm) để thực hiện các nghiên cứu tiếp theo. Khuẩn lạc chủng C1
khơng trịn, có màu trắng vàng, tế bào dạng trực khuẩn, Gram dương. Khuẩn lạc chủng C4
có màu trắng sữa, nhày ướt, phồng ở giữa, tế bào hình trực khuẩn ngắn, Gram dương.
Ngồi khả năng sinh tổng hợp cellulase, 2 chủng vi khuẩn này cịn có khả năng sinh tổng
hợp enzyme ngoại bào khác là amylase (C1-1,6; C4-1,8) và protease (C1-1,4; C4-1,3). Hai
chủng vi khuẩn có khả năng sinh tổng hợp một số enzyme ngoại bào có ý nghĩa vơ cùng
quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu các chủng này vào trong thực tiễn ví dụ như
sản xuất enzyme bổ sung vào thức ăn chăn nuôi, sản xuất chế phẩm sinh học làm sạch môi
trường, xử lý rác thải hữu cơ, làm phân bón vi sinh,…
3.2. Ảnh hưởng của thời gian đến khả năng sinh tổng hợp cellulase của 2 chủng
vi khuẩn tuyển chọn
Chúng tôi tiến hành thí nghiệm xác định ảnh hưởng của thời gian nuôi cấy đến khả năng
sinh tổng hợp cellulase của 2 chủng vi khuẩn tuyển chọn. Mẫu được lấy theo các mốc thời
gian bắt đầu 12 đến 33 giờ với bước nhảy là 3 giờ. Kết quả được trình bày trong Hình 1.

Hình 1. Ảnh hưởng của thời gian ni cấy đến khả năng sinh tổng hợp endoglucanase (EG)
và exoglucanase (CBH) của 2 chủng vi khuẩn tuyển chọn

Hoạt tính sinh tổng hợp cellulase của 2 chủng C1, C4 đạt giá trị cao nhất tại thời
điểm từ 24-30 giờ nuôi cấy. Trong đó, chủng C1 có hoạt tính enzyme cao nhất tại thời
điểm 30 giờ nuôi cấy với endoglucanase là 2,52 IU/mL và exoglucanase là 1,13 IU/mL;
chủng C4 có hoạt tính endoglucanase cao nhất là 2 IU/mL tại thời điểm 27 giờ và
exoglucanase cao nhất là 1,05 IU/mL tại thời điểm 24 giờ nuôi cấy. Khi nghiên cứu ảnh
hưởng của thời gian đến khả năng sinh tổng hợp cellulase của 6 chủng vi khuẩn phân lập
được từ ruột cá trắm cỏ, Li et al. (2009) thấy rằng cần khoảng 5-7 ngày để các chủng đó có
thể đạt nồng độ cellulase cực đại. Tuy nhiên, 3 chủng tuyển chọn trong nghiên cứu này chỉ

cần hơn 1 ngày, việc rút ngắn thời gian nghiên cứu sẽ giảm rất nhiều chi phí sản xuất.


860

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

3.3. Ảnh hưởng của pH ban đầu đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của các pH ban đầu khác nhau đến khả năng sinh
tổng hợp cellulase được trình bày trong Hình 2. Hoạt tính enzyme của 2 chủng vi khuẩn
tuyển chọn tăng dần khi giá trị pH ban đầu của môi trường nuôi cấy tăng lên. Khi pH ban
đầu của mơi trường ni cấy là trung tính (6,5-7,5) thì hoạt tính enzyme cao nhất. Hoạt
tính cellulase của chủng C1 đạt giá trị cực đại khi pH ban đầu là 7,5: endoglucanase là
3,22 IU/mL và exoglucanase là 0,94 IU/mL. Trong khi đó chủng C4 có hoạt tính enzyme
cực đại (endoglucanase là 3,14 IU/mL và exoglucanase là 1,13 IU/mL) khi pH ban đầu
của mơi trường ni cấy bằng 7.

Hình 2. Ảnh hưởng của pH ban đầu đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
của 2 chủng vi khuẩn tuyển chọn

3.4. Ảnh hưởng của nhiệt độ nuôi cấy đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
Bên cạnh giá trị pH, nhiệt độ là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng
lớn đến sự phát triển của vi sinh vật. Hai chủng vi khuẩn tuyển chọn được ni trên mơi
trường có pH tối ưu (chủng C1 ở pH 7 và chủng C4 ở pH 7,5) và các nhiệt độ nuôi cấy
khác nhau (30 oC, 35 oC, 40 oC, 45 oC). Khả năng sinh tổng hợp cellulase của 2 chủng vi
khuẩn ở các nhiệt độ khác nhau được trình bày trong Hình 3.
Hai chủng vi khuẩn C1, C4 có khả năng sinh tổng hợp cellulase cao khi được nuôi
cấy ở nhiệt độ 30-35 oC, tốt nhất ở nhiệt độ 35 oC. Khi nhiệt độ của mơi trường ni cấy
khoảng 40 oC hoặc trên đó thì hoạt tính cellulase giảm mạnh. Sự thay đổi của nhiệt độ ảnh
hưởng đến hoạt tính endoglucanase mạnh hơn so với hoạt tính exoglucanase.

Trong một nghiên cứu gần đây của Islam & Roy (2018), các tác giả này đã phân lập
được 3 chủng vi khuẩn từ rỉ đường có khả năng sinh tổng hợp cellulase. Trong số 3 chủng
vi khuẩn phân lập được thì có 2 chủng vi khuẩn Gram dương là Paenibacillus sp. C1 và
Bacillus sp. C2. Islam & Roy đã nghiên cứu ảnh hưởng của thời gian, nhiệt độ và pH môi
trường nuôi cấy đến khả năng sinh tổng hợp cellulase của các chủng phân lập được. Các


PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

861

kết quả thu được của Islam và Roy cũng tương tự như ở trong nghiên cứu này: pH thích
hợp là 7,0; nhiệt độ trong khoảng 35-40 oC và thời gian nuôi cấy là 24-30 giờ.

Hình 3. Ảnh hưởng của nhiệt độ đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
của 2 chủng vi khuẩn tuyển chọn

3.5. Ảnh hưởng của nồng độ CMC đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
Trong nghiên cứu gần đây của Islam & Roy (2018), các tác giả này nhận thấy CMC
là nguồn carbon có ảnh hưởng tốt đến khả năng sinh tổng hợp cellulase của các chủng vi
khuẩn tuyển chọn. Trong nghiên cứu này chúng tôi cũng đã sử dụng 1% CMC trong môi
trường phân lập và nuôi cấy. Tuy nhiên, hàm lượng CMC trong mơi trường ni cấy cũng
có thể ảnh hưởng nhiều đến khả năng sinh tổng hợp cellulase. Do vậy, ảnh hưởng của các
nồng độ CMC khác nhau trong môi trường nuôi cấy đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
của chủng C1 và C4 đã được nghiên cứu.

Hình 4. Ảnh hưởng của nồng độ CMC đến khả năng sinh tổng hợp cellulase
của 2 chủng vi khuẩn tuyển chọn

Kết quả nghiên cứu trong Hình 4 cho thấy khi nồng độ C tăng thì hoạt tính enzyme

thu được từ dịch ni cấy tăng. Hoạt tính endoglucanase của cả 2 chủng ni cấy đều đạt
giá trị cực đại ở nồng độ 2% CMC, trong đó chủng C1 là 4,32 IU/mL cịn chủng C4 là
4,36 IU/mL. Nồng độ 2,5% CMC là thuận lợi nhất cho khả năng sinh tổng hợp


862

BÁO CÁO KHOA HỌC VỀ NGHIÊN CỨU VÀ GIẢNG DẠY SINH HỌC Ở VIỆT NAM

exoglucanase: chủng C1 là 1,37 IU/mL cịn C4 là 1,39 IU/mL. Hoạt tính cellulase có xu
hướng giảm khi nồng độ CMC tăng cao. Kết quả nghiên cứu cho thấy, CMC vừa là nguồn
dinh dưỡng, vừa là chất cảm ứng quá trình sinh tổng hợp enzyme cellulase, tuy nhiên khi
nồng độ chất cảm ứng (CMC) tăng cao thì lại có xu hướng ức chế sinh tổng hợp cellulase.
4. KẾT LUẬN
Chúng tôi đã tiến hành phân lập và cấy tách được 35 chủng vi khuẩn từ mẫu phân
trong ruột cá trắm cỏ. Hai chủng vi khuẩn kí hiệu C1 và C4 có khả năng sinh trưởng và
tổng hợp cellulase mạnh đã được tuyển chọn nghiên cứu. Hai chủng tuyển chọn có khả
năng sinh tổng hợp enzyme cao nhất sau 24 đến 30 giờ nuôi cấy ở nhiệt độ 30-35 oC, pH
từ 6,5-7,5 và nồng độ CMC từ 2,0-2,5%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Islam R., Roy N., 2018. Screening, purification and characterization of cellulase from cellulase
producing bacteria in molasses. BMC Res. Note., 11: 445. />Jayasekara S., Ratnayake R., 2019. Microbial cellulases: an overview and applications. In Pascual
A. R., (ed) Cellulose. Intechopen. DOI: />Kuhad R. C., Gupta R., Singh A., 2018. Microbial cellulases and their industrial applications.
Enzyme Res. 2011:280696. doi: 10.4061/2011/280696.
Li H., Wu S., Wirth S., Hao Y., Wang W., Zou H., Li W., Wang G., 2016. Diversity and activity
of cellulolytic bacteria, isolated from the gut contents of grass carp (Ctenopharyngodon
idellus) (Valenciennes) fed on Sudan grass (Sorghum sudanense) or artificial feedstuffs.
Aquac. Res., 47: 153-164.
Li H., Zheng Z., Cong-xin X., Bo H., Chao-yuan W., Gang H., 2009. Isolation of celluloseproducing microbes from the intestine of grass carp (Ctenopharyngodon idellus). Environ.
Biol. Fish., 86: 131-135.

Miller G. L., 1959. Use of dinitrosalicylic acid reagent for determination of reducing sugars. Anal.
Chem., 31: 426-428.
Sajith S., Priji P., Sreedevi S., Benjamin S., 2016. An overview on fungal cellulases with an
industrial perspective. J. Nutr. Food. Sci., 6: 461. doi:10.4172/2155-9600.1000461.
Saha S., Roy R. N., Sen S. K., Ray A. K., 2006. Characterization of cullulase-producing bacteria
from the digestive tract of tilapia, Oreochromis mossambica (Peters) and grass carp,
Ctenopharyngodon idella (valenciennes) Aquac. Res., 37: 380-388.


PHẦN II. NGHIÊN CỨU ỨNG DỤNG SINH HỌC PHỤC VỤ ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI

863

ISOLATION AND SCREENING OF CELLULASE PRODUCING BACTERIA
FROM THE INTESTINE OF GRASS CARP (Ctenopharyngodon idella)
*Doan

Van Thuoc*, Nguyen Thi Ngoc Huyen

Abstract: Isolation and screening of cellulase producing bacteria in intestine of
grass carp (Ctenopharyngodon idella) have been carried out using selective
carboxymethylcellulose - agar (CMC-agar) medium. Thirty five bacteria strains
were collected from isolation medium. Among the isolated strains, two strains
C1 and C4 which exhibited high cellulolytic activity were selected for further
studies. The two strains are Gram positive, rod-shaped bacteria. They showed
high potentiality for maximum cellulase production at 35 oC, pH neutral, and
after 24-30 h of cultivation in a medium containing 2-2.5% CMC. The maximum
endoglucanase activity of 4.32 and 4.36 IU/mL, and exoglucanase activity of 1.37
and 1.39 IU/mL were respectively obtained by strains C1 and C4 at the optimum
culture conditions.

Keywords: Ctenopharyngodon idella, Bacteria, cellulase, grass carp.

Hanoi National University of Education
*Email:



×