2
MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. PHẦN MỞ ĐẦU
3
1. Lí do chọn sáng kiến
3
2. Mục tiêu sáng kiến
3
3. Phạm vi của sáng kiến
3
II – CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
3
1.Cơ sở lý luận
3
2. Cơ sở thực tiễn
4
III – NỘI DUNG SÁNG KIẾN
5
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến
5
1.1. Chuẩn bị
5
1.2. Các giải pháp hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm
6
1.2.1. Chia nhóm, bố trí chỗ ngồi, giao nhiệm vụ, giới hạn và giám sát
6
hoạt động thảo luận nhóm
1.2. 2. Câu hỏi thảo luận
1.2. 3. Thời gian thảo luận
1.2.4. Thao tác thảo luận
1.2.5. Đánh giá kết quả thảo luận
2. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được
2.1 Tính mới, tính sáng tạo
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến
III – KẾT LUẬN
8
11
12
13
15
15
16
17
I - MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn sáng kiến
Xã hội ngày nay, con người rất coi trọng vấn đề giáo dục, vì vậy làm thế
nào để dạy học tích cực và thật sự có hiệu quả ở tất cả các môn học là một vấn
đề cần thiết và làm thế nào để có phương pháp dạy học mơn Ngữ văn tốt càng
khó khăn rất nhiều. Văn học là một hình thái ý thức xã hội góp phần rèn luyện
kiến thức, kỹ năng, thái độ văn hóa cho con người, đặc biệt là lứa tuổi học sinh.
3
Vì thế nếu giáo viên khơng có cách tổ chức dạy học gây hứng thú cho học sinh
thì rất dễ gây ra sự buồn chán, không tư duy, mất khả năng diễn đạt cảm xúc….
Tồn tại lớn nhất ở đây là do thói quen thụ động, quen nghe, chép ghi nhớ và tái
hiện lại những gì giáo viên nói, các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu,
khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ. Khi chuẩn bị bài học các em
còn phụ thuộc vào sách Văn mẫu, các loại sách tham khảo, khơng dám thốt ly
những gì viết trong tài liệu, dẫn đến khả năng sáng tạo của các em bị hạn chế,
đồng thời khả năng bộc lộ suy nghĩ, tình cảm trước tập thể gặp lúng túng và dễ
bị lạc hướng. Nắm bắt những vấn đề gặp phải khi dạy học môn Ngữ văn, đa số
các trường phổ thông đều áp dụng phương pháp dạy mới, lấy học sinh làm
trung tâm, tổ chức cho các em thảo luận nhóm để các em tự chủ trong việc tìm
hiểu tri thức mới.
2. Mục tiêu của sáng kiến: Nghiên cứu những vấn đề lý luận, thực tiễn về
việc hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm trong có hiệu quả nhắm nâng cao kết
quả học tập môn Ngữ văn tại trường PTDTBT THCS Thiện Hòa.
3. Phạm vi của sáng kiến
- Đối tượng: Học sinh lớp 9 trường PTDTBT THCS Thiện Hòa.
- Thời gian: Từ tháng 9/2020 đến 3/2021
II – CƠ SỞ LÝ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
1. Cơ sở lý luận
- Trong những năm gân đây, cùng với đường lối đổi mới do Đảng ta khởi
xướng và lãnh đạo, đã làm cho diện mạo đât nước thay đôi trên tất cả các lĩnh
vực của đời sông xã hội. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho thế hệ
trẻ, đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố
đất nước, đáp ứng u câu hội nhập quôc tê và nhu câu phát triển của người học,
hệ thống giáo dục các cấp đã và đang được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan
tâm. Mục tiêu và phương pháp giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ
chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực, kĩ năng cần thiết cho
học sinh, đó là: Học khơng chỉ để biết mà học để làm, học để tự khẳng định
mình và học để cùng chung sống.
4
- Vận dụng định hướng trên, trong dạy học môn Ngữ văn ở THCS hiện nay,
được định hướng vào việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của học
sinh trong quá trình học tập. Những kiên thức đạo đức và pháp luật cân hình
thành ở học sinh khơng phải là những khuôn mẫu cho sẵn, mà trong quá trình
học tập, học sinh tự khai thác thơng tin, tự kiên tạo trị thức và kĩ năng, qua đó
phát triển nhận thức, tình cảm, niềm tin và các kĩ năng, hành vi ứng xử trong
cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, trong dạy học môn Ngữ văn ở THCS, việc nghiên
cứu, lựa chọn và vận dụng định hướng trên trong dạy học môn Ngữ văn ở THCS
hiện nay, được định hướng vào việc phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo
của học sinh trong quá trình học tập.
- Với đặc trưng của môn học là một môn khoa học, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để nâng cao chất lượng hiệu quả dạy học của thầy và trị đó là vấn đề hết
sức quan trọng. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy bộ môn Ngữ văn,
bản thân tơi ln suy nghĩ, để tìm ra những phương pháp dạy học nhằm gây
hứng thú cho học sinh khi học bộ mơn của mình để đạt kết quả cao. Đó cũng là
vấn đề được giáo dục quan tâm đặc biệt hiện nay.
2. Cơ sở thực tiễn
- Trường PTDTBT THCS Thiện Hòa là một trường nằm ở khu vực 3 miền
núi. Trong đó 100% học sinh là con em dân tộc thiểu số thuộc các vùng kinh tế
xã hội đặc biệt khó khăn của huyện Bình Gia. Đa số các em học sinh cịn nhút
nhát, thụ động, chưa có ý thức tự học.
- Văn học là một môn học giúp người học khám phá về đời sống của con
người. Chính vì thế nó là một mơn học đóng vai trị rất quan trọng trong nhà
trường. Học Ngữ văn tốt sẽ tác động tích cực đến các mơn học khác, sẽ trang bị
cho người học cơng cụ hữu ích và là một phần quan trọng trong hành trang kiến
thức của mỗi người. Để người học học mơn văn có hiệu quả địi hỏi người dạy
phải khơng ngừng tìm tịi đổi mới phương pháp dạy học, một trong những
phương pháp có hiệu quả hiện nay đó là phương pháp thảo luận nhóm. Phương
pháp này đã được sử dụng thường xuyên liên tục và đã trở thành hoạt động
không thể thiếu cho mỗi tiết dạy. Hẳn sẽ chẳng có gì bàn thêm nếu trường hợp
5
thảo luận nào cũng đạt kết quả khả quan, nhưng thực tế nhiều tiết dạy học sử
dụng phương pháp thảo luận nhưng kết quả thảo luận nhóm vẫn khơng cao, giờ
thảo luận nhóm chính lại là giờ chơi của những em học sinh lười học, học sinh
cá biệt.
Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự kém hiệu quả như vậy ? Làm thế nào để
phương pháp thảo luận nhóm có kết quả cao trong dạy và học…Đây chính là
những nỗi băn khoăn của bản thân tôi cũng như của nhiều đồng nghiệp. Từ
những trăn trở trên tôi mạnh dạn đưa ra một vài kinh nghiệm nhỏ về “Hướng
dẫn học sinh thảo luận nhóm có hiệu quả nhằm nâng cao kết quả học tập
môn Ngữ Văn 9 tại trường PTDTBT THCS THCS Thiện Hòa”.
III – NỘI DUNG SÁNG KIẾN
1. Nội dung và những kết quả nghiên cứu của sáng kiến:
1.1. Chuẩn bị
Từ sự nhận thức, tìm tịi học hỏi của bản thân và đồng nghiệp qua dự giờ,
thao giảng, chuyên đề. Để thực hiện thành công đề tài trên vào tiết dạy địi hỏi
giáo viên phải có sự chuẩn bị kĩ càng, dự định và phân bổ thời gian hợp lí. Cụ
thể như sau:
1.1.1. Giáo viên:
- Soạn bài, xác định mục tiêu bài học.
- Chọn lọc phương pháp, hoạt động phù hợp với học sinh.
- Dành nhiều thời gian cho học sinh luyện tập.
- Bảng phụ, bài tập trắc nghiệm
- Hướng dẫn học sinh chuẩn bị ở nhà.
- Phịng bộ mơn, thiết bị dạy học, ứng dụng công nghệ thông tin.
1.1.2. Học sinh:
- Chuẩn bị bài trước ở nhà: đọc trước văn bản, trả lời câu hỏi trong Sách
giáo khoa và hoàn thành các bài tập trước đó.
- Tích cực tham gia vào các hoạt động trên lớp.
- Thực hiện theo hướng dẫn của giáo viên.
- Đọc, diễn đạt đúng mục đích giao tiếp.
6
- Tự rèn luyện thêm ngoài giờ học.
- Chuẩn bị các dụng cụ học tập: sách giáo khoa, bảng phụ, bút, phấn.
Trên cơ sở lí luận và thực tiễn trong q trình giảng dạy bộ mơn Ngữ văn
nói chung và phân mơn văn học nói riêng. Tơi xin trình bày một số giải pháp
sau.
1.2. Các giải pháp hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm
1.2.1. Chia nhóm, bố trí chỗ ngồi, giao nhiệm vụ, giới hạn và giám sát
hoạt động thảo luận nhóm
- Bước 1: Phân chia nhóm
- Bước 2: Dụng cụ để hoạt động nhóm
- Bước 3: Cách thức thảo luận nhóm.
* Cách tiến hành các bước:
+ Bước 1: Phân chia nhóm
Lớp học được chia thành nhiều nhóm nhỏ: từ 5-7 học sinh. Giáo viên có
rất nhiều cách chia nhóm khác nhau như: Chia nhóm ngẫu nhiên, chia nhóm
theo vị trí ngồi, chia theo tổ, chia theo danh sách, chia theo đặc điểm chung, chia
theo năng lực, chia theo giới tính, chia theo cùng sở thích, chia qua tình huống,
qua trị chơi…Khi chia nhóm cần chú ý tới số lượng và học lực, năng lực của
các học sinh. Không chia nhóm q đơng, nhóm q ít hoặc nhóm tập trung
nhiều học sinh giỏi, nhóm kia phần đơng kém hơn, rụt rè, im lặng. Trong mỗi
nhóm bầu ra một nhóm trưởng, một thư kí. Phân cơng mỗi người một phần việc,
nhiệm vụ cụ thể. Nhóm nhỏ được sử dụng khi khuyến thích sự tham gia suy nghĩ
và tích cực của mọi học sinh trong lớp. Trong nhóm nhỏ mọi học sinh có cơ hội
tham gia nhiều hơn, các học sinh cũng tự tin và tự nhiên hơn khi tham gia bàn
luận trong nhóm nhỏ hơn là nhóm lớn, khắc phục được tâm lí e ngại. Việc bố trí
chỗ ngồi cũng ảnh hưởng tới chất lượng cuộc thảo luận nhóm. Nếu bố trí các
học sinh ngồi quay mặt vào nhau, vị trí ngồi đủ gần để có thể trao đổi, chia sẻ
với nhau một cách thuận lợi. Nên có khoảng cách giữa các nhóm để sự trao đổi
của các nhóm khơng bị ảnh hưởng tới nhau. Nhóm nhỏ được sử dụng khi vấn đề
đưa ra cần được bàn luận sâu hoặc kĩ lưỡng.
7
+ Bước 2. Dụng cụ để hoạt động nhóm
Các nhóm phải có bút dạ, bảng phụ, bảng con hoặc giấy A3, A4 (Học sinh
tự chuẩn bị hoặc giáo viên chuẩn bị). Máy chiếu, câu hỏi thảo luận (Giáo viên
chuẩn bị)
+ Bước 3. Cách thức thực hiện
* Tuỳ theo từng nội dung mà giáo viên đưa ra các cách hoạt động nhóm
khác nhau. Có thể theo các hình thức sau đây:
- Các nhóm cùng một dạng bài
- Hai nhóm làm một dạng bài
- Ba nhóm làm một dạng bài.
Trong giải pháp này tôi tập trung vào các vấn đề trong tâm sau:
- Vấn đề đặt câu hỏi thảo luận cho các nhóm
- Vấn đề về thời gian thảo luận
- Vấn đề về thao tác thảo luận.
Ba vấn đề trên là ba vấn đề mà bản thân tơi trong q trình giảng dạy vẫn
cịn nhiều băn khoăn trăn trở. Vậy tơi mạnh dạn đưa ra các ý kiến nhỏ tơi đã tích
góp được trong quá trình giảng dạy. Cụ thể như sau:
* Giao nhiệm vụ và giới hạn thời gian thảo luận:
Trước khi tiến hành thảo luận nhóm, giáo viên phải giao nhiệm vụ cụ thể,
rõ ràng cho từng nhóm, phải có hướng dẫn cụ thể và định hướng cách thức thảo
luận và trình bày. Thời gian thảo luận cần được giới hạn và phải tương ứng với
nội dung, yêu cầu của vấn đề đặt ra. Thời gian giới hạn phải đủ để học sinh suy
nghĩ, trao đổi. Nếu thời gian quá ít, thảo luận nhóm sẽ sơ sài, khơng đi vào cốt
lõi vấn đề, có thể mang tính đối phó. Nếu thời gian quá dài sẽ tạo sự lơ đãng,
phân tán và làm lỗng khơng khí thảo luận. Trong thảo luận nhóm thì vai trị của
nhóm trưởng là rất quan trọng vì vậy trong quá trình giảng dạy giáo viên cần
phải quan sát thái độ và cách làm việc của từng học sinh để lựa chọn các nhóm
trưởng cho thích hợp. Tuy nhiên, người nhóm trưởng khơng phải là người quyết
định hết tất cả cho buổi thảo luận.
* Giám sát hoạt động thảo luận của từng nhóm:
8
Thời gian các nhóm thảo luận khơng phải là thời gian nghỉ ngơi hoặc làm
việc riêng của học sinh.
Khi học sinh tiến hành thảo luận, giáo viên chuyển từ vị trí người hướng
dẫn sang người giám sát. Giám sát của giáo viên sẽ tránh được một số học sinh
mất tập trung, đứng ngồi cuộc thảo luận. Trong q trình thảo luận, có nhóm
lúng túng khơng hiểu rõ u cầu của vấn đề cần thảo luận, dẫn đến lạc đề, có
nhóm trao đổi sôi nổi nhưng tranh cãi căng thẳng và khơng đưa ra được quyết
định cuối cùng… vì vậy giáo viên cần quan tâm và kịp thời điều chỉnh.
1.2. 2. Câu hỏi thảo luận
- Đây là chất liệu quan trọng là phương tiện cơ bản để tiến hành thảo luận,
song thực tế nó chưa thực sự được chú trọng, mặc dù tiết học nào cũng được sử
dụng nhưng liệu như thế nó có máy móc và nguyên tắc quá hay khơng khi ta cứ
chọn bất kì câu hỏi nào đó trong tiết dạy để thảo luận cho có phương pháp mới
chứ khơng cần quan tâm tới câu hỏi đó có tác dụng như thế nào đối với sự chiếm
lĩnh, mở rộng kiến thức của học sinh.
- Lựa chọn vấn đề thảo luận đây là bước đầu cho việc tổ chức thảo luận
nhóm, trong bộ mơn Ngữ văn có nhiều nội dung, mỗi nội dung có nhiều vấn đề.
Giáo viên trước hết phải biết chia nhỏ các nội dung cơ bản thành nhiều vấn đề
thảo luận và phân bổ một cách hợp lý qua mỗi buổi học, thậm chí từng tiết học.
Câu hỏi thảo luận giáo viên đưa ra phải phù hợp với năng lực học của học sinh,
góp phần làm rõ nội dung của bài học. Câu hỏi thảo luận phải có tác dụng khơi
nguồn mọi tìm tịi của các em học sinh khi đi vào nghiên cứu nội dung bài học.
Có chủ đề có thể thảo luận ngay trên lớp, có chủ đề giáo viên phải chuẩn bị
trước ở nhà để vấn đề thảo luận sẽ được mở rộng và đi vào chiều sâu hơn. Chủ
đề thảo luận nên tập trung vào vấn đề chính của bài học. Việc lựa chọn và diễn
đạt vấn đề cần phù hợp, không q đơn giản nhưng cũng khơng nên q khó đối
với học sinh.
- Ví dụ: Trong chương trình Ngữ văn lớp 9 học kì I chúng ta có thể cho
học sinh thảo luận các chủ đề sau: chủ đề về hình ảnh người lính cụ Hồ, người
nơng dân trong kháng chiến thống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, thân phận lênh
9
đênh chìm nổi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, thông qua các tác
phẩm thơ cụ thể như “Bài thơ tiểu đội xe khơng kính - Phạm Tiến Duật” “Đồng
chí - Chính Hữu”, “Ánh trăng - Nguyễn Duy”, “ Truyện kiều - Nguyễn Du”, “
Truyện Lục Vân Tiên - Nguyễn Đình Chiểu” và qua các tác phẩm truyện như:
“Chuyện người con gái Nam Xương - Nguyễn Dữ”, “Làng - Kim Lân”, “Chiếc
lược ngà - Nguyễn Quang Sáng”, “Lặng lẽ Sa Pa - Nguyễn Thành Long”.
- Giáo viên nên lựa chọn những vấn đề thảo luận hấp dẫn, dễ chia sẻ, dễ
huy động được nhiều ý kiến khác nhau, có tính chất kích thích tính tích cực chủ
động làm việc của học sinh. Khi đặt các câu hỏi thảo luận giáo viên cần phân
nhóm học sinh sao cho phù hợp, trong các nhóm học sinh có những em học tốt
và có những học sinh yếu hơn để các em cùng thảo luận bổ sung cho nhau từ đó
giáo viên phát huy khả năng tự học tự kèm cặp nhau trong nhóm phát huy được
tính tích cực của học sinh, từ đó giúp đỡ những em cịn yếu kém trong học tập.
Vì thế trước khi soạn ra câu hỏi thảo luận giáo viên cần định hướng rõ:
+ Câu hỏi thảo luận phải có nội dung như thế nào?
+ Câu hỏi thảo luận hình ảnh liên quan tới các văn bản?
+ Nên đặt câu hỏi thảo luận vào thời điểm nào trong tiết dạy đối với từng
bài?
Với khía cạnh thứ nhất: Như chúng ta đã biết câu hỏi thảo luận gồm có
hai dạng:
+ Thứ nhất là dạng câu hỏi trắc nghiệm.
+ Thứ hai là dạng câu hỏi tự luận.
Dù câu hỏi ở dạng nào thì cũng cần phải đặt tính hiệu quả của nó lên hàng
đầu. Một câu hỏi thảo luận có thể được xem là “chuẩn” thì câu hỏi đó phải đạt
các yêu cầu sau:
+ Phải ở phần trọng tâm của bài.
+ Phải mang tính chất khái quát, tổng hợp.
Phải là câu hỏi mới được tạo thêm ngoài SGK nhằm bổ sung, mở rộng
theo mục tiêu bài học. Chẳng hạn như khi dạy bài “Nói q” sau khi đã hình
thành được khái niệm nói quá, có thể đặt câu hỏi thảo luận:
10
Hãy sưu tầm một số câu thành ngữ hoặc câu văn xi có sử dụng biện
pháp nói q mà em biết.
Học sinh sẽ thảo luận và ghi những câu đã tìm được vào kết quả thảo luận
của nhóm (ở bảng phụ học sinh) và các nhóm treo kết quả lên bảng. Giáo viên
yêu cầu học sinh chỉ ra từ ngữ nói quá và tác dụng của nói quá.
Cũng là câu hỏi tự thảo luận khác khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn
bản: Tức nước vỡ bờ (Ngơ Tất Tố). Giáo viên có thể cho học sinh thảo luận câu
hỏi mang tính chất mở rộng:
Câu hỏi: Qua văn bản đã được học xong em có thể nhận ra thái độ của
nhà văn Ngô Tất Tố với thực trạng xã hội và đối với phẩm chất của người nông
dân trong xã hội cũ?
* Gv đưa ra gợi ý:
+ Lên án xã hội thống trị áp bức vô nhân đạo
+ Cảm thông cuộc sống thống khổ của người nông dân nghèo.
+ Cổ vũ tinh thần phản kháng của họ.
+ Lòng tin vào phẩm chất tốt đẹp của người nông dân.
Câu hỏi này sẽ giúp học sinh tổng hợp, mở rộng kiến thức (Tuy nhiên tuỳ
vào năng lực của từng nhóm- từng học sinh mà các em có thể trình bày trọn vẹn
hay không trọn vẹn của câu hỏi mở rộng này). Mặc dù thế nào thì giáo viên cần
rút lại:
Đoạn trích đã cho chúng ta thấy sự tàn ác, bất nhân của bọn tay sai chế
độ thực dân phong kiến, nỗi khổ cực của người nông dân đặc biệt là sức mạnh
quật khởi tiềm tàng và cả phẩm chất tốt đẹp của họ…
Phân tích thời sự, tính cấp thiết của vấn đề được đặt ra trong văn bản
“Thông tin về Ngày Trái Đất năm 2000”. Học sinh cần chỉ ra được các nội dung
sau:
Giải thích được thế nào là tính thời sự, tính cần thiết của vấn đề trong đời
sống xã hội.
Tính thời sự nóng hổi của Ngày Trái Đất – lần đầu tiên Việt Nam tham gia
cùng thế giới.
11
Thực trạng ô nhiễm môi trường và việc sử dụng bao bì ni lơng bừa bãi của
người dân Việt Nam đang ở mức báo động.
Vấn đề đặt ra là phải làm cho người dân tác hại của việc sử dụng bao bì ni
lơng và giải pháp phịng ngừa. Khẳng định được giá trị thực tiễn, thời sự của văn
bản.
1.2.3. Thời gian thảo luận:
- Thời gian thảo luận phải phù hợp với dung lượng kiến thức của các câu
hỏi đưa ra. Thời gian khơng được q ít nhưng cũng khơng được quá nhiều. Tùy
theo độ phức tạp của câu hỏi mà giáo viên đưa ra thời gian thảo luận thích hợp.
Nếu thời gian q ít học sinh sẽ khơng có cơ hội đưa ra ý kiến bàn bạc để đi đến
thống nhất làm cho học sinh cảm thấy như vậy là chưa thoả đáng làm mất hứng
thú và phản tác dụng vì thế làm cho các em khơng muốn thảo luận trong các lần
sau. Song thời gian thảo luận quá nhiều cũng khiến cho học sinh không rèn
luyện được sự năng nổ, hoạt bát, tích cực trong học tập và đơi khi tạo điều kiện
cho các em nói chuyện, mất trật tự…Nhưng thời gian cho mỗi vấn đề thảo luận
như thế nào cho vừa là phù hợp thì quả là khơng đơn giản, thiết nghĩ nó chỉ
mang tính ước chừng mà thơi. Sau đây là một số ví dụ về dạng câu hỏi sử dụng
phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn Ngữ văn THCS. Giáo viên
cần phân bổ thời gian hợp lý cho từng dạng câu hỏi thảo luận nhóm.
+ Sau khi học song văn bản “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, em có cảm nhận gì
về giá trị nội dung và nghệ thuật trong 8 câu thơ cuối của đoạn trích?
+ Trong 8 câu thơ cuối đoạn trích, Nguyễn Du đã chọn cách biểu hiện
“tình trong cảnh ấy, cảnh trong tình này” để diễn đạt tâm trạng của Thúy Kiều.
Có thể thấy mỗi biểu hiện của cảnh đều phù hợp với 12 trạng thái tình cảm của
Thúy Kiều. Nhìn “cửa bể chiều hôm” với “ cánh buồm xa xa”, Kiều nhớ đến quê
nhà, cha mẹ, lúc xót xa cho duyên phận của mình, nàng nghĩ đến “ngọn nước
mới sa”, “hoa trôi man mác”… phép điệp “ buồn trông” mở đầu các câu lục tạo
âm hưởng trầm buồn, đó cũng là điệp khúc tâm trạng của Thúy Kiều. Đây là
đoạn tả cảnh ngụ tình hay nhất trong truyện Kiều.
12
+ Về kết thúc truyện “Chuyện người con gái Nam Xương”, có ý kiến cho
rằng đó là kết thúc có hậu. Em có đồng ý khơng ? Tại sao?
+ Hãy xác định yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm rõ nhất trong văn bản
“Trong lòng mẹ” (Nguyên Hồng).
+ Qua các văn bản “Tơi đi học”,“Trong lịng mẹ”,“Tức nước vỡ bờ” em
hãy khái quát về phẩm chất của người mẹ, người vợ, người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội phong kiến?
+ Em có cảm nhận gì về thân phận người phụ nữ xưa thông qua nhân vật
Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” và nhân vật
Thuý Kiều trong các đoạn trích “Hai chị em Thúy Kiều” của Nguyễn Du ?
- Ở đây những câu hỏi này phải dành thời gian 5-7 phút. (Đây là câu hỏi
không khó song phải có nhiều thời gian thì học sinh mới tìm hết được lượng
kiến thức có trong câu hỏi). Những câu hỏi này địi hỏi các em phải có ở các em
lượng kiến thức tổng hợp, bên cạnh đó cịn phải biết phân tích – tổng hợp dựa
vào tư duy hiểu biết của mình vào giải quyết yêu cầu mà câu hỏi đặt ra. Thông
thường ở dạng câu hỏi này thường có những đáp án và nhận định khác nhau đưa
ra dưới dạng thảo luận nhóm.
1.2.4. Thao tác thảo luận:
- Muốn thảo luận đạt hiệu quả thì việc hình thành nhóm thảo luận cũng rất
quan trọng. Một lớp có thể chia làm 3 hoặc 6 nhóm, nhưng trong nhóm cần có
các đối tượng học sinh giỏi, khá, trung bình, yếu kém (nếu có), tránh phân chia
khơng đồng đều về trình độ học lực. Trong thời gian thảo luân tất cả học sinh
trong nhóm đều phải đưa ra ý kiến đóng góp cho câu hỏi thảo luận, tìm ra những
đáp án đúng nhất cho câu hỏi.
- Thao tác thảo luận là một trong những yếu tố đầu tiên quyết định góp
phần vào sự thành cơng của q trình thảo luận vì vậy giáo viên cần hướng dẫn
cho học sinh tác phong khẩn trương. Giáo viên phải theo dõi, yêu cầu mọi thành
viên trong nhóm đều phải thảo luận dù ở bất cứ lực học nào đều phải đưa ra ý
kiến của mình để được bàn bạc đi đến thống nhất nếu trong nhóm nhất trí với ý
kiến nào thì sẽ lấy ý kiến đó làm kết quả thảo luận. Sau khi thảo luận, kết quả
13
thảo luận được cơng khai các nhóm sẽ nhận xét lẫn nhau, chẳng hạn: nhóm một
nhận xét kết quả của nhóm 3; nhóm 3 nhận xét kết qủa của nhóm 4… Qua đây
tạo điều kiện cho học sinh mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình góp phần làm cho
lớp học sơi nổi hào hứng.
- Thực tế có nhiều giáo viên chưa để tâm đến quá trình làm việc của các
em thảo lụận trong một nhóm. Hình như các em chỉ chụm đầu vào nhau xem
một bạn khá, giỏi trong nhóm ghi kết quả thảo luận ra bảng mà thơi (bảng học
nhóm). Từ những vấn đề trên tơi thiết nghĩ giáo viên cần đưa ra những câu hỏi
thảo luận phù hợp cho đối tượng học sinh các lớp khác nhau không nên chủ
quan, áp đặt, nội dung câu hỏi thảo luận phải phù hợp với thời gian thảo luận.
Muốn có một câu hỏi thảo luận đạt hiệu quả thì giáo viên phải biết phân lượng
thời gian hợp lí trong câu hỏi thảo luận từ đó câu hỏi thảo luận của học sinh mới
đem lại kết quả thiết thực. Khi thực hiện các thao tác thảo luận nhóm tơi rèn
luyện cho học sinh các kĩ năng như: Khả năng bàn luận vấn đề, sự tương tác
giữa các em học sinh trong nhóm, nhanh nhạy trong các tình huống khó cần có
sự thảo luận đưa ý kiến chung, tạo nên sự nhịp nhàng cho tất cả học sinh trong
nhóm cùng hoạt động.
1.2.5. Đánh giá kết quả thảo luận:
- Ở khâu này giáo viên có cơ hội để phát huy vai trị của người hướng dẫn
vì thế cần thể hiện là người “trọng tài”, công minh trong việc xem xét đánh giá
kết quả của các nhóm một cách thật chính xác. Đây cũng là một trong những yếu
tố quan trọng tác động trực tiếp đến hứng thú của học sinh. Giáo viên sẽ là
người rút lại vấn đề với đáp án của câu hỏi thảo luận.
- Khi kết thúc thời gian thảo luận giáo viên cần u cầu các nhóm trình
bày kết quả thảo luận với nhiều hình thức phong phú. Nhóm có thể tự cử đại
diện hoặc giáo viên yêu cầu ngẫu nhiên bất cứ một học sinh nào trong nhóm lên
thuyết trình. Tùy từng vấn đề, giáo viên có thể cho các nhóm tham gia phản
biện, tương tác lẫn nhau. Đặc biệt giáo viên cần sắp xếp thời gian để tất cả các
nhóm được trình bày kết quả thảo luận một cách công bằng .Giáo viên cần linh
hoạt trong việc nhận xét bởi sẽ có nhiều ý kiến hay được đưa ra, nếu có trường
14
hợp này thì giáo viên phải động viên khen ngợi nhằm khích lệ sự sáng tạo của
học sinh. Nhắc nhở những em còn rụt rè còn thiếu tự giác, chưa chủ động, kết
quả thảo luận của các nhóm sẽ được các nhóm, tổ nhận xét sau đó giáo viên cần
chốt lại những vấn đề chính có trong câu hỏi thảo luận của các nhóm.
- Việc đánh giá, nhận xét kết quả hoạt động nhóm cũng rất cần sự hỗ trợ
của cơng nghệ thơng tin. Cụ thể, sau khi có sản phẩm của học sinh, giáo viên thu
và sử dụng máy quay đa vật thể để chiếu lại bài của từng nhóm, yêu cầu học
sinh nhận xét, giáo viên sửa trực tiếp cho học sinh trên phiếu học tập.
- Tổng kết đánh giá là khâu cuối cùng nhưng khá quan trọng của hoạt
động thảo luận nhóm. Giáo viên phải là người nắm vững tri thức lý luận và thực
tiễn, công tâm linh hoạt… thì việc đánh giá kết quả làm việc của nhóm mới đảm
bảo khách quan, cơng bằng, chính xác… Sau khi nhận xét đánh giá kết quả thảo
luận giáo viên nên động viên học sinh bằng cách chấm điểm và kết quả này phải
được ghi đều cho các thành viên trong nhóm vì đây là sản phẩm của cả nhóm.
- Giáo viên là người chịu trách nhiệm đánh giá, nhưng trước khi kết luận,
có thể yêu cầu các học sinh tự đánh giá kết quả làm việc của nhóm và các nhóm
đánh giá kết quả làm việc của nhau. Giáo viên tổng kết lại các vấn đề đã thảo
luận, đánh giá những ý kiến giải quyết mọi câu hỏi của học sinh xung quanh vấn
đề đó. Qua việc kết luận, chốt lại vấn đề sẽ giúp học sinh nắm bắt, ghi nhớ được
nội dung cơ bản, cần thiết.
- Việc đánh giá chủ yếu là nội dung đạt được nhưng bên cạnh đó cần đánh
giá ý thức, thái độ, năng lực làm việc của học sinh. Giáo viên nên nhận xét cụ
thể và cho điểm khích lệ tinh thần học tập của học sinh. Khi cho điểm có căn cứ,
tiêu chí rõ ràng. Với những trường hợp đặc biệt, khi cho điểm cần phân tích rõ lý
do, tránh tình trạng gây băn khoăn, thắc mắc cho học sinh. Kết quả thảo luận
được trình bày dưới nhiều hình thức: lời nói, đóng vai, viết hoặc vẽ lên giấy khổ
to…
- Với quãng thời gian không nhiều và vốn kinh nghiệm giảng dạy tơi nhận
thấy việc áp dụng phương pháp thảo luận nhóm vào giảng dạy mơn Ngữ văn đã
có hiệu quả cao hơn so với cách dạy truyền thống giảng- nghe, đọc - chép. Qua
15
thực tế giảng dạy trong các bài dạy bản thân đã sử dụng phương pháp thảo luận
nhóm và thấy rằng kết quả của việc tiếp nhận kiến thức của học sinh có sự
chuyển biến rõ rệt.
2. Thảo luận, đánh giá kết quả thu được
2.1. Tính mới, tính sáng tạo
Trong suốt q trình giảng dạy ở các năm học trước, tơi đã giành khá
nhiều thời gian cho việc nghiên cứu “Hướng dẫn học sinh thảo luận nhóm có
hiệu quả nhằm nâng cao kết quả học tập môn Ngữ Văn 9’’ tại trường
PTDTBT THCS Thiện Hòa. Thực chất của thảo luận là sự trao đổi ý kiến của
một nhóm người về một vấn đề, có phân tích có lí lẽ để đi đến thống nhất. Qua
đó ta cũng có thể xác định được nhiệm vụ thảo luận là của trị chứ khơng phải là
của thầy nhưng kết quả như thế nào lại phụ thuộc vào thầy- người hướng dẫn, tổ
chức, dẫn dắt tiến trình thảo luận… Nhằm hướng tới mục tiêu giúp các em học
sinh hoạt động sôi nổi hơn, học sinh có thể tự đưa ra ý kiến của riêng mình cho
nhóm, tổ đánh giá và nhận xét, khắc phục được tính rụt rè, chưa chủ động của
các em. Ngồi ra phương pháp thảo luận nhóm cịn rèn cho các em có tác phong
nhanh nhẹn, nói to rõ ràng đặc biệt rèn cho học sinh có khả năng thuyết trình
một vấn đề trước đám đông hay tập thể, rèn kĩ năng sống cho học sinh. Mặt khác
phương pháp thảo luận nhóm cịn giúp giáo viên có thể áp dụng cho tất cả các
tiết học Ngữ văn trung học cơ sở, tùy vào khả năng áp dụng của giáo viên cho
học sinh giải quyết các vấn đề cho thật có hiệu quả. Trong ba phân môn của môn
Ngữ văn (văn bản, tiếng Việt, tập làm văn) giáo viên có thể thực hiện một cách
nhuần nhuyễn với phương pháp này để tăng khả năng tìm tịi, mở mang kiến
thức cho các em. Là một giáo viên Ngữ văn trường trường PTDTBT THCS
Thiện Hòa, tôi đã mạnh dạn đưa ra ra những giải pháp thảo luận nhóm trong
giảng dạy bộ mơn Ngữ văn ở trường THCS nhằm giúp học sinh hình dung được
các kĩ năng thảo luận nhóm như sau:
- Chia nhóm, bố trí chỗ ngồi, giao nhiệm vụ, giới hạn và giám sát hoạt
động thảo luận nhóm.
- Câu hỏi thảo luận.
16
- Thời gian thảo luận.
- Thao tác thảo luận.
- Đánh giá kết quả thảo luận
2.2. Khả năng áp dụng và mang lại lợi ích thiết thực của sáng kiến
a) Khả năng áp dụng hoặc áp dụng thử, nhân rộng:
Như đã trình bày ở phần mơ tả của sáng kiến kinh nghiệm về " Hướng
dẫn học sinh thảo luận nhóm có hiệu quả nhằm nâng cao kết quả học tập
môn Ngữ Văn 9’’. Sáng kiến này không chỉ giới hạn cho việc giảng dạy mơn
Ngữ văn lớp 9 mà có thể nhân rộng áp dụng phương pháp này đối với việc
giảng dạy môn Ngữ văn các lớp 6,7,8 sao cho phù hợp với nội dung chương
trình của từng lớp.
b) Khả năng mang lại lợi ích thiết thực
Để đề tài này có tính thực tiễn và phục vụ trong cơng tác dạy học của bản
thân tơi tại trường PTDTBT THCS Thiện Hịa. Từ khi có ý tưởng tơi đã tiến
hành nghiên cứu và viết phần phương pháp thảo luận nhóm trong giảng dạy môn
Ngữ văn 9 để áp dụng vào việc giúp học sinh có thể tập cho mình thói quen
luyện nói dõng dạc trước lớp và trước một tập thể, rèn cho các em kĩ năng giao
tiếp, ứng xử với mọi người, sau đó đã tiến hành áp dụng phương pháp vào công
tác giảng dạy tại trường trong năm học 2020-2021 và đang tiếp tục xây dựng kế
hoạch thực hiện cho những năm học tiếp theo.
III – KẾT LUẬN
Dù đi theo phương pháp cũ hay mới thì trong quá trình giảng dạy giáo viên
cũng cần phối hợp nhiều phương pháp chứ khơng phải chỉ riêng phương pháp
thảo luận nhóm bởi trong dạy học khơng có phương pháp nào được coi là “Vạn
năng” mà mỗi phương pháp có một nhiệm vụ riêng, một cách thực hiện riêng,
một mục đích riêng và một kết quả riêng. Tuy nhiên phương pháp thảo luận
nhóm lại có ưu thế lớn trong các phương pháp hay dùng hiện nay. Thành công
của bài học không chỉ đơn thuần là sự chủ đạo của người thầy mà còn phụ thuộc
vào sự nhiệt tình tham gia của mọi thành viên. Vì vậy phương pháp này cịn gọi
là phương pháp cùng tham gia.
17
Tuy nhiên phương pháp này còn bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của
lớp học, thời gian hạn định của tiết học cũng ảnh hưởng khơng kém đến q
trình tiếp thu kiến thức của học sinh vì thế giáo viên phải biết tổ chức hợp lí, học
sinh phải nhanh nhẹn chủ động trong mấy phút thảo luận thì mới có hiệu quả
cao. Cần tránh khuynh hướng hình thức, lạm dụng, cho rằng tổ chức hoạt động
nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới phương pháp dạy học, hoạt động
nhóm càng nhiều thì phương pháp dạy học càng đổi mới.
* Kết quả thu được thông qua các tiết dạy:
- Qua thực tế áp dụng phương pháp thảo luận nhóm trong các tiết học hiệu
quả nâng lên rõ rệt, học sinh có hứng thú học tập hơn trong các tiết học văn.
- Các em học sinh tự tin, nói dõng dạc trước lớp và trước một tập thể, điềm
tĩnh hơn giao tiếp, ứng xử với thầy (cô), mọi người. Hạn chế được đặc điểm tâm
lí e ngại khi nói hay trình bày ý kiến, quan điểm của bản thân trước các vấn đề,
việc tiếp thu kiến thức bài học dễ dàng hơn nên kết quả học tập cao hơn.
Trước khi áp dụng giải pháp:
Khối
Sĩ số
Giỏi
Khá
9
28
0
Sau khi áp dụng giải pháp:
Trung
bình
14
8
Khối
Sĩ số
Giỏi
Khá
9
28
1
10
Trung
bình
13
Yếu
Kém
6
0
Yếu
Kém
4
0
XÁC NHẬN CỦA CƠ QUAN ĐƠN VỊ
CAM ĐOAN CỦA TÁC GIẢ
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
VỀ SÁNG KIẾN
Nông Văn Vượng