Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỚI THANH NIÊN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (335.55 KB, 30 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG CƠ SỞ II
---------o0o---------

TIỂU LUẬN GIỮA KÌ

HỌC TẬP VÀ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
VỚI THANH NIÊN

Khóa lớp: K58CLC6 – NHÓM 4
1. Lê Lâm Trung
2. Hà Huy Hiệu
3. Nguyễn Thùy Minh Anh
4. Lê Ngọc Minh Phương
5. Trần Thành Đạt
6. Đinh Trung Nhật Minh
7. Đặng Nhân Hậu
8. Vũ Thị Quỳnh Trang
9. Nguyễn Ngọc Tường Vy

Mơn học: Tư tưởng Hồ Chí Minh
Giảng viên: Tô Ngọc Hằng
1

1915536153
1915535318
1915536010
1915535336
1915536027
1915535326
1915535314


1915535551
1915535623


PHỤ LỤC
Phụ lục tài liệu.........................................................................................................ii
I.

MỞ ĐẦU...........................................................................................................5
1.

Tính cấp thiết của đề tài...............................................................................5

2.

Tổng quan tình hình nghiên cứu.................................................................6

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...............................................................6

4.

3.1.

Mục đích nghiên cứu...............................................................................6

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................................7


Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................7
4.1.

Đối tượng nghiên cứu..............................................................................7

4.2.

Phạm vi nghiên cứu.................................................................................7

5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................7

6.

Đóng góp mới và ý nghĩa của nghiên cứu...................................................7

II. CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỀ TÀI...........................................7
1.

Tư tưởng Hồ Chí Minh................................................................................7
1.1.

Khái niệm................................................................................................7

1.2.

Cơ sở phát triển.......................................................................................8


1.3.

1.2.1.

Cơ sở thực tiễn.............................................................................8

1.2.2.

Cơ sở lý luận................................................................................8

1.2.3.

Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh..................................................10

Q trình hình thành và phát triển.........................................................10
1.3.1.

Giai đoạn hình thành tư tưởng u nước và chí hướng cách mạng

(1890 - 1911)....................................................................................................10
1.3.2.

Giai đoạn tìm tịi, khảo nghiệm (1911-1920)..............................10

1.3.3.

Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam

(1921 - 1930).....................................................................................................10



1.3.4.

Giai đoạn hình thành tư tưởng u nước và chí hướng cách mạng

(1930 – 1941)...................................................................................................11
1.3.5.

Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí Minh

(1930 – 1941)...................................................................................................11
1.4.

Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh...................................11
1.4.1.

Việc học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp người học tiếp

cận, hiểu rõ hơn về con người vĩ đại Hồ Chí Minh..........................................11
1.4.2.

Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người nâng cao năng lực

tư duy lý luận và phương pháp công tác trong thời đại ngày nay.....................12
1.4.3.

Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo tư tưởng

Hồ Chí Minh....................................................................................................12
1.4.4.


Nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo theo tư tưởng

Hồ Chí Minh....................................................................................................12
2.

Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về thanh niên...........................13

3.

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên.............................13

4.

Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thanh niên....................................14

III.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG/ PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..14

1.

Bối cảnh trong nước tác động đến thanh niên Việt Nam.........................14

2.

Thực trạng của thanh niên Việt Nam........................................................15

3.


Lối sống, đạo đức của thanh niên hiện nay...............................................16

4.

IV.
1.

3.1.

Những biểu hiện của thanh niên trong lối sống tích cực........................16

3.2.

Những biểu hiện của thanh niên trong lối sống tiêu cực........................17

Phân tích vấn đề nghiên cứu......................................................................18
4.1.

Vai trị của thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh..............................18

4.2.

Vai trị của giáo dục thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh...............20

4.3.

Những vấn đề trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên.....21

CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP/ ĐỀ XUẤT/ NHẬN XÉT CHUNG 23
Triển vọng...................................................................................................23



2.

1.1.

Cơ hội....................................................................................................23

1.2.

Thách thức.............................................................................................24

Một số giải pháp và đề xuất.......................................................................26
2.1.

Về nhà nước..........................................................................................26

2.2.

Về thanh niên........................................................................................27

V. KẾT LUẬN......................................................................................................29
V. TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................30


I. MỞ ĐẦU:
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Với tầm nhìn ẩn chứa một tư duy chiến lược của Hồ Chí Minh, khi nói về
tương lai của sự nghiệp cách mạng nước nhà, Hồ Chí Minh đã đưa ra cách so sanh: 
“Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây 

Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người” 
Là người có tầm nhìn xa trơng rộng, Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy vai trò to
lớn của việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh sớm tìm thấy ở
thanh niên là lớp người đầu tiên thực hiện cuộc thử thách lớn lao và sứ mệnh cao cả
của sự nghiệp cách mạng. Trong Thư gửi thanh niên và nhi đồng toàn quốc nhân dịp
Tết sắp đến (năm 1946), Người nói: “Một năm khởi đầu từ mùa xuân. Một đời khởi
đầu từ tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội”. Người coi thanh niên là lực lượng
chính và nịng cốt của cuộc cách mạng, đất nước; là thế hệ năng động, sáng tạo; là
người kế tục trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; và là người
quyết định vận mệnh của đất nước trong tương lai.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí của thế hệ trẻ
trong giai đoạn cách mạng hiện nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách và
biện pháp nhằm tạo điều kiện, cơ hội cho tuổi trẻ phát triển. Hội nghị BCHTW lần thứ
4 (khoá VII) đã khẳng định: “Thanh niên là lực lượng xung kích trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sự nghiệp đổi mới có thành cơng hay khơng, đất nước bước
vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay không, phần lớn phụ
thuộc vào thanh niên, vào việc bồi dưỡng, rèn luyện thế hệ thanh niên, công tác thanh
niên là vấn đề sống còn của 1 dân tộc, là một trong những nhân tố quyết định sự thành
bại của cách mạng”.
Thế hệ trẻ của chúng ta hôm nay vừa có nhiều điều kiện thuận lợi để tiếp cận
với những thành tựu của khoa học - kỹ thuật để nâng cao trình độ hiểu biết, hội nhập
quốc tế, vừa tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Vì vậy,
xã hội nói chung và nhà trường nói riêng phải làm gì để hướng thanh niên, sinh viên
phát triển đúng hướng, trở thành những người “sinh viên mới”, có nhiều đóng góp và
cống hiến cho xã hội?
Việt Nam hiện nay đang đào tạo rất nhiều ngành nghề khác nhau, nhằm cung
cấp nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Ngồi việc đào trình độ chun mơn, nghiệp vụ cho sinh viên, nhà nước cũng
có nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện đạo đức lối sống cho sinh viên để nguồn nhân lực
được đào tạo phải “vừa hồng, vừa chun”. Chính vì việc giáo dục, rèn luyện thế hệ

thanh niên có ý nghĩa quan trọng như vậy nên việc đi sâu nghiên cứu đề tài “Vận


dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống
cho sinh viên Việt Nam” là một yêu cầu cấp thiết, góp phần nâng cao nhận thức, tư
tưởng đạo đức, lối sống để đi tới hành động đúng đắn, xứng đáng là lực lượng xung
kích cách mạng, là đội hậu bị tin cậy của Đảng, đi đầu trong sự nghiệp cơng nghiệp
hố, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Cùng với việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về các lĩnh vực chính trị, đạo
đức, văn hố, xã hội, qn sự,… tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, về giáo dục,
đào tạo thanh niên cũng sớm được nghiên cứu, tìm hiểu. Cho đến nay, đã có nhiều
cơng trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên, chẳng hạn như “Bác Hồ
với sự nghiệp bồi dưỡng thế hệ trẻ” (Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1985); “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về thanh niên” của Văn Khánh (Báo Nhân 2 dân, số ra ngày 19/5/2004);
“Văn hoá với thanh niên, thanh niên với văn hoá, một số vấn đề lý luận và thực tiễn”
của Ban Tư tưởng văn hoá Trung ương (Hà Nội, 2002); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
vai trị thanh niên trong cách mạng Việt Nam” của TS. Trần Quy Nhơn (Nxb. Thanh
niên, Hà Nội, 2004); “Tuổi trẻ cống hiến và trưởng thành” của tác giả Đặng Quốc
Bảo (Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1997); “Thanh niên với cách mạng xã hội chủ nghĩa”
của Lê Duẩn (Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1978); Công tác giáo dục đạo đức cho học
sinh sinh viên trường cao đẳng sư phạm Bình Dương - thực trạng và giải pháp, Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường CĐSP Bình Dương của ThS Trương Thị Xử (2009).
Các cơng trình nghiên cứu trên đều đã đề cập tương đối đầy đủ và toàn diện
những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trị, vị trí, nhiệm vụ của
thanh niên, về công tác giáo dục, đào tạo thanh niên. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
nào đề cập một cách đầy đủ những yêu cầu như đề tài. Để góp một phần nhỏ và bổ
sung vào khoảng trống đó trong khoa học, chúng em mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về thanh niên trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống

cho sinh viên Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu khoa học với mong muốn được góp
phần vào việc rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
3.1. Mục đích nghiên cứu:
 Nghiên cứu, làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị
của thanh niên và sự vận dụng tư tưởng của Người vào việc xây dựng người
sinh viên mới.. 
 Nắm được thực trạng của sinh viên hiện nay, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên trường Đại học
Ngoại thương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:


 Nghiên cứu tìm hiểu cơ sở lý luận, phương pháp luận về vấn đề thanh niên,
những quan điểm, chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với thanh
niên.
 Điều tra, khảo sát, phân tích số liệu, đánh giá thực trạng tình hình thanh niên
TP HCM; dự báo xu hướng phát triển thanh niên.
 Tổng kết kinh nghiệm và mơ hình thực tiễn về cơng tác Đồn và phong trào
thanh niên trường ĐH Ngoại thương, TP HCM 5 năm qua.
 Đề xuất giải pháp đẩy mạnh công tác Đoàn và phong trào thanh niên ĐH Ngoại
thương, TP HCM trong những năm tới.
 Đề xuất phương hướng xây dựng văn bản chiến lược, các chính sách cần thiết
và chương trình hành động phát triển thanh niên trong giai đoạn mới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là thanh niên TP HCM, cơng tác Đồn và
phong trào thanh niên 5 năm qua; cả về mặt lý luận, quan điểm, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta đối với thanh niên và thực trạng tình hình thanh niên TP HCM trên các
lĩnh vực đời sống xã hội.

4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu về đạo đức, lối sống của sinh viên Việt Nam.
5. Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu:
5.1. Cách tiếp cận:
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn. 
5.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử và logic. Ngồi ra,
cịn kết hợp các phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều
tra, xã hội học…
6. Đóng góp mới và ý nghĩa của nghiên cứu:
 Nghiên cứu vấn đề chưa có tiền lệ ở ĐH Ngoại thương, TP HCM. Dự báo về
tình hình thanh niên và cơng tác thanh niên trong năm tới.
 Đề xuất phương hướng xây dựng định hướng, bổ sung kế hoạch hoàn thiện liên
quan đến đối tượng thanh niên thuộc trường ĐH Ngoại thương, mở rộng đến
TP HCM.
II. CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ ĐỀ TÀI:
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
1.1. Khái niệm:
Cho đến nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khái niệm tư tưởng Hồ
Chí Minh; ở đây, chúng ta tiếp cận khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh theo quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tại Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ VII


năm 1991, lần đầu tiên Đảng ta đã nêu khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh, đến Đại
hội Đảng tồn quốc lần thứ IX (4/ 2001) Đảng ta đã bổ sung khái niệm tư tưởng
Hồ Chí Minh đến Đại hội XI của Đảng (2011) khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
được khái quát lại, bổ sung hoàn chỉnh.
Đến nay chúng ta sử dụng khái niệm: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ
thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam; kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào

điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn
và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng
của nhân dân ta giành thắng lợi”.
1.2. Cơ sở phát triển:
1.2.1. Cơ sở thực tiễn:
Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong xã
hội xuất hiện nhiều mâu thuẫn, đặc biệt mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với
thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn giữa giai cấp nông dân với giai cấp địa chủ
phong kiến. Các phong trào đấu tranh chống thực dân pháp theo hệ tư tưởng phong
kiến và tư sản đã liên tục nổ ra trong cả nước nhưng tất cả đều thất bại. Ý thức hệ tư
tưởng phong kiến và tư sản thể hiện rõ sự lỗi thời, bất lực trước nhiệm vụ lịch sử.
Nguyễn Tất Thành sinh ra lớn lên trong hoàn cảnh lịch sử dân tộc khó khăn, bế tắc
nhất, điều đó đã thơi thúc Người ra đi tìm con đường mới cứu nước.
Bối cảnh thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Vào cuối thế kỷ XIX, đầu
thế kỷ XX, Các nước đế quốc đẩy mạnh chiến tranh xâm lược thuộc địa. Mâu thuẫn
giữa các nước đế quốc với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc ngày càng phát triển
gay gắt đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới phát triển. Cách mạng
Tháng Mười Nga thành công đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người – thời
đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi tồn thế giới, mở ra
con đường giải phóng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Năm 1919, Quốc tế
Cộng sản ra đời trở thành Bộ tham mưu, lãnh đạo phong trào cách mạng thế giới thúc
đẩy sự ra đời và hoạt động ngày càng mạnh mẽ của các đảng cộng sản ở nhiều nước.
Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi, sự ra đời của nhà nước Xô Viết, Quốc tế Cộng
sản và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô ảnh hưởng sâu sắc tới Hồ Chí
Minh trên hành trình đi ra thế giới tìm mục tiêu và con đường cứu nước.
1.2.2. Cơ sở lí luận:
Giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam có
lịch sử mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước đã hình thành những truyền thống tốt



đẹp: đó trước hết là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết, nhân ái, khoan dung
trong cộng đồng và hòa hiếu với các dân tộc lân bang; tinh thần cần cù, dũng cảm,
sáng tạo, lạc quan, vì nghĩa, thương người của dân tộc Việt Nam. Đó chính là cơ sở
đầu tiên, nguồn gốc sâu xa hình thành nên tư tưởng, phẩm chất của nhà văn hóa kiệt
xuất Hồ Chí Minh..
Tinh hoa văn hóa nhân loại
 Văn hóa phương Đơng:
Tinh hoa văn hóa, tư tưởng phương Đơng kết tinh trong ba học thuyết lớn Nho
giáo, Phật giáo, Lão giáo. Đó là những học thuyết có ảnh hưởng sâu rộng ở phương
Đông, và ở Việt Nam trước đây. Các học thuyết phương Đơng, Hồ Chí Minh cịn chú
ý tìm hiểu những trào lưu tư tưởng tiến bộ thời cận hiện đại ở Ấn Độ, Trung Quốc như
chủ nghĩa Gandhi, chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn. Người đã phát triển sáng
tạo các quan điểm về dân tộc, dân quyền, dân sinh của Tôn Trung Sơn trong cách
mạng dân chủ tư sản thành tư tưởng đấu tranh cho Độc lập – Tự do – Hạnh phúc của
con người và dân tộc Việt Nam theo con đường cách mạng vô sản. Như vậy, là nhà
Mác-xít sáng tạo, Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những tinh hoa trong tư
tưởng, văn hóa phương Đơng để giải quyết những vấn đề thực tiễn của cách mạng
Việt Nam thời hiện đại.
 Văn hóa phương Tây:
Ngay từ khi còn học ở Trường tiểu học, Hồ Chí Minh đã quan tâm tới khẩu
hiệu nổi tiếng của Đại Cách mạng Pháp: Tự do – Bình đẳng – Bác ái.
Đi sang phương Tây, Người tiếp cận những tác phẩm của các nhà tư tưởng thế kỷ ánh
sáng. Người đã kế thừa, phát triển những quan điểm nhân quyền, dân quyền trong Bản
Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của Mỹ, Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền
năm 1791 của Pháp và đề xuất quan điểm về quyền mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc
của các dân tộc trong thời đại ngày nay.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chọn lọc các tư tưởng, văn hóa tiến bộ của phương
Đông và phương Tây, dân tộc và thời đại; truyền thống và hiện đại, không ngừng làm
giàu trí tuệ của mình bằng tri thức, văn hóa phong phú của nhân loại.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, là nguồn gốc
lý luận quyết định bước phát triển mới về chất trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người
khẳng định rằng: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”Hồ Chí Minh đã vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, đã giải quyết yêu cầu về đường lối
cứu nước. Chủ nghĩa Mác – Lênin tiền đề lý luận quan trọng nhất, có vai trị quyết
định trong việc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.


1.2.3. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh:
Về năng lực, trí tuệ, tư duy, Người có năng lực đặc biệt là tư chất thông minh
hơn người khả năng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo với óc phê phán tinh tường sáng
suốt.
Về phẩm chất đạo đức, ý chí, nghị lực, Người có tâm hồn của một nhà yêu
nước lớn, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, sẵn sàng chịu đựng hy sinh vì
độc lập của Tổ quốc, tự do cho đồng bào; có tác phong bình dị, chân thành, khiêm tốn,
hồ mình với quần chúng và có sức cảm hóa lớn đối với mọi người.
Hoạt động tổng kết thực tiễn phát triển lý luận. Hồ Chí Minh là người có vốn
sống và thực tiễn cách mạng phong phú, phi thường. Nhờ đó, giữa bao thực tiễn sinh
động, Người có thể phân tích một cách đúng đắn, xử lý và chuyển hóa thành tư tưởng
của mình, giải đáp yêu cầu thực tiễn của dân tộc và thời đại.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển:
1.3.1. Giai đoạn hình thanh tư tưởng yêu nước và chí hướng
cách mạng (1890-1911):
Trong thời trẻ, với những đặc điểm quê hương, gia đình và mơi trường sống,
Hồ Chí Minh đã tích lũy được những hiểu biết và phẩm chất tiêu biểu sau:
 Truyền thống yêu nước và nhân nghĩa của dân tộc.
 Vốn văn hóa dân tộc và bước đầu tiếp xúc với văn hóa phương Tây.
 Hình thành hồi bão cứu dân, cứu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất của
cha anh.

1.3.2. Giai đoạn tìm tịi, khảo nghiệm (1911-1920):
Đây là giai đoạn bơn ba tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh đã:
 Tìm hiểu các cuộc cách mạng lớn trên thế giới và cuộc sống người dân các dân
tộc bị áp bức.
 Tiếp xúc với Luận cương của V.I.Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ
Chí Minh đã tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải
phóng dân tộc.
 Đứng hẳn về Quốc tế III, tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp.
1.3.3. Giai đoạn hình thành cơ bản tư tưởng về con đường
cách mạng Việt Nam (1921 – 1930):
 Hồ Chí Minh sang Matxcơva dự Hội nghị Quốc tế Nông dân và được bầu vào
Đồn chủ tịch của Hội giữa năm 1923. Sau đó, Người tiếp tục tham dự đại hội
V Quốc tế Cộng sản và Đại hội các đoàn thể quần chúng khác: Quốc tế thanh
niên, Quốc tế Cứu tế đỏ, Quốc tế cơng hội đỏ...
 Tháng 02- 1930, Người chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nước, sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam và trực tiếp thảo ra Chánh cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt, chương trình và Điều lệ vắn tắt của Đảng.


1.3.4. Giai đoạn vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã
xác định của cách mạng Việt Nam (1930-1941):
 Hội nghị Trung ương tháng 10 – 1930 của Đảng ta, theo chỉ đạo của Quốc tế
Cộng sản, cũng ra “Án nghị quyết” thu hồi chánh cương vắn tắt và sách lược
vắn tắt, đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương.
Trong thời gian đó Hồ Chí Minh tiếp tục tham gia các hoạt động trong Quốc tế
Cộng sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác  - Lênin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam,
kiên định quan điểm của mình.
 Năm 1936, Đảng ta đề ra “chiến sách” mới, phê phán những biểu hiện “tả”
khuynh, cô độc, biệt phái trước đây. Từ đây đảng đã trở lại với Chánh cương
vắn tắt, sách lược vắn tắt của Bác.

 Nghị quyết Hội nghị Trung ương 11–1939 khẳng định rõ:“đứng trên lập
trường giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề
của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy
mà giải quyết”.
1.3.5. Giai đoạn phát triển và hiện thực hóa tư tưởng Hồ Chí
Minh (1941 – 1969).
 Đầu năm 1941, Hồ Chí Minh về nước, trực tiếp chỉ đạo Hội nghị Trung ương 8
( 5 – 1941), đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc cao hơn hết, tạm thời gác khẩu
hiệu cách mạng điền địa, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đông Dương, lập ra mặt trận
Việt Minh, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở cơng nơng liên minh.
 Sau khi giành được chính quyền, Đảng và dân ta phải vừa kháng chiến chống
Mỹ-Pháp,vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng
miền Nam. Đây là lúc tư tưởng của Bác được bổ sung, phát triển và hoàn thiện
trên nhiều vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam.
 Trước khi qua đời (ngày 02-9-1969), Hồ Chí Minh để lại Di chúc thiêng liêng
gửi gắm trong đó những tinh hoa của tư tưởng, đạo đức, tâm hồn cao đẹp, tổng
kết sâu sắc những bài học đấu tranh và thắng lợi của cách mạng Việt Nam,
đồng thời cũng vạch ra những định hướng mang tính cương lĩnh cho sự phát
triển của đất nước và dân tộc ta sau khi kháng chiến thắng lợi.
 Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã khẳng định: Đảng lấy chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ
nam cho hành động.
1.4. Ý nghĩa của việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh:
1.4.1. Việc học tập, tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh giúp
người học tiếp cận, hiểu rõ hơn về con người vĩ đại Hồ Chí Minh:
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp ta khám phá và hiểu rõ hơn những
phẩm chất, quan niệm sâu sắc của Người. Đối với Hồ Chí Minh, giữa tư tưởng với
đạo đức – phong cách – lối sống là luôn thống nhất nên việc nghiên cứu tư tưởng của



Người khơng chỉ cho ta cái nhìn giản đơn về các lĩnh vực, mà mặt khác còn cho ta
cảm nhận được phẩm chất, đạo đức cao đẹp của Người. 
1.4.2. Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh giúp mỗi người nâng
cao năng lực tư duy lý luận và phương pháp công tác trong thời đại ngày nay:
Những tư tưởng của Hồ Chí Minh có tính thực tiễn và áp dụng rất cao, có thể
được vận dụng hiệu quả trong từng cơng việc nhỏ lẻ của mỗi người dân. 
Thấm nhuần được các tư tưởng chủ đạo, ta sẽ có nền tảng vững chắc về mục
đích lao động, mục tiêu đúng đắn để phát triển đất nước đi lên xã hội chủ nghĩa và có
bản sắc riêng. Việc nắm rõ được bản chất của các tư tưởng Hồ Chí Minh giúp cho mỗi
người nâng cao được khả năng tư duy lý luận sắc bén và cải tiến phương pháp lao
động hiệu quả và khoa học hơn. Thay đổi được tư duy nhận thức đúng đắn, bài trừ
những suy nghĩ lệch lạc, tiêu cực, phiến diện.
1.4.3. Giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng theo
tư tưởng Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là nền tảng và là sức mạnh của người cách
mạng, coi đó là cái gốc của cây, ngọn nguồn của sông nước. Người quan niệm đạo
đức tạo ra sức mạnh, nhân tố quyết định sự thắng lợi của mọi cơng việc
Việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý
thức tu dưỡng, rèn luyện trong toàn xã hội, đặc biệt trong cán bộ, đảng viên, cơng
chức, viên chức, đồn viên, thanh niên, học sinh... nâng cao đạo đức cách mạng, cần,
kiệm, liêm, chính, chí cơng vơ tư. Trong điều kiện thực tiễn hiện nay, mặt trái của cơ
chế thị trường tác động mạnh mẽ, tạo nên sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội,
sự suy đồi về đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, Đảng viên. Vì vậy, việc học tập
tư tưởng Hồ Chí Minh trở nên quan trọng hơn bao giờ hết giúp đẩy lùi sự suy thối về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và các tệ nạn xã hội.
1.4.4. Nâng cao tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới, sáng tạo
theo tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người của độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo.
Luôn luôn xuất phát từ thực tế, hết sức tránh lặp lại những lối cũ, đường mịn, khơng
ngừng đổi mới và sáng tạo.

Trong xu thế khu vực hóa và tồn cầu hóa, các thế lực phản động thù địch
khơng từ bỏ âm mưu nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối với nước ta thông qua cơ chế
thị trường và trao đổi, giao lưu văn hóa. Trong điều kiện đó, chúng ta có thể làm gì để
vừa mở cửa, hợp tác phát triển kinh tế mà vẫn giữ được độc lập, chủ quyền dân tộc.
Muốn vậy chúng ta phải tạo ra nguồn sức mạnh nội lực làm cơ sở cho sự phát triển


chính là tư tưởng Hồ Chí Minh. Người có căn dặn: học tập chủ nghĩa Mác – Lênin là
học tập cái tinh thần cách mạng và khoa học, cái tinh thần biện chứng của chủ nghĩa
Mác – Lênin, để giải quyết tốt những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn đổi mới hiện
nay, tức là phải luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung
làm phong phú thêm lý luận. Do vậy, việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chính
là việc học tập có ý nghĩa về mặt định hướng giá trị, tạo nên sức mạnh đồng thời là
kim chỉ nam, là nền tảng tư tưởng cho mọi hành động của cả dân tộc.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin về thanh niên:
Theo Mác, giai cấp vô sản chỉ được hình thành với tư cách một giai cấp khi nó
ý thức được địa vị và tương lai của nó: “... Những cơng nhân tiên tiến nhất hồn tồn
hiểu rõ ràng, tương lai của giai cấp công nhân và do đó tương lai của nhân loại, hồn
tồn phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ công nhân đang lớn lên” . Chính Mác đã gọi
thanh niên là cội nguồn sự sống của dân tộc và giai cấp công nhân là bộ xương của
mỗi cơ chế dân tộc.
Mác và Ăngghen luôn luôn gắn thanh niên với giai cấp công nhân và đội tiên
phong chiến đấu của nó. Phát triển sáng tạo những luận điểm của Mác và ăng-ghen
trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lê-nin đã coi thanh niên là “nguồn sinh lực chiến đấu
của cách mạng”. Đánh giá rất cao tiềm năng sáng tạo của tuổi trẻ, Lê-nin không nghi
ngờ về khả năng hoàn thành xuất sắc những nhiệm vụ của cách mạng mà các thế hệ
trước chưa kịp hoàn thành. Lê-nin đã sớm nhìn thấy vai trị cách mạng to lớn của
thanh niên học sinh, sinh viên. Ông đã thường xuyên nhắc nhở những người bạn chiến
đấu của mình rằng phải kiên trì đấu tranh để hợp nhất phong trào học sinh, sinh viên
thành một trào lưu chung theo tinh thần của chủ nghĩa Mác cách mạng.

3. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thanh niên:
Gắn thanh niên với vận mệnh của Cách mạng và dân tộc. Hơn nửa thế kỷ hoạt
động, Hồ Chủ tịch luôn quan tâm đến lớp trẻ của dân tộc, luôn đánh giá cao tiềm năng
to lớn, vai trị, vị trí trọng yếu của thanh niên trong sự nghiệp cách mạng. Ngay từ đầu
năm 1924, tấm gương hoạt động cách mạng và những bài báo của Nguyễn ái Quốc đã
cổ vũ thanh niên nước ta đứng lên làm cách mạng. Việc thành lập tổ chức “Hội Việt
Nam thanh niên cách mạng” để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng Cộng sản ở Việt
Nam và việc sáng lập tờ báo cách mạng “Thanh niên” đã chứng tỏ Người biết rằng chỉ
có thanh niên mới có thể “nắm vai trị là những người châm ngịi lửa đầu tiên cho cách
mạng nước ta”. Người đã tổng kết: “Thanh niên là một bộ phận quan trọng của dân
tộc: Dân tộc bị nơ lệ thì thanh niên cũng bị nơ lệ. Dân tộc được giải phóng, thanh niên
mới được tự do. Vì vậy thanh niên phải hăng hái tham gia cuộc đấu tranh của dân tộc”
Gắn thanh niên với vận mệnh bảo vệ xây dựng và phát triển tổ quốc. Người coi
“thanh niên là người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người


phụ trách dìu dắt thế hệ thanh niên tương lai”, “thanh niên là người xung phong trong
công cuộc phát triển kinh tế, văn hóa”, “thanh niên là lực lượng cơ  bản trong bộ  đội, 
công an và dân quân tự vệ” và trong mọi công việc : “Đâu cần thanh niên có, việc gì
khó có thanh niên làm”. Hồ Chủ tịch, trong nhiều bài nói và viết Người đã thuyết phục
rằng: “Thanh niên là người chủ tương lai của nước nhà”. “Nước nhà thịnh hay suy,
yếu hay mạnh, một phần lớn là do các thanh niên. Thanh niên muốn làm chủ tương lai
cho xứng đáng thì ngay hiện tại phải rèn luyện tinh thần và lực lượng của mình, phải
làm việc chuẩn bị cho cái tương lai đó”.
Tư tưởng bao trùm của Bác đối với thanh niên và đó cũng là lời dặn của Người
đối với Đảng, với dân trước lúc đi xa: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc làm rất quan trọng và rất cần thiết”.
4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về thanh niên:
Những quan điểm về lãnh đạo, chỉ đạo công tác thanh niên của Đảng và Nhà
nước ta là sự kế thừa có tính nhất qn, liên tục, xun suốt tư tưởng của Đảng và Hồ

Chủ tịch. Hiện nay công cuộc đổi mới đất nước đang bước vào thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, con người đặt biệt thanh niên là nguồn lực chủ yếu và quyết định
cho sự nghiệp cách mạng này thành công. Đất nước đang và sẽ cần nhiều những nhà
khoa học giỏi, những nhà doanh nghiệp, những nhà tư tưởng và chính khách tầm cỡ để
đáp ứng yêu cầu thực tế này. 
Nghị quyết 26 của Bộ Chính trị khóa V về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng
đối với công tác thanh niên chỉ rõ: “Làm tốt công tác thanh niên là bảo đảm sự phát
triển không ngừng của chế độ ta, bảo đảm hiện tại cũng như tương lai tươi sáng của
dân tộc Việt Nam”. Nghị quyết còn nhấn mạnh “Nhà nước coi thanh niên là một bộ
phận của chiến lược kinh tế-xã hội”. Tiếp theo tinh thần đó, Nghị quyết 25 Bộ Chính
trị khóa VI nêu rõ: “Đảng, Nhà nước và toàn dân ta phải hết lòng bồi dưỡng, phát huy
tiềm năng và vai trò chủ động của thanh niên trên mọi lĩnh vực của cơng cuộc đổi
mới, coi đó là nhiệm vụ ưu tiên trong chiến lược con người”.
III.

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG/ PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ NGHIÊN
CỨU:
1. Bối cảnh trong nước tác động đến thanh niên Việt Nam:

Trong bối cảnh hiện nay, đất nước ta đang trong q trình thực hiện cơng cuộc
đổi mới; tiến hành sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện kinh tế tri thức;
tham gia sâu rộng vào hội nhập quốc tế và q trình tồn cầu hóa; mở rộng quan hệ
đối ngoại theo phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa, làm cho thế và lực của
nước ta được củng cố vững chắc hơn, kinh tế có sự phát triển và tương tối bền vững,
đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện, quốc
phòng và an ninh, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm. Đảng Cộng sản Việt Nam khởi


xướng và lãnh đạo đã thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa nước
ta ra khỏi khu vực kém phát triển, tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh cơng

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2021 cơ bản thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại, làm tiền đề quan trọng để đưa nước ta trở thành nước
công nghiệp hiện tại vào những năm tiếp theo.
Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã
thu được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta ra khỏi khu vực
kém phát triển, tạo tiền đề quan trọng để tiếp tục đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước, phấn đấu đến năm 2020 cơ bản thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại, làm tiền đề quan trọng để đưa nước ta trở thành nước công nghiệp hiện tại
vào những năm tiếp theo. Tuy nhiên, sự phát triển kinh tế - xã hội nước ta trong những
năm tới cịn gặp những khó khăn thách thức. Thách thức chung lớn nhất mà Đảng ta
đã xác định đó là phải vượt qua nguy cơ tụt hậu về kinh tế.
Tuy nhiên dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến hết sức phức tạp toàn cầu và
Việt Nam đang phải hứng chịu hậu quả nặng nề từ nó. Kể từ đầu dịch đến nay Việt
Nam có 293.301 ca nhiễm, đứng thứ 77/222 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong khi với
tỷ lệ số ca nhiễm/1 triệu dân, Việt Nam đứng thứ 171/222 quốc gia và vùng lãnh thổ
(bình qn cứ 1 triệu người có 2.983 ca nhiễm). Đợt dịch thứ 4 (từ ngày 27/4/2021
đến nay), số ca nhiễm mới ghi nhận trong nước là 289.276 ca, trong đó có 108.534
bệnh nhân đã được cơng bố khỏi bệnh. 5 tỉnh, thành phố ghi nhận số mắc cao là TP.
Hồ Chí Minh (156.386), Bình Dương (49.833), Long An (15.579), Đồng Nai
(14.502), Bắc Giang (5.795).
Hiện nay Việt Nam đang trải qua đợt dịch thứ 4 với những diễn biến khá phức
tạp, Chính phủ đang triển khai quyết tâm và đồng bộ các giải pháp mạnh mẽ trong
việc phòng chống dịch theo phương châm kết hợp “mục tiêu kép” vừa phòng, chống
dịch bệnh, bảo vệ sức khoẻ nhân dân là ưu tiên, vừa phục hồi và phát triển kinh tế - xã
hội. Tình trạng xuất hiện các chùm ca bệnh trong các khu công nghiệp tại Việt Nam
đang diễn biến phức tạp, tuy nhiên, các địa phương đang phối hợp chặt chẽ với các
ban quản lý khu công nghiệp và nhà đầu tư để thực hiện các giải pháp đồng bộ đảm
bảo các hoạt động sản xuất kinh doanh tại các nhà máy, xí nghiệp được kiểm sốt tốt,
các công nhân trong khu công nghiệp được cách ly tại nơi làm việc hoặc được đưa
đón an tồn nhằm đảm bảo hạn chế tối đa tình trạng lây nhiễm ngồi cộng đồng vào

khu cơng nghiệp, nhà máy.
2. Thực trạng của thanh niên Việt Nam:
Thanh niên Việt Nam hiện nay đã và đang nhận được sự quan tâm của toàn xã
hội. Họ là những người sẽ kế cận và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Nhìn lại chặng đường phát triển của đất nước trong những năm vừa qua thì giới trẻ


đóng một vai trị rất lớn. Thanh niên Việt Nam giữ vai trị quan trọng trong tiến trình
lịch sử dựng nước và giữ nước, trong sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đời sống
chính trị và nền văn hoá của đất nước. Thanh niên đang là lực lượng xã hội to lớn của
hiện tại và là chủ thể sáng tạo của tương lai, họ không chỉ là một lực lượng quan trọng
của xã hội mà họ là ngày mai của xã hội. Thanh niên nói chung và sinh viên nói riêng
là một thế hệ trẻ đầy sức sống và sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức của thời đại, chìa
khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng.
Sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên
ngành học trên khắp các lĩnh vực. Chính thanh niên, sinh viên là những người tiên
phong trong mọi công cuộc cải cách, đổi mới về kinh tế, giáo dục…
Chính vì vậy những hành động, cách sống của sinh viên, thanh niên có ảnh
hưởng rất lớn đến tương lai nước nhà. Song, trong những năm đất nước ta đổi mới,
mở cửa, hội nhập, giao lưu quốc tế, đặc biệt là qua các phương tiện thơng tin hiện đại,
các giá trị của tồn cầu hóa đã tác động mạnh mẽ tới lối sống Việt Nam, tạo ra những
chuyển biến quan trọng trong lối sống. 
3. Lối sống, đạo đức của thanh niên hiện nay:
3.1. Những biểu hiện của thanh niên trong lối sống tích cực:
Thanh niên, sinh viên hiện nay đã trở nên năng động, sáng tạo hơn, dễ dàng
tiếp thu cái mới và hội nhập với toàn cầu . Thanh niên, sinh viên khơng chỉ chờ đợi cơ
hội đến , họ cịn tự mình tạo ra cơ hội. Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng sáng
chế, phát minh; và khơng ít trong số những phát minh ấy được áp dụng , được biến
thành những sản phẩm hữu ích với thực tiễn. Với thế mạnh được đào tạo bài bản, sinh
viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học

tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương pháp học sao cho lượng kiến thức họ
thu được là tối đa. Không chờ đợi, họ tự mình nghiên cứu, lấy thơng tin, tài liệu từ
mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường
sống và học tập. Sinh viên, thanh niên Việt Nam không chỉ dễ dàng lĩnh hội tri thức
nhân loại, mà còn tiếp thu mọi linh vực như văn hóa, nghệ thuật.....Sự năng động của
sinh viên cịn được thể hiện  ở việc tích cực tham gia các hoạt động như y tế, từ
thiện...Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới
mình phù hợp với sự thay đổi và phát triển xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là
những ưu điểm nổi bật của thanh niên, sinh viên Việt Nam.
Biểu hiện tích cực thứ hai trong lối sống thanh niên, sinh viên hiện nay là sự
táo bạo, dám nghĩ, dám làm, dám chiu thử thách. Các ý tưởng độc đáo  không chỉ nằm
trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Dù thành công hay thất bại
song họ không hề chùn bước. Từ mỗi thất bại lại làm họ tự tin hơn với nhiều kinh
nghiệm hơn. Đó chính là nguồn gốc của làn sóng Khởi Nghiệp Start-Up đang nổi lên
rất mạnh mẽ gần đây.


Thứ ba là phong cách sống độc lập. Khác với thế hệ sinh viên trước, sống phụ
thuộc gia đình, mọi việc đều ngoan ngoãn theo lời cha mẹ, ngày nay sinh viên, thanh
niên độc lập hơn trong suy nghĩ, tự quyết định tương lai mình mà khơng muốn bất cứ
sự can thiệp nào.
Thứ tư  là phong cách muốn tự khẳng định mình. Dù trong bất cứ lĩnh vực nào
sinh viên cũng tự tin vào bản thân. Thanh niên muốn chứng minh cho xã hội thấy sức
mạnh và vai trò của mình trong cơng cuộc xây dựng phát triển đất nước. Khơng những
vậy, sinh viên thanh niên hiện nay cịn tiếp tục duy trì phát triển truyền thống siêng
năng, cần cù, chăm chỉ, hiếu học của thế hệ trước.
3.2. Những biểu hiện của thanh niên trong lối sống tiêu cực:
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, những biểu hiện tiêu cực trong lối
sống thanh niên, sinh viên Việt Nam hiện nay cũng khơng phải là ít.
Vấn đề tư tưởng: Đây là nét tiêu cực lớn nhất, đáng báo động nhất trong giới

thanh niên, sinh viên hiện nay. Trong thời đại trước, khi đất nước ta còn trong thời kỳ
chiến tranh bảo vệ tổ quốc hay giai đoạn đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội, khơng khó
để thấy lý tưởng Xã hội chủ nghĩa luôn sục sôi trong mỗi thanh niên Việt Nam, thì
ngày nay để tìm được một thanh niên có lý tưởng sống rõ ràng khơng phải dễ.  Sống
và học tập khơng có mục đích gì, hay thiếu niềm tin, mục đích là một điểm yếu của
giới trẻ ngày nay. Ngoài ra, một bộ phận thanh niên, sinh viên cịn có cái nhìn lệch
lạc, thiếu chính xác về thế giới quan Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, và Chủ nghĩa
xã hội. Dưới tác động của kinh tế thị trường, nhiều người đã khơng cịn tin vào chế độ
Xã hội chủ nghĩa, chỉ nhìn thấy những điểm khơng tốt của chế độ ta bằng  cái nhìn
thiển cận, lệch lạc từ một phía. Điều này có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến tương lai
đất nước, vì nếu những chủ nhân tương lai của đất nước mà không tin vào những gì
cha ơng ta đã xây dựng thì làm sao lèo lái đất nước một cách vững vàng.
Hiện tượng sùng bái vật chất: Nhiều thanh niên lấy đồng tiền làm thước đo giá
trị cuộc sống. Gốc rễ của việc sùng bái vật chất là sự thiếu tự tin. Khi không chấp
nhận mình như vốn có, họ sẽ cố đeo những cái “nhãn” để tự thỏa mãn bản thân. Đó là
hiện tượng tôi thấy phổ biến ở những quốc gia đang chuyển mình như Việt Nam - điều
khơng q mãnh liệt ở các nước phương Tây phát triển, nơi vẫn được coi là đỉnh cao
của tôn thờ vật chất.
Chủ nghĩa cá nhân: Chủ nghĩa cá nhân có xu hướng tăng trong giới trẻ ngày
nay. Nhiều người chỉ quan tâm tới những lợi ích cá nhân trước mắt mà quên đi lợi ích
tập thể thậm chí chà đạp lên lợi ích của người khác. Vì lợi ích cá nhân một số thanh
niên cịn bất chấp cả : pháp luật, gia đình, bạn bè,..Một số khác chỉ biết đến mình mà
khơng quan tâm đến ai, dẫn đến lối sống vô cảm.


Thái độ bi quan: Trong khi phần lớn thanh niên đều cố gắng sống và học tập vì
tương lai, thì lại có những người chỉ vì nhiều chuyện khơng vừa ý mà khơng tha thiết
gì cuộc sống. Đơi khi chỉ vì thất tình hay khơng đạt được điều mình muốn mà khép
chặt cánh cửa tâm hồn khơng cịn quan tâm mọi chuyện xung quanh.
Thói lười nhác, ỷ lại: So với học sinh bây giờ, thế hệ trước, chỉ cần như 7x, 8x,

những thế hệ cận kề nhất với giới trẻ bây giờ vất vả hơn nhiều, gian khổ hơn nhiều.
Có thể do bối cảnh của đất nước sau khi trải qua chiến tranh với những kẻ thù đều là
“đế quốc” như Pháp, Mỹ, do cơ chế bao cấp của nền kinh tế thời bấy giờ buộc người
dân sống trong thời đại đó phải vật lộn như vậy, trong đó có thế hệ học sinh, sinh viên.
Nhưng mặt khác, chính hồn cảnh ấy làm cho người ta phải chăm chỉ, phải cố gắng
vươn lên với chí tiến thủ gần như tuyệt đối để thốt khỏi cảnh đói nghèo, thốt khỏi
“áp bức” từ chính tâm lý của mình.  Kinh tế thị trường cùng với sự phát triển công
nghệ, bên cạnh tạo điều kiện cho con người có cuộc sống, việc làm tốt hơn thì lại dễ
khiến người ta trở nên nhác việc hơn do nhiều cám dỗ xung quanh dẫn dụ. Thực tế chỉ
ra thanh niên (15-24 tuổi) dù chỉ chiếm khoảng 20% dân số nhưng lại chiếm tới gần
một nửa số lượng người thất nghiệp hiện nay. Điều đó là do một bộ phận sinh
viên,thanh niên lười biếng, ỷ lại, không chịu khó tìm tịi và học cách vượt qua khó
khăn.
Đặc biệt hơn trong bối cảnh covid hiện tại, Vẫn còn hiện tượng một số cá nhân
luôn mong muốn dịch nhanh chóng được dập tắt, để khơng bị cách ly, phong tỏa, để
được đi làm, đi chơi… nhưng bản thân lại ra đường khi không thật sự cần thiết trong
thời gian thực hiện Chỉ thị 16, không đeo khẩu trang nơi cơng cộng. Thậm chí có
trường hợp mắc Covid-19 lại trốn khỏi nơi điều trị làm lây lan dịch bệnh ra cộng
đồng. Mặc dù mong muốn các cấp, các ngành dập dịch triệt để, nhưng vẫn có người
lại tìm cách, lén lút mua giấy xét nghiệm Covid-19 trái phép để lách qua các chốt
kiểm dịch. Lý do đưa ra để bao biện đơn giản chỉ vì khơng có thời gian, mua tiện hơn,
rồi khơng có bệnh thì xét nghiệm làm gì. Lối hành xử nói khơng đi đơi với làm, hành
động trước sau bất nhất của một số cá nhân trong trường hợp này đã gây ra trở ngại
không nhỏ cho cơng tác phịng, chống dịch của Thành phố.
4. Phân tích vấn đề nghiên cứu:
4.1. Vai trò của thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thanh niên ln là lực lượng tiên
phong, xung kích trên các mặt trận, góp phần xây dựng hồ bình và phát triển
đất nước. Trong thư “Gửi các bạn thanh niên”, Bác đã viết: “Thanh niên là người chủ
tương lai của nước nhà. Thật vậy nước nhà thịnh hay suy, yếu hay mạnh một phần lớn

là do các thanh niên”. Trong quá trình xây dựng lực lượng cách mạng, Người luôn coi
thanh niên là lực lượng hùng hậu, trẻ, khoẻ, hăng hái nhiệt tình, sẵn sàng hy sinh vì lý
tưởng cao đẹp của Đảng: “tính trung bình, thanh niên chiếm độ 1 phần 3 tổng số nhân


dân - tức là một lực lượng to lớn. Lực lượng lớn thì phải có nhiệm vụ lớn”. Từ góc
nhìn đó, để phát huy tối đa sức mạnh, tính “tiên phong” của tuổi trẻ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương tập hợp thanh niên trong một đoàn thể cách mạng là Đoàn Thanh
niên cộng sản. Thực hiện tư tưởng của Người, chỉ sau một năm Đảng Cộng sản Việt
Nam thành lập, ngày 26/3/1931, Đoàn Thanh niên Cộng sản ra đời. Người chỉ rõ: Tổ
chức Đoàn và Hội liên hiệp thanh niên cần phải tập hợp rộng rãi các đối tượng thanh
niên trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu trong việc hiện thực hóa các “chủ trương và
chính sách cách mạng”. Bởi vì theo Người, thanh niên là lực lượng xung kích của
cách mạng, là cánh tay đắc lực, đội hậu bị tin cậy của Đảng. Đồng thời, thanh niên có
vai trị rất lớn trong việc tổ chức, hướng dẫn, dìu dắt thiếu niên, nhi đồng, giúp các em
học tập, vui chơi, lành mạnh, điều ấy còn thể hiện rõ nét qua câu nói: “Thanh niên là
người tiếp sức cách mạng cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu
dắt thế hệ thanh niên tương lai”.
Vì luôn tin tưởng, kỳ vọng vào thanh niên nên Bác cũng ln u cầu thanh
niên phải nêu cao vai trị tiên phong, gương mẫu. Cụ thể vào ngày 24/3/1961, khi nói
chuyện tại Đại hội lần thứ III của Đồn Thanh niên Lao động Việt Nam, Bác đã nhắc
nhở thanh niên “Cần phải làm đầu tàu, làm gương mẫu trong phong trào thi đua yêu
nước. Phải thực hiện khẩu hiệu “Đâu Đảng cần thì thanh niên có, việc gì khó thì thanh
niên làm”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt dõi theo sự phát triển của phong trào “Ba
sẵn sàng” - một trong những phong trào do Người phát động trong thanh niên. Ngày
25/3/1966, tại Lễ kỷ niệm lần thứ 35 ngày thành lập Đoàn Thanh niên cộng sản Việt
Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh bày tỏ niềm tự hào, vui sướng trước những đóng góp to
lớn của thanh niên với sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Người “thấy như mình trẻ
lại, thấy tương lai của dân tộc ta vơ cùng vững chắc và vẻ vang”.
Từ chủ trương “Lấy gương người tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau”

nhằm giáo dục cho thanh niên, sinh viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết rất nhiều bài
biểu dương gương người tốt, việc tốt trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trong
đấu tranh giành độc lập dân tộc, trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược và trong
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Những tấm gương trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước
như Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Thường Kiệt, Lê Lợi, Quang Trung... Trong đấu tranh
giành độc lập dân tộc như: Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập,
Nguyễn Thị Minh Khai, Lý Tự Trọng... Trong hai cuộc kháng chiến chống xâm lược
như: Mạc Thị Bưởi, Ngô Gia Khảm, Nguyễn Thị Chiên, Trần Đại Nghĩa, Cù Chính
Lan, Phan Đình Giót... Trong bài viết đăng trên báo Nhân dân, ngày 10/01/1967, Hồ
Chí Minh biểu dương 111 anh hùng, trong đó có 44 thanh niên. Những bài viết của
Người có tác dụng động viên nhân dân ta nói chung, thế hệ trẻ nói riêng, tích cực
chiến đấu, lao động, học tập, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng
4.2. Vai trò của giáo dục thanh niên trong tư tưởng Hồ Chí Minh:


Chính vì đề cao vị trí, vai trị của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng đất nước
nên Chủ tịch Hồ Chí Minh ln xác định việc chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc làm có tầm quan trọng đối với Đảng. Trong Di chúc để lại cho
toàn Đảng, toàn dân ta trước lúc đi xa, Người viết: “Đoàn viên và thanh niên ta nói
chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, khơng ngại khó khăn, có chí tiến thủ.
Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những
người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”. Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Theo Người, thanh
niên đóng vai trò là lực lượng hùng hậu, đi đầu thực hiện các nhiệm vụ cách mạng của
Đảng. Đây chính là sự tổng kết, đúc rút vô cùng quý báu của Người từ thực tiễn lãnh
đạo, chỉ đạo công tác thanh niên qua các thời kỳ cách mạng để tiếp tục định hướng
việc giáo dục rèn luyện và phát huy mọi tiềm năng to lớn của thanh niên trong sự
nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Thấy được vai trò quan trọng của Thanh niên, ngay từ những ngày đầu Bác đã
xác định được những định hướng trong việc giáo dục tư tưởng cho thanh niên. Tháng

7/1924, Người tham gia Đại hội quốc tế thanh niên lần thứ IV và cũng là đồng tác giả
của “Bản luận cương về thanh niên thuộc địa”. Để chuẩn bị cho việc truyền bá chủ
nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, tháng 6/1925, Người thành lập tổ chức Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên (ở Quảng Châu, Trung Quốc). Thông qua tổ chức các
lớp học, Người trực tiếp thuyết giảng, bồi dưỡng cho nhiều thế hệ thanh niên về lòng
yêu nước, chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường giải phóng dân tộc... Từ cuối năm 1925
đến tháng 4/1927, dưới sự sắp xếp và lên kế hoạch cụ thể của Nguyễn Ái Quốc, 3
đoàn thanh niên gồm 75 người từ khắp nơi trên đất nước Việt Nam đến Quảng Châu,
tham gia vào lớp tập huấn chính trị. Sau khi học xong, có hơn 20 người vào học tại
Trường quân sự Hoàng Phố, một số được đưa về hoạt động gây cơ sở cách mạng
trong nước và một số ít ở lại tham gia đấu tranh cách mạng ở Trung Quốc. Những
thanh niên Việt Nam này đã nhanh chóng trưởng thành trong học tập và thực tiễn đấu
tranh, trở thành nòng cốt của cách mạng Việt Nam.
Trong thực tiễn, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc giáo dục, rèn
luyện đạo đức cách mạng cho đoàn viên, thanh niên. Điều đó thể hiện ở sự quan tâm
của Đảng, Nhà nước đến những nhu cầu, nguyện vọng chính đáng của tuổi trẻ. Từ đó
đã có những chủ trương, chính sách, kế hoạch cụ thể cho đồn viên, thanh niên được
rèn luyện, lao động, học tập, công tác, được phát huy năng lực, khả năng sáng tạo và
sức trẻ của mình vào cơng cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, thời gian qua Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát huy vai trò nòng
cốt, cùng với các lực lượng giáo dục khác ln kiên trì thực hiện nhiệm vụ giúp Đảng
giáo dục và rèn luyện đoàn viên, thanh niên. Nhiều phong trào cách mạng của tuổi trẻ,
tiêu biểu như phong trào Thanh niên lập nghiệp, Tuổi trẻ giữ nước, Thanh niên tình
nguyện, Thi đua, tình nguyện xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,... diễn ra hết sức sôi nổi.


Kết quả là đã góp phần tạo dựng nên một lớp thanh niên mới, trong đó có bộ phận
thanh niên tiên tiến đi đầu trên nhiều lĩnh vực, có thái độ, nhận thức tốt và ý thức
chính trị cao, có ý chí vượt qua khó khăn, vươn lên lập thân, lập nghiệp, phát huy
mạnh mẽ truyền thống xung kích của lớp thanh niên đi trước. Cũng từ đó mà vai trị,

vị trí của đồn viên, thanh niên ngày càng được khẳng định trong đời sống xã hội.
Để trở thành những con người phát triển hài hoà và toàn diện, con đường duy
nhất của thanh niên là không ngừng ra sức phấn đấu, rèn luyện, học tập trên tất cả các
lĩnh vực, "phải ra sức học tập chính trị, kỹ thuật, văn hoá, phải thấm nhuần tư tưởng
xã hội chủ nghĩa". Điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong điều kiện tồn
cầu hố và sự bùng nổ của cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại. Thanh niên Việt
Nam phải biết vươn lên làm chủ những cơng nghệ tiên tiến nhất để xố bỏ nghèo đói
và tụt hậu, để rút ngắn khoảng cách với những quốc gia phát triển. Thực tế cho thấy,
rất nhiều thanh niên đã và đang xứng đáng với lời dạy đó của Người. Những thắng lợi
vẻ vang của tuổi trẻ Việt Nam trong các cuộc thi quốc tế, trong học tập, sản xuất và
kinh doanh,… đã chứng minh vai trò và năng lực của các thế hệ thanh niên trong công
cuộc xây dựng đất nước. Tuy nhiên, tuổi trẻ ngày nay cần phải làm được nhiều hơn
thế, cần phải tiếp tục phấn đấu và rèn luyện. Trên nhiều lĩnh vực, chúng ta cịn tụt hậu,
có khoảng cách q xa so với các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.
Nhiệm vụ của thanh niên là phải góp phần thu hẹp, san bằng khoảng cách đó.
Trong thời đại hiện nay, khi mà dịch bệnh covid-19 đang bùng phát thì vai trị
của người thanh niên càng được thể hiện rõ nét, lĩnh hội được những kiến thức từ tư
tưởng Hồ Chí Minh, người thanh niên luôn xung phong ở tất cả các mặt trận, sẵn sàng
trở thành những tình nguyện viên giúp đỡ nước Việt Nam trong công cuộc chống lại
dịch bệnh. Người thanh niên luôn thể hiện được tinh thần sẵn sàng xơng pha, chúng ta
có thể bắt gặp những người bạn trẻ ở bất cứ đâu, bất cứ tuyến nào, họ khơng ngại gian
khổ, khơng ngại nắng, mưa, chỉ vì một mục tiêu cuối cùng, giúp đỡ đất nước vượt qua
đại dịch, khôi phục kinh tế xã hội, không ngừng nâng cao trình độ, góp phần đưa đất
nước sánh vai cùng cường quốc 5 châu.
4.3. Những vấn đề trong giáo dục đạo đức, lối sống cho thanh niên:
Hiện nay, vấn đề đạo đức, lối sống của giới trẻ đang là vấn đề được dư luận xã
hội hết sức quan tâm. Nhiều người bày tỏ sự bức xúc trước những hiện tượng được
cho là xuống cấp về đạo đức, lối sống như lối sống ích kỷ, thực dụng, con khơng tơn
trọng cha mẹ, thầy cô giáo, cháu đối xử tệ với ông bà, bạo lực học đường, tội phạm
tuổi vị thành niên…đang diễn ra hàng ngày đã gióng lên hồi chng cảnh báo và kéo

theo đó những hệ lụy khơn lường mà gia đình, nhà trường, xã hội phải gánh chịu.Theo
số liệu của ngành công an, trong tổng số hàng trăm vụ án mạng nghiêm trọng xảy ra
gần đây trên cả nước, đáng báo động là các đối tượng phạm tội chủ yếu ở độ tuổi
thanh, thiếu niên (từ 18 đến 30 tuổi chiếm hơn 80%).


Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến việc xuống cấp đạo đức, lối sống của thanh,
thiếu niên nhưng một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là do thiếu sự quan
tâm, chưa kết hợp tốt giữa Gia đình – Nhà trường – Xã hội trong giáo dục đạo đức, lối
sống cho giới trẻ. Bởi lẽ, để một con người được chuẩn bị đầy đủ về tư cách đạo đức
cho cuộc sống cộng đồng, việc giáo dục đạo đức khi nào cũng nằm trong mối quan hệ
chặt chẽ: Gia đình – Nhà trường – Xã hội. Đạo đức của từng con người nói riêng, của
tồn xã hội nói chung sẽ được nâng cao nếu mỗi "trụ cột" làm tốt chức năng của mình.
Ngồi ra, phải duy trì mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ giữa Nhà trường – Gia đình – Xã
hội để việc giáo dục được duy trì thường xuyên, có hiệu quả.
Cho nên, đứng trước thực trạng trên hơn lúc nào hết, chúng ta phải nâng cao
nhận thức, tìm ra những biện pháp thích hợp để kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà
trường và xã hội trong việc giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho giới trẻ. Đây là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các
lực lượng cùng chăm lo giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cho giới trẻ, hình thành
phẩm chất cao đẹp, khát vọng, hoài bão lập thân, lập nghiệp, cống hiến, tài đức vẹn
toàn cho những người chủ tương lai của đất nước.
Qua thực tiễn giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh, có thể đúc kết một số kinh nghiệm sau để tập trung cải
thiện vấn đề nêu trên:
Thứ nhất, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, truyền thống cho thế hệ trẻ
bằng nhiều hình thức phong phú, đa dạng, với sự tham gia, phối hợp có trách nhiệm
của ngành giáo dục, gia đình, đồn thể và tồn xã hội. Đổi mới nội dung và cách thức
học tập lý luận chính trị phù hợp với từng đối tượng đoàn viên. Gắn việc giáo dục đạo
đức, lối sống văn hoá với triển khai sáng tạo chỉ thị 05 của Bộ Chính trị về “Đẩy mạnh

học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, trong đó đề cao
sự nêu gương của cán bộ Đồn, định hướng cho thanh niên rèn luyện theo tiêu chí
"Tâm trong -Trí sáng - Hồi bão lớn”. Đồn Thanh niên Cộng sản tham mưu cho các
cấp ủy đảng, chính quyền định kỳ gặp gỡ, trao đổi, đối thoại với thanh niên. Nâng cao
chất lượng và hiệu quả hoạt động của đội ngũ báo cáo viên, tuyên truyền viên, chủ
động nắm bắt, dự báo tình hình tư tưởng, định hướng dư luận xã hội trong thanh niên,
nhất là ở các thành phố lớn và địa bàn nhạy cảm. Phối hợp với các cấp, các ngành
tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật, đấu tranh, phê phán, uốn nắn nhận thức
lệch lạc, biểu hiện sai trái trong cán bộ, đoàn viên, thanh niên.
Thứ hai, giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ
là nhiệm vụ chiến lược, lâu dài, quan trọng, địi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư thích
đáng. Đầu tư cho giáo dục, trong đó có giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối
sống văn hóa cho thế hệ trẻ là đầu tư cho tương lai đất nước. Đây là nhiệm vụ của toàn
Đảng, của các cấp, các ngành, đoàn thể, gia đình và tồn xã hội; tạo điều kiện tối đa


cho thế hệ trẻ học tập, lao động, cống hiến, là lực lượng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Thứ ba, xây dựng tổ chức Đoàn các cấp thực sự vững mạnh, tồn diện về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, mở rộng việc tập hợp, đoàn kết thanh niên, tăng cường giáo dục,
bồi dưỡng, giúp đỡ đoàn viên, thanh niên về mọi mặt, nhất là xây dựng niềm tin, lý
tưởng cách mạng, mục tiêu, động cơ phấn đấu.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện và triển khai tổ chức những phong trào hành động
cách mạng có ý nghĩa thiết thực trong thanh niên. Qua các hoạt động đó, mỗi đồn
viên, thanh niên, mà trước hết là các đồng chí thủ lĩnh đoàn, hội phải ra sức tự tu
dưỡng, rèn luyện để khơng ngừng nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức,
niềm tin và năng lực công tác. Đồng thời cần có sự quan tâm đặc biệt tới công tác giáo
dục, phổ biến pháp luật; công tác hỗ trợ thanh niên trong học tập, nghiên cứu khoa
học; giáo dục những kỹ năng xã hội, kỹ năng sống cần thiết cho thanh niên.
IV.


CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP/ ĐỀ XUẤT/ NHẬN XÉT
CHUNG:
1. Triển vọng:
1.1. Cơ hội:

Để phát huy vai trị và sức mạnh của tuổi trẻ thì phải tiến hành giáo dục thanh
niên một cách toàn diện và chu đáo. Ngày nay, nhờ sự quan tâm của Đảng, nhà nước
và cơ hội tiếp cận với các thông tin quốc tế, thanh niên Việt Nam được trau dồi, rèn
luyện và phát triển toàn diện về kiến thức, kĩ năng và lập trường chính trị.
Về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, thanh niên Việt Nam được dẫn dắt
và định hướng bởi Đồn TNCS Hồ Chí Minh. Trong thời gian qua, Đồn TNCS Hồ
Chí Minh đã ban hành nhiều văn bản quan trọng về giáo dục thanh thiếu nhi, cụ thể
như Đề án “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng
cho thanh, thiếu niên giai đoạn 2013 - 2020” của Ban Bí thư Trung ương Đoàn; Nghị
quyết số 02 NQ/TWĐTN ngày 22/8/2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn về
“Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng cho thanh,
thiếu niên giai đoạn 2013 - 2017”;trên cơ sở ban hành Đề án giáo dục, Ban Bí thư
Trung ương Đồn đã tham mưu cho Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị số
42-CT/TW ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về “Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn
hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015 - 2030”. Trên cơ sở đó, Chương trình hành động số
33-CTr/TWĐTN-BTG ngày 18/10/2015 của Ban Chấp hành Trung ương Đoàn thực
hiện thực hiện Chỉ thị số 42 được triển khai tới các cấp bộ Đồn.
Hình thức, phương pháp giáo dục chính trị được tổ chức Đồn vận dụng linh
hoạt, đổi mới mạnh mẽ theo hướng lấy đoàn viên, thanh niên làm trung tâm, trình độ


nhận thức, bản lĩnh chính trị, niềm tin, tình cảm, ý chí, trách nhiệm và hiệu quả cơng
tác làm thước đo chất lượng.Các hình thức phong phú, sinh động, có nhiều sáng tạo

phải kể đến là học tập trung, học trực tuyến, xây dựng bộ câu hỏi trắc nghiệm, sử dụng
bộ các tờ gấp tuyên truyền trực quan và phổ biến rộng rãi các Nghị quyết trên website
của Đoàn thanh niên các cấp, xây dựng bản đồ tư duy, tổ chức các hội thi, ngoại khóa,
sinh hoạt chun đề tìm hiểu các Nghị quyết của Đảng, của Đoàn thu hút đơng đảo
đồn viên, thanh niên tham gia. Nghị quyết Đại hội Đoàn toàn quốc lần thứ XI đã
được phổ biến đến cơ sở đoàn và đoàn viên, thanh niên. Việc học tập chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 4 bài lý luận chính trị được duy trì triển khai, có một số
đổi mới về nội dung và phương thức giảng dạy, như: tăng cường gắn lý luận với thực
tiễn trong nội dung giáo trình, bài giảng; đưa tài liệu, nội dung giáo dục lý luận chính
trị lên các trang thông tin điện tử của các cấp bộ đồn; triển khai bộ cơng cụ mới trong
giảng dạy giúp cho việc giảng dạy thuận tiện và hiệu quả cao hơn.
Về công tác nâng cao kiến thức và kĩ năng chuyên môn, Giáo dục và đào tạo
luôn được Ðảng và Nhà nước ta coi là quốc sách hàng đầu, là nhân tố quyết định
thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ đất
nước; đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển. Trong những năm qua, giáo dục và
đào tạo nước ta đã không ngừng phát triển và đạt được những thành tựu quan trọng.
Việc mở cửa hội nhập cũng đang mở ra cơ hội để các trường đại học, các viện nghiên
cứu trở thành những trung tâm sản xuất, sử dụng, phân phối, xuất khẩu, nhập khẩu tri
thức và chuyển giao công nghệ hiện đại, thông qua đào tạo và nghiên cứu để phát hiện
và bồi dưỡng nhân tài khoa học. Hội nhập sẽ góp phần từng bước thực hiện chuẩn
hóa, hiện đại hóa chương trình giáo dục theo trình độ khu vực và thế giới về các
phương diện: nội dung đào tạo, phương pháp đào tạo, phương tiện giáo dục, quản lý
giáo dục, xây dựng đội ngũ giáo viên, đội ngũ những người quản lý giáo dục... hướng
tới xây dựng hệ thống giáo dục học tập suốt đời trong một xã hội học tập. Trên thế
giới, nhiều nước thực hiện thành cơng dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục. Những kinh
nghiệm của họ, những thành công, thất bại của họ là bài học quý đối với ta. Trong q
trình thực hiện dân chủ hóa, xã hội hóa giáo dục, xu thế hội nhập sẽ giúp ta thu hút các
nguồn lực của xã hội, kể cả ở trong nước và cả ở nước ngoài để xây dựng và phát triển
nền giáo dục quốc dân bền vững.
1.2. Thách thức:
Việc mở cửa mang lại nhiều cơ hội cho thanh niên Việt Nam nói chung, sinh

viên TP. Hồ Chí Minh nói riêng nhưng cũng tạo ra nhiều thách thức. 
Kinh tế đất nước vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, chưa đủ khả năng đáp ứng tốt
các nhu cầu của thanh niên trên lĩnh vực học tập, nghề nghiệp, việc làm, thu nhập và
các nhu cầu về tinh thần khác. Riêng ở lĩnh vực học tập, Giáo dục - đào tạo thế giới đã
mở, đã được hiện đại hóa, với nhiều kiến thức mới, phương thức tiếp cận nền tri thức


đa dạng, khoa học, và phát triển vượt bậc. Do đó để thanh niên, sinh viên Việt nam
được tiếp cận, tiếp thu, địi hỏi Việt Nam ta phải khai thác, khơng ngừng học hỏi để
đầu tư phát triển nền giáo dục và tạo điều kiện tốt nhất có thể cho thanh niên sinh viên
Việt Nam. Chính điều này tạo nên thách thức cho việc đổi mới tư duy, đổi mới cách
nhìn để học hỏi, chọn lọc, tiếp thu cái đẹp, cái tốt của thế giới, bỏ những cái dở, cái
chưa hay của để xây dựng một nền giáo dục mới phù hợp bước phát triển mới của đất
nước và thời đại.
Quá trình phát triển của nền kinh tế thị trường, sự dịch chuyển về cơ cấu kinh
tế cùng với sự phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ rệt đã và đang tạo ra thách thức đối
với thanh niên, sinh viên về trình độ học vấn, tính chun mơn, nghiệp vụ, bản lĩnh
cũng như tác động mạnh lên tư tưởng, lối sống và đạo đức của thanh niên nói chung.
Ngồi ra, sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng kéo theo sự chuyển dịch lao động trẻ, cơ
cấu xã hội, và cơ hội nghề nghiệp của thanh niên. Hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp của sinh
viên, thanh niên còn khá cao, thu nhập khơng ổn định và lao động tự do cịn nhiều.
Đặc biệt đối với thế hệ thanh niên sinh viên tại thành phố Hồ Chí Minh, những thách
thức trên càng trở nên rõ rệt và tạo ra sức ép lớn khi học tập và làm việc tại đầu tàu
kinh tế của cả nước, với sự thay đổi phát triển vượt bậc và yêu cầu khắc nghiệt.
Mặt khác, sự chống phá của các thế hệ bên ngồi, các âm mưu xóa bỏ những
thành quả của chế độ xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng và chia rẽ
khối đại đồn kết tồn dân tộc vẫn cịn tồn tại. Chúng sử dụng các thủ đoạn kinh tế,
chính trị và văn hóa tác động làm biến chất, ra sức lơi kéo, tha hóa thanh niên, và kích
động thanh niên tham gia các hoạt động gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị
đất nước và  từ đó tạo mầm mống chống đối chế độ.

Q trình tồn cầu hóa cũng tạo ra những thách thức không hề nhỏ. Mạng xã
hội, kết nối internet, mạng lưới chia sẻ ngày càng nhiều, phức tạp và mang theo nhiều
mặt trái với những sản phẩm độc hại phi văn hóa lan truyền bằng nhiều con đường.
Sinh viên thanh niên là đối tượng tiếp cận nhiều nhất và dễ bị ảnh hưởng nhất từ
những mặt tiêu cực này. Các phương tiện truyền thông sẽ tác động trực tiếp, liên tục
với cường độ cao đến lối sống, nếp sống của thanh niên, tạo sức ép gây nhiều khó
khăn, phức tạp cho việc bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc trong giới trẻ. 
Ngồi ra, các tệ nạn xã hội vẫn còn tồn tại và chưa được ngăn chặn hiệu quả.
Môi trường xã hội chưa lành mạnh, đặc biệt là với sự phức tạp trong đời sống xã hội
tại thành phố Chí Minh đã và đang và sẽ tác động xấu đến toàn bộ thanh niên nói
chung.
Và 1 thách thức khơng thể khơng nhắc đến ở thời điểm hiện tại chính là sự tác
động hết sức kinh khủng của đại dịch covid-19. Covid-19 gây ra rất nhiều tổn thất,
mất mác cho thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía nam và vẫn chưa có dấu hiệu


×