Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÁC ĐỘNG của sự độc lập NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG đối với CHÍNH SÁCH điều HÀNH mục TIÊU lạm PHÁT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (232.55 KB, 21 trang )

Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

TÁC ĐỘNG CỦA SỰ ĐỘC LẬP NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH ĐIỀU HÀNH MỤC TIÊU LẠM PHÁT
I.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Mục tiêu nghiên cứu là xem xét các lợi ích của mục tiêu lạm phát1 trong cả hai nền kinh tế
tiên tiến và nền kinh tế mới nổi. Từ đó, phân biệt các tác động của mục tiêu lạm phát dựa
trên mức độ sự độc lập của ngân hàng trung ương2 để tìm thấy những ảnh hưởng lớn trong
nền kinh tế mới nổi với mức độ sự độc lập thấp của ngân hàng trung ương. Các câu hỏi
nghiên cứu có thể đặt ra là:
Có phải các nước có sự độc lập thấp của ngân hàng trung ương làm giảm thâm hụt ngân
sách bằng cách chấp nhận và thực hiện một mục tiêu lạm phát hay khơng?
Mục tiêu lạm phát có thể dẫn đến giảm khả năng đôla hóa, tăng cường hiệu lực của chính
sách tiền tệ và khả năng lạm phát thấp hơn hay không?
Sự giảm thâm hụt ngân sách ở các nước có sự độc lập thấp của ngân hàng trung ương sau
khi chấp nhận và thực hiện mục tiêu lạm phát có nhiều hơn so với các nước có sự độc lập
cao của ngân hàng trung ương hay không?
II. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Nghiên cứu được thực hiện với 66 quốc gia: 22 quốc gia tiên tiến và 44 quốc gia mới nổi
với phương pháp định lượng, sử dụng phương trình hồi quy chuẩn để kiểm tra tính hiệu
quả của mục tiêu lạm phát (IT) vào hiệu suất kinh tế vĩ mơ và vai trị của sự độc lập của
ngân hàng trung ương (CBI).
Quy trỉnh nghiên cứu:
1. Sử dụng mơ hình chuẩn và các dữ liệu để kiểm tra tác động của IT vào hoạt động


kinh tế vĩ mơ và vai trị của CBI
a. Xem xét hàm hồi quy của chỉ số kinh tế vĩ mô.
b. Dữ liệu từ năm 1980 – 2006 được chia thành các giai đoạn 3 năm.
Từ đó thống kê theo các quan sát, theo các quốc gia tiên tiến, theo nền kinh tế mới nổi.
2. Giới hạn các quan sát, theo các nền kinh tế mới nổi dựa trên chế độ tiền tệ và vai trò

của sự độc lập của ngân hàng trung ương.
1 Mục tiêu lạm phát: Inflation targeting (IT)
2 Sự độc

lập của ngân hàng trung ương: Central bank independence (CBI)

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 1


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ3
1. Giới thiệu

Một số lượng ngày càng tăng các nước đã chấp nhận IT như là một chiến lược chính sách
tiền tệ. Xu hướng này bắt đầu vào đầu những năm 1990 với một số ít các nền kinh tế tiên
tiến. Đến giữa những năm 1990, một số nước công nghiệp đã thực hiện theo, vào cuối
những năm 1990 và đầu năm những năm 2000, các ngân hàng trung ương tại các nền kinh
tế mới nổi đã bắt đầu áp IT. Số hiện tại là 8 nền kinh tế tiên tiến và 13 quốc gia thị trường
mới nổi. Các ngân hàng trung ương thực thi khuôn khổ chính sách tiền tệ mới bởi vì các lợi

ích được nhận thấy. Chúng bao gồm đạt được lạm phát thấp hơn và biến thiên lạm phát,
trong khi giữ lại đủ tính linh hoạt để phản ứng với những cú sốc kinh tế vĩ mô và khả năng
để ổn định đầu ra. Đặc biệt là các thị trường mới nổi đã được tìm kiếm một nguồn tin cậy
danh nghĩa rằng khơng có sự bất ổn liên quan đến cơ chế tỷ giá hối đoái cố định.
Do số lượng của các nước đã chấp nhận IT càng tăng, vì vậy cũng có các tài liệu thực
nghiệm để xác định sự ảnh hưởng của IT về lạm phát trung bình, sự biến động lạm phát,
tăng trưởng trung bình, và sự biến động tăng trưởng. Nói chung, nghiên cứu ban đầu tập
trung vào các nước công nghiệp (c.f. Ball và Sheridan, 2005) và đã tìm thấy bằng chứng
yếu là IT cải thiện hiệu suất kinh tế vĩ mô. Nhiều nghiên cứu gần đây bao gồm các nền
kinh tế mới nổi và có xu hướng tìm thấy bằng chứng mạnh mẽ hơn của các tác động tích
cực (Batini và Laxton, 2007; Goncalves và Salles, 2008, Lin và Ye,2009; Mishkin và
Schmidt-Hebbel, 2007). Tuy nhiên, Brito và Bystedt (2010), bằng cách sử dụng hệ thống
ước tính GMM như trái ngược với hệ thống ước tính difference-in difference thường được
dùng trong nghiên cứu của Ball và Sheridan (2005), có được kết quả hơi khác nhau. Họ
tìm thấy hỗ trợ cho các ảnh hưởng của IT đối với lạm phát trung bình, sự biến động lạm
phát, và sự biến động tăng trưởng yếu hơn và cung cấp các chứng cứ rằng tăng trưởng bình
quân là thấp hơn dưới IT. Các tài liệu khảo sát, Ball (2010) chỉ ra bằng chứng về các tác
dụng có lợi của IT trong nền kinh tế mới nổi, trong khi mạnh hơn ở các nước tiên tiến, là
chưa kết luận được.
Trong bài viết này, tác giả cố gắng để giải thích việc thiếu bằng chứng mạnh mẽ bằng cách
lập luận rằng tất cả các nền kinh tế mới nổi là không giống nhau và IT có thể tốt hơn ở một
số nước so với các nước khác. Đặc biệt, các ngân hàng trung ương khác nhau về mức độ
CBI, và điều này có thể tương tác với một cơ chế IT để sản xuất các kết quả khác nhau về
kinh tế vĩ mô. Do đó, có thể khi sự phân biệt này khơng được thực hiện, kết quả kết luận
3 Tác giả của bài nghiên cứu này là Sami Alpanda và Adam Honig – Amherst College, Amherst, MA 01002 – tháng 5/2011
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 2



Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

cho những tác động của IT trong một tập hợp con của các nước đang bị suy yếu bởi bao
gồm các quốc gia mà IT khơng có hiệu lực.
Có những quan điểm phản đối về CBI làm cho một cơ chế IT nhiều hơn hoặc ít hiệu quả.
Một mặt, ngân hàng trung ương tự chủ có thể là một điều kiện tiên quyết cho thành công
IT (Mishkin, 2000; 2004; Eichengreen et al, 1999; Friedman và Ưtker-Robe, 2010). Ví dụ,
IT có thể khơng làm trong việc đạt được lạm phát thấp nếu các ngân hàng trung ương có
thể bị áp lực bởi các chính trị gia về tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn hoặc để kiếm tiền từ thâm
hụt tài chính lớn. Tương tự như vậy, CBI thấp có thể hàm ý rằng điều kiện tiên quyết khác
đang mất tích như là tốt. Chúng bao gồm các ưu tiên của IT là mục tiêu của chính sách tiền
tệ, khơng có sự thống trị, đơ la hóa tài chính trách nhiệm hữu hạn, và thơng tin liên lạc
ngân hàng trung ương có hiệu quả, minh bạch, và trách nhiệm giải trình (Batini và Laxton,
2007, Friedman và Ưtker-Robe, 2010)4. Trong trường hợp này, IT có ít hiệu quả hơn trong
các môi trường CBI thấp. Tác giả hướng theo điều này như là "hiệu ứng điều kiện tiên
quyết."
Tuy nhiên, có bất đồng về việc liệu những điều kiện tiên quyết là trong thực tế điều kiện
tiên quyết cho thành công IT hay trái ngược chỉ đơn giản là tính năng mong muốn. Chắc
chắn sẽ đồng ý rằng những yếu tố này làm cho bất kỳ chế độ tiền tệ thành công hơn. Hơn
nữa, các đối số đã được thực hiện rằng IT có thể thúc đẩy sự phát triển của một số các tính
năng này (Batini và Laxton, năm 2007, Friedman và Ưtker-Robe, 2009; Mishkin, 1999). Vì
vậy, IT có thể thành cơng hơn so với các chế độ khác tiền tệ khi những yếu tố này đang
thiếu và có cách để cải thiện. Trong phạm vi những yếu tố này đang thiếu nước có CBI
thấp, chúng ta có thể mong đợi để xem hiệu ứng lớn hơn của IT trong nước CBI thấp. Tác
giả gọi đây là "hiệu ứng nâng cao" CBI thấp. Ngược lại, khi đã có các tính năng này, có thể
có rất ít cho IT để cải tiến.
Một ví dụ khác về tác động này, CBI thấp có thể bao hàm sự tín nhiệm ngân hàng trung
ương yếu kém và kỳ vọng lạm phát khơng có điểm dừng, cho rằng IT có thể có một tác

động lớn (Bernanke et al.,1999; Mishkin, 1999, Svensson, 1997), trong khi đó nếu một
ngân hàng trung ương có uy tín, khơng cần độ tin cậy và neo đậu các kỳ vọng lạm phát đi
kèm với IT (Ball, 2010, Goncalves và Salles, 2008). Một lần nữa, chúng ta sẽ mong đợi để
xem hiệu ứng mạnh mẽ của IT ở các nước khơng có ngân hàng trung ương độc lập.
Hiệu quả thực của CBI thấp về hiệu quả của IT phụ thuộc vào sức mạnh tương đối của các
4 Những thảo luận sau đó điều kiện tiên quyết khác mà CBI có thể được tương quan, nhưng ít có khả năng để có một ảnh hưởng quan hệ nhân quả
trên.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 3


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

điều kiện tiên quyết và tác đợng cải tiến.5 Bằng cách phân tích thực nghiệm, tác động của
CBI về cơ chế IT, tác giả hy vọng làm sáng tỏ cuộc tranh luận này. Để xem trước kết quả,
tác giả khơng tìm thấy bằng chứng về tác dụng của IT ở các nước tiên tiến hoặc các quốc
gia đang nổi với mức độ cao của CBI. Tuy nhiên, tác giả phát hiện ra những lợi ích lớn ở
các nước đang nổi với trình đợ thấp của CBI. Những kết quả nghi ngờ về quan điểm cho
rằng CBI là một điều kiện cần thiết để IT có kết quả. Hoàn toàn trái ngược, IT chỉ có hiệu
quả khi các ngân hàng trung ương khơng phải là độc lập, cho thấy tác dụng cải thiện là
quan trọng hơn hiệu ứng điều kiện tiên quyết. Do dó, các ý nghĩa chính sách, các nền kinh
tế mới nổi không nên chờ đợi về sự lớn hơn của CBI trước khi áp dụng IT như là một
chiến lược chính sách tiền tệ.
Sau đó, tác giả điều tra thông qua các kênh mà qua đó CBI thấp tại các nền kinh tế mới nổi
làm tăng hiệu quả của IT trong việc giảm lạm phát. Đặc biệt, tác giả cũng xem xét một vài
khía cạnh các nước CBI thấp có nhiều cải tiến so với các nước CBI cao sau việc áp dụng

IT. Ví dụ, việc áp dụng và thực hiện IT có thể mang lại một sự tăng thêm lớn hơn trên thực
tế hoặc theo luật định trong CBI đối với các quốc gia CBI thấp như các nhà chính trị được
giao trong cam kết của họ để lạm phát thấp (Mishkin, 1999; Batini và Laxton, 2007). Liên
quan đến điều này, và có lẽ quan trọng hơn, IT có thể mang đến khuôn khổ tài chính lớn
hơn và giảm thâm hụt ngân sách ở quốc gia CBI thấp, kể từ khi tiếp tục tài trợ thâm hụt
ngân sách thông qua việc tạo ra tiền sẽ gây nguy hiểm cho việc đạt được các mục tiêu lạm
phát (IMF, 2006) . IT cũng có thể dẫn đến giảm khả năng đơla hóa, tăng cường hiệu lực
của chính sách tiền tệ và khả năng lạm phát thấp hơn (Mishkin, 2003). IT cũng được kết
hợp với những cải tiến nhanh chóng trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật thông qua các ngân hàng
trung ương (Batini và Laxton, 2007) và thông tin liên lạc tăng lên, minh bạch và trách
nhiệm
giải
trình
(Mishkin

Schmidt-Hebbel,
năm
2001).
Mặc dù tác giả khơng thể xác định riêng biệt tất cả các kênh do sự hạn chế về dữ liệu, tác
giả tìm thấy bằng chứng rằng sự suy giảm trong thâm hụt ngân sách như là một kênh quan
trọng. Đặc biệt, có một sự giảm đáng kể thâm hụt ngân sách ở các nước CBI thấp sau khi
chấp nhận và thực hiện IT, nhiều hơn so với các nước CBI cao, và khi tác giả kiểm sốt cho
vai trị của thâm hụt ngân sách trong mơ hình hồi quy chuẩn, chúng tơi khơng cịn thấy
rằng IT là hiệu quả ở các nước CBI thấp. Ngược lại, tác giả khơng tìm thấy bằng chứng về
khả năng đơ la hóa và sự phát triển tài chính phục vụ như là kênh quan trọng mà qua đó
5 Bên thứ ba trung lập lập luận rằng CBI và các điều kiện tiên quyết đã đề cập khác là quan trọng đối với bất kỳ thành cơng chiến lược chính sách
tiền tệ và không cân xứng ủng hộ hoặc cản trở một chế độ IT, do đó sự vắng mặt của những điều kiện này không ảnh hưởng việc áp dụng CNTT
(Carare et al, 2002; IMF, 2006; Truman, 2003).

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20


Trang 4


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

CBI thấp cải thiện hiệu suất lạm phát.
Phần còn lại của nghiên cứu được tổ chức như sau: Phần 2 giới thiệu các dữ liệu và các
phương trình hồi quy chuẩn mà tác giả sử dụng để kiểm tra hiệu quả của IT vào hiệu śt
kinh tế vĩ mơ và vai trị của CBI. Phần 3 trình bày kết quả và các kiểm tra. Phần 4 phân tích
các kênh tiềm năng thơng qua đó thể hiện sự ảnh hưởng của IT đến hiệu suất lạm phát.
Phần 5 kết luận.
2. Ảnh hưởng của IT và vai trò của CBI

Trong phần này, tác giả giới thiệu mơ hình chuẩn của tác giả và các dữ liệu được sử dụng
để kiểm tra tác động của IT vào hoạt động kinh tế vĩ mơ và vai trị của CBI. Tác giả xem
xét một hồi quy của một chỉ số kết quả kinh tế vĩ mô, Y, trên sự tụt hậu của chúng ta, một
biến giả IT, IT, và một số biến số kiểm soát. Khảo sát đặc điểm kỹ thuật được cho bởi

nơi mà có chỉ số quốc gia i và chỉ số thời điểm t. Các biến kiểm sốt bao gồm một sự đo
lường tính độc lập của ngân hàng trung ương, CBI, tương tác của IT với CBI, và một biến
giả cho thấy lạm phát cao, HIGHINFL. Thuật ngữ tương tác IT * CBI cho phép tác động
của lạm phát mục tiêu trên hiệu suất kinh tế vĩ mô phụ thuộc vào CBI. Như đã thảo luận ở
trên, CBI cho là có thể làm cho lạm phát mục tiêu hiệu quả nhiều hơn hoặc ít hơn tùy thuộc
vào sức mạnh tương đối của các điều kiện tiên quyết và các hiệu ứng cải thiện, do đó hệ số
của các thuật ngữ tương tác là mơ hồ. Cuối cùng,

đề cập đến một hiệu ứng thời gian,và


là một thành phần quốc gia cụ thể của sai số.
Để tạo điều kiện thuận lợi so sánh với kết quả trước đó và để cơ lập các thơng tin bổ sung
được cung cấp bởi các biện pháp của CBI, tác giả sử dụng cùng một phương trình hồi quy
(trừ CBI và tương tác của nó) và dự tốn các thủ tục tương tự như Brito và Bystedt (2010).
Do đó chúng tơi ước tính mơ hình sử dụng ước tính hệ thống GMM phát triển trong
Arellano và Bover (1995) và Blundell và Bond (1998) .6
2.1 Dữ liệu
6 Brito và Bystedt (2010) thảo luận về một số lợi thế của phương pháp này
dụng trong nghiên cứu của Ball và Sheridan (2005).

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 5

hơn phương pháp ước tính difference-in-difference thường được sử


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

Số liệu từ năm 1980 đến năm 2006. Sau Brito và Bystedt (2010), tác giả lấy trung bình 3
năm của dữ liệu, kết quả trong một mẫu với 9 giai đoạn. Điều này làm giảm số lượng các
công cụ, mà là bậc hai trong T, và cũng cung cấp "một thỏa hiệp hợp lý giữa cho đủ thời
gian cho phản ứng chậm chạp của các biến số vĩ mô và tách hiệu quả điều tiết lạm phát từ
ảnh hưởng của các sự kiện khác xảy ra gần ". Mẫu bao gồm tất cả các quốc gia chấp nhận
lạm phát mục tiêu trong giai đoạn mẫu cũng như một nhóm khơng áp dụng lạm phát mục
tiêu.7 Nhóm khơng áp dụng lạm phát mục tiêu, và giai đoạn trước khi áp dụng cho các mục
tiêu phục vụ như là các kiểm soát. Tác giả sử dụng cùng một tập hợp các nền kinh tế mới

nổi, cả hai có mục tiêu và khơng mục tiêu, như Brito và Bystedt (2010), người sử dụng tập
hợp mẫu trong Batini và Laxton (2007) và Goncalves và Salles (2008). Chỉ có sự khác biệt
duy nhất là hai trong số các nước khơng có dữ liệu về CBI, và vì vậy tác giả chỉ có 44 nền
kinh tế mới nổi như trái ngược với 46 của các tác giả khác. Trong hồi quy riêng biệt, tác
giả mở rộng mẫu và bao gồm các nước kinh tế tiên tiến. Nhóm 22 nền kinh tế tiên tiến
được lấy từ Ball (2010).8 Do đó sự kết hợp mẫu bao gồm 66 quốc gia.
Như là tiêu chuẩn trong nghiên cứu thực nghiệm, tác giả xem xét ảnh hưởng của lạm phát
mục tiêu trên bốn chỉ số hiệu suất kinh tế vĩ mô: lạm phát, tăng trưởng sản lượng, độ lệch
chuẩn của lạm phát, và độ lệch chuẩn của tăng trưởng sản lượng. Lạm phát và biện pháp
tăng trưởng sản lượng tham khảo phức hợp liên tục tăng trưởng trong chỉ số giá tiêu dùng
và GDP thực tế (nhân cho 100), tương ứng. Thước đo và độ lệch chuẩn của chúng sau đó
được tính cho từng thời kỳ ba năm. Việc sử dụng của lãi kép liên tục có thay đổi tỷ lệ một
phần làm giảm ảnh hưởng của giá trị ngoại lai.
Thời gian IT áp dụng đối với các nền kinh tế tiên tiến được lấy từ Ball (2010); thời gian
đối với các nền kinh tế mới nổi là từ Brito và Bystedt (2010), họ sử dụng thời gian trong
Batini và Laxton (2007). Biến IT giả định một giá trị trong một khoảng thời gian ba năm,
nếu một chế độ lạm phát diễn ra trong cả ba năm của thời kỳ này, nó được thiết lập bằng
2/3 hoặc 1/3 nếu một chế độ lạm phát tại chỗ chỉ có hai năm hoặc một năm, tương ứng.
Tác giả giải thích hệ số của các biến,

, như sau: tất cả các tương đương khác, một quốc

7 Xem phụ lục về danh sách các nước và các nguồn dữ liệu.
8 Sự khác biệt duy nhất là chúng tôi không loại trừ Hy Lạp và Iceland, đã được loại trừ trong mẫu của bóng bởi vì họ đã trải qua lạm phát hàng năm
hơn 20% kể từ năm 1984.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 6



Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

gia lạm phát có (trừ) , ít hơn một lạm phát phi mục tiêu (bỏ qua các thuật ngữ tương tác),
hoặc tương đương, nếu một quốc gia áp dụng lạm phát mục tiêu , nó sẽ giảm lạm phát
trung bình bởi điểm phần trăm

.

Đối với sự đo lường của CBI, tác giả xem xét các chỉ số CBI trong Cukierman et al.
(1992), mà là dựa trên khía cạnh sự độc lập của pháp định (LEGAL) và tỷ lệ doanh thu của
các thống đốc ngân hàng trung ương (TURNOVER).9 Các chỉ số nói chung là có sẵn cho
đến năm 1989 cho cả hai nền kinh tế tiên tiến và đang phát triển và giả định một giá trị mỗi
thập kỷ. Chúng bao gồm từ 0 đến 1, với các giá trị cao hơn cho thấy lớn hơn CBI cho chỉ
số pháp lý và thấp hơn CBI cho chỉ số doanh thu.
Chỉ số pháp định đã được mở rộng thông qua năm 2002 cho 24 nước Mỹ Latinh và
Caribbean Jácome và Vázquez (2005), người cũng đã thêm một vài quốc gia mới vào mẫu,
và thông qua năm 1999 đối với các nước tiên tiến Siklos (2008). Chỉ số doanh thu đã được
bổ sung với các dữ liệu sau năm 1990 từ Crowe và Meade (2007) và Dreher, et al. (2008).
Ba điểm liên quan đến những chỉ số này là đáng chú ý.
Đầu tiên, như đã đề cập ở trên, không phải chỉ số lạm phát mục tiêu tất cả các quốc gia
có CBI cao, và có sự thay đổi đáng kể trong giá trị của các biến CBI, có thể được khai
thác để xác định vai trị của CBI.
• Thứ hai, các biện pháp này cung cấp thơng tin bổ sung về CBI ngồi cơng cụ độc lập.
Như đã thảo luận trong Batini và Laxton (2007), hầu hết các ngân hàng trung ương có
cơng cụ hợp pháp độc lập tại thời điểm lạm phát mục tiêu chấp nhận.10 Tuy nhiên, một



số yếu tố đã bị bỏ qua trong các khía cạnh khác của CBI được phản ánh qua các biện
pháp pháp lý, bao gồm cả quyền tự do của nghĩa vụ để mua nợ chính phủ, tầm quan
trọng của lạm phát trong những mục tiêu khác, và mức độ cao về bảo mật công việc
của thống đốc ngân hàng trung ương (Batini và Laxton, 2007). Ngồi ra, các biện pháp
doanh thu cung cấp thơng tin thực tế về bảo mật cơng việc cho thống đốc.
• Thứ ba, một vấn đề tiềm ẩm đối với các biện pháp pháp lý là những gì được viết ra
trong luật pháp có thể rất khác nhau trong thực tế. Điều này đặc biệt đúng trong các nền
9 TURNOVER là số lượng trung bình của những thay đổi trong các thống đốc ngân hàng trung ương mỗi năm trong
mỗi thập kỷ. Ví dụ, Nếu TURNOVER = 0.2, có 2 sự thay đổi một thập kỷ cho một nhiệm kỳ trung bình trong 5 năm.
10 Cơng cụ độc lập xảy ra khi các ngân hàng trung ương có tồn quyền kiểm sốt các thiết lập của các cơng cụ chính sách, thường là lãi suất danh
nghĩa ngắn hạn, để đạt được các mục tiêu chính sách. Mục tiêu độc lập trong đó các ngân hàng trung ương thiết lập các mục tiêu chính sách như
mục tiêu lạm phát khơng phổ biến, ngay cả trong nền kinh tế phát triển (Debelle và Fischer, 1994).

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 7


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

kinh tế mới nổi.Tương tự như vậy, các công cụ hợp pháp độc lập khôngbao hàm sự độc
lập trên thực tế. Trong thực tế, Cukierman, et al. (1992) lập luận các biện pháp doanh
thu là thích hợp hơn cho nền kinh tế mới nổi hơn so với các biện pháp pháp lý, trong
khi đối với các nước tiên tiến, các biện pháp pháp lý mang tính biểu thị của CBI.
Những vấn đề này được thảo luận thêm trong phần 3 và 4.
Cuối cùng, theo tài liệu chúng tôi bao gồm một biến giả, HIGHINFL, cho thấy lạm phát
trung bình cao (> 40%) trong một khoảng thời gian để kiểm soát các động lực kinh tế vĩ
mơ có thể khác nhau ở các nước đang lạm phát cao (Brito và Bystedt, 2010; Batini và

Laxton, 2007; IMF, 2006). Chúng tôi cũng thử nghiệm với gia loại bỏ giai đoạn lạm phát
cao từ mẫu tại mục 3.1.
2.2 Tóm tắt thơng tin thống kê

Số liệu thống kê tóm tắt cho tất cả các quan sát, các nước tiên tiến, và các nền kinh tế mới
nổi được cung cấp trong Bảng 1. Thời gian mẫu từ 1980-2006, được chia thành các giai
đoạn ba năm. Có 66 quốc gia, 22 nền kinh tế tiên tiến, và 44 quốc gia mới nổi. Các nước
tiên tiến chiếm 27% của tất cả các quan sát. Cả các nước tiên tiến và nền kinh tế mới nổi
đều tỷ lệ lạm phát mục tiêu khoảng 13% thời gian. Các nước mới nổi có tỷ lệ doanh thu
ngân hàng trung ương cao hơn, mặc dù đáng ngạc nhiên ở các nước đó có CBI hơi cao hơn
mức trung bình của CBI hợp lý. Điều này làm nổi bật thực tế rằng các biện pháp pháp lý là
khơng phản ánh chính xác CBI tại các nền kinh tế mới nổi, như Cukierman, et al. (1992)
chỉ ra. Nền kinh tế mới nổi có tỷ lệ lạm phát cao hơn và tỷ lệ tăng trưởng sản lượng. Họ
cũng đã trải qua giai đoạn siêu lạm phát như giá trị tối đa của lạm phát cho thấy.
Bảng 2 trình bày các số liệu thống kê tóm tắt loại của các nước (tiên tiến hoặc đang phát
triển), chế độ tiền tệ (thắt chặt hoặc nới lỏng, biến lạm phát mục tiêu), và sau đó tiếp tục
khoảng thời gian (trước và sau lạm phát mục tiêu). Đối với các nước tiên tiến (các nước
mới nổi) với chế độ tiền tệ nới lỏng, tỷ lệ lạm phát mục tiêu trung bình được thông qua ở
các nước tiên tiến (các nước đang mới nổi) , 1995 (năm 1999), được sử dụng để phân chia
mẫu. Đối với các nước tiên tiến, lạm phát mục mục tiêu ở giai đoạn có liên quan với lạm
phát thấp hơn, tốc độ tăng trưởng cao hơn, và lạm phát thấp hơn và không ổn định đầu ra.
Điều này cải thiện hiệu suất, tuy nhiên, được chia sẻ bởi chính sách nới lỏng là tốt, mặc dù
tiến bộ nhỏ hơn một chút. Mơ hình tương tự như đối với các nền kinh tế mới nổi, mặc dù
có sự cải thiện theo thời gian cho mục tiêu là lớn hơn cho khơng mục tiêu. Ví dụ, các nước
mời nổi có kinh nghiệm giảm lạm phát mục tiêu trung bình 10%, trong khi không mục tiêu
biểu hiện giảm điểm 4%. Điều này gợi nhớ kết quả trước đó trong các tài liệu thu được
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 8



Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

bằng cách sử dụng các ước tính khác nhau trong sự khác biệt. Tuy nhiên, nhìn vào lạm phát
trung bình trước và sau khi lạm phát mục tiêu được thơng qua có thể gây hiểu nhầm và có
thể phóng đại các tác dụng có lợi của lạm phát mục tiêu. Như đã chỉ ra bởi Brito và Bystedt
(2010), kinh nghiệm cao hơn lạm phát mục tiêu trung bình so với người khơng mục tiêu
đến cuối những năm 1980 nhưng đến giữa những năm 1990, trước khi thông qua lạm phát
mục tiêu với mức lạm phát thấp hơn so với người không mục tiêu. Mơ hình này lạm phát
có thể gây ra một vấn đề với các ước tính khác nhau trong sự khác biệt đó là dựa trên trước
và sau lạm phát mục tiêu khác nhau. Cuối cùng, Bảng 2 cho thấy rằng nền kinh tế mới nổi,
bắt đầu với lạm phát trung bình cao hơn nhiều và biến động lạm phát, những giọt lớn hơn
nhiều trong các biến hơn so với các nền kinh tế tiên tiến.
Trong bảng 3, tác giả giới hạn sự chú ý đến nền kinh tế mới nổi và các số liệu thống kê
hiện nay dựa trên chế độ tiền tệ, khoảng thời gian, và mức độ của CBI sử dụng
TURNOVER như là một đại diện. Đặc biệt, tác giả trình bày số liệu thống kê tóm tắt cho
TURNOVER dưới đây và trên 0,26. Như mô tả trong các kết quả TURNOVER, phần = 0,26
khoảng tương ứng với mức độ cắt lạm phát mục tiêu là ảnh hưởng đến lạm phát trung bình
là đáng kể ở mức 10%. Đây cũng là giá trị trung bình TURNOVER (trung vị là 0,20). Đối
với mục tiêu với doanh thu thấp/CBI cao , trung bình (trung bình) lạm phát giảm 11 (8)
điểm phần trăm sau khi lạm phát mục tiêu được thông qua, trong khi khơng mục tiêu nó
giảm 8 (4) điểm phần trăm. Đối với mục tiêu với TURNOVER ≥ 0,26, trung bình (trung
bình) lạm phát giảm 55 (20) điểm phần trăm, trong khi khơng mục tiêu nó giảm 22 (5)
điểm phần trăm. Như vậy, các nước có doanh thu cao/CBI thấp trải qua sự sụt giảm lớn
hơn lạm phát, bất kể chế độ tiền tệ hơn so với các quốc gia CBI cao. Thứ hai, tổ chức CBI
liên tục, mục tiêu cải thiện hơn theo thời gian hơn những người không mục tiêu. Thứ ba, sự
khác biệt trong việc cải thiện theo thời gian giữa mục tiêu và không mục tiêu lớn cho các
quốc gia CBI thấp. Đối với lạm phát trung bình, do đó, bằng chứng sơ bộ cho thấy rằng

lạm phát mục tiêu làm giảm lạm phát, liên quan đến chế độ tiền tệ khác, trong nước CBI
thấp.
Lưu ý rằng một mơ hình tương tự có thể được nhìn thấy trong TURNOVER và thâm hụt
ngân sách. Đặc biệt, cả TURNOVER và thâm hụt ngân sách đều không thay đổi nhiều hoặc
chỉ hơi tăng cho các nước có CBI cao, bất kể cho dù họ áp dụng IT hay khơng. Đối với
các quốc gia có CBI thấp, có một sự suy giảm trong thâm hụt ngân sách cho cả hai mục
tiêu và không mục tiêu, nhưng sự suy giảm trung bình cho những mục tiêu (từ thâm hụt
3,2% đến 0,1% thặng dư) là lớn hơn đáng kể so với sự suy giảm cho khơng mục tiêu (từ
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 9


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

thâm hụt 1,1% đến thặng dư 0,8%). Điều này là phù hợp với giả thuyết rằng việc áp dụng
IT đã thúc đẩy các chính phủ trong nước có CBI thấp để tăng cường nguyên tắc tài khóa
của họ, làm giảm sự cần thiết cho tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua việc in thêm tiền,
và làm giảm mức độ lạm phát trung bình. Ngồi ra, TURNOVER giảm ở nước có CBI thấp
theo sau sự áp dụng của IT nhưng lại tăng nhẹ đối với nước có CBI cao. Trong phần 4,
chúng tơi đề xuất hạ thấp mức thâm hụt ngân sách và cải thiện ở cấp độ của CBI là kênh
quan trọng mà qua đó việc áp dụng IT sẽ thành cơng trong việc giảm lạm phát ở quốc gia
có CBI thấp.
Đối với những mục tiêu có doanh thu thấp/CBI cao, mức lạm phát trung bình biến động
giảm 3 (1) phần trăm điểm sau khi áp dụng IT, trong khi không mục tiêu giảm 4 (2) phần
trăm điểm. Đối với những mục tiêu có TURNOVER ≥ 0,26, lạm phát trung bình biến động
giảm 19 (3) phần trăm điểm, trong khi không mục tiêu giảm 7 (2) phần trăm điểm. Với
mức lạm phát trung bình, các nước có doanh thu cao / CBI thấp trải qua sự sụt giảm lớn

hơn trong biến động lạm phát bất kể chế độ tiền tệ so với nước có CBI cao. Thứ hai, đối
với các nước có doanh thu thấp, khơng mục tiêu cải thiện chút ít theo thời gian hơn là mục
tiêu, trong khi đối với các nước có thu nhập cao thì thực tế xảy ra ngược lại. Như vậy, IT
có thể hiện tốt hơn, liên quan đến các chế độ tiền tệ khác, ở các nước có CBI thấp.
Đối với các mục tiêu có doanh thu thấp/CBI cao, tăng trưởng trung bình tăng lên 1 (1.2)
phần trăm điểm sau khi áp dụng IT, trong khi không mục tiêu tăng lên 1,2 (1) phần trăm
điểm. Đối với những mục tiêu có TURNOVER ≥ 0,26, tăng trưởng trung bình tăng 0,6 (1,4)
phần trăm điểm, trong khi không mục tiêu tăng lên 0,4 (1,4) phần trăm điểm. Vì vậy kết
quả ban đầu cho thấy cả hai mục tiêu và không mục tiêu trải qua sự gia tăng tương tự trong
sự tăng trưởng, và cải thiện không khác biệt đáng kể với mức độ của CBI.
Cuối cùng, đối với mục tiêu có doanh thu thấp/CBI cao, tăng trưởng trung bình biến động
giảm 1.3 (0,8) phần trăm điểm, trong khi không mục tiêu giảm 1.8 (1.1) phần trăm điểm.
Đối với mục tiêu có doanh thu cao, tăng trưởng trung bình biến động giảm xuống 1,2 (1,6)
phần trăm điểm, trong khi không mục tiêu giảm 0.5 (0.65) phần trăm điểm. Đối với các
quốc gia có doanh thu thấp, do đó, khơng mục tiêu cải thiện chút ít theo thời gian so với
mục tiêu, trong khi đối với các nước có doanh thu cao thì ngược lại. Như vậy các bằng
chứng sơ bộ cho rằng IT thể hiện tốt hơn, liên quan đến các chế độ khác, ở nước có CBI
thấp.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 10


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

Bảng 4 trình bày những mẫu tương quan đại diện cho các mẫu đầy đủ, các nước tiên tiến,
và nền kinh tế đang nổi. IT được tương quan với mức lạm phát trung bình thấp hơn, biến

động lạm phát, biến động tăng trưởng cho cả các quốc gia tiên tiến và nền kinh tế mới nổi.
Nó tương quan với mức độ tăng trưởng trung bình thấp hơn trong các mẫu đầy đủ và cho
nền kinh tế mới nổi nhưng có tốc độ tăng trưởng cao hơn cho các nước có nền kinh tế tiên
tiến. Như dự kiến, LEGAL và TURNOVER có tương quan âm. Hơn nữa, lạm phát và biến
động lạm phát có tương quan âm với LEGAL cho cả hai nhóm, trong khi chúng có tương
quan thuận đối với TURNOVER của các nền kinh tế mới nổi, như dự đoán. Đối với nền
kinh tế tiên tiến, tuy nhiên, dấu hiệu của sự tương quan giữa lạm phát và biến động lạm
phát và TURNOVER là âm. Như thảo luận trong Cukierman, et al. (1992), TURNOVER
không phải là một biện pháp đo lường CBI tốt cho các nước tiên tiến, trong khi
TURNOVER không phải là biểu thị của CBI trong nền kinh tế đang nổi. Chúng tôi sẽ trở lại
vấn đề này trong phần kết quả.
3. Kết quả

Bảng 5 trình bày kết quả từ ước lượng phương trình (1) khơng chỉ số CBI so sánh với số
trước đó. Tuy nhiên, chỉ giới hạn mẫu ở những quốc gia có dữ liệu CBI. 11 Trong ước lượng
điểm chuẩn GMM, chúng tôi xử lý cả biến IT và CBI cùng với những biến phụ thuộc lớn
theo như các hồi quy trước ( dù khơng hồn tồn là biến ngoại sinh). Do đó chúng tơi giả
sử lạm phát khơng ảnh hưởng đến IT mặc dù là có ảnh hưởng. Trong mục 3.2, chúng tôi
thử nghiệm xử lý biến IT và biến CBI như là biến nội sinh. 12 HIGHINF được xem như biến
nội sinh trong cả hồi quy.
Kết quả chỉ ra rằng IT liên quan đến chính sách tiền tệ làm giảm lạm phát trung bình, trong
ví dụ lạm phát trung bình thấp hơn 1.7% các nước phát triển là 0.34% (nhưng không đáng
kể), ở các nền kinh tế mới nổi là 2%( p – value = 0.11. Kết quả là cả các nước tiên tiến và
các nền kinh tế mới nổi phù hợp với những nghiên cứu trước đó. Trong khi IT được mong
đợi giảm biến động lạm phát (Ceccheti anf Ehrmann, 2002), cột 4-6 trong thang đo đầu tiết
lộ rằng IT khơng có ảnh hưởng đáng kể. Kết quả cho các nền kinh tế mới nổi này phù hợp
với Brito and Bystedt (2010), nhưng không phù hợp với Lin and Ye (2009) và Batini and
11 Ví dụ kết quả của các nền kinh tế mới nổi rất gần với cột 5 của bảng 3 và 4 trong Brito and Bystedt (2010). Khác biệt duy nhất là 2 quốc gia
khơng có dữ liệu về TURNOVER. Hơn nữa, các quốc gia khơng có dữ liệu TURNOVER thì không cần dữ liệu trong tất cả giai đoạn, kết quả là các
quan sát tổn thất hơn.


12 Bảng thống kê tổng hợp 2, đưa ra rằng các quốc gia có lạm phát cao thì hầu như sử dụng IT, cho thấy khả năng phản hồi thông tin, khả năng tụt
hậu. Do đó chúng tơi xử lý IT như là một biến định trước (như là một biến nội sinh) thay vì là một biến ngoại sinh.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 11


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

Laxton (2007), những người tìm ra biến động lạm phát nhỏ hơn. Ảnh hưởng không đáng
kể phù hợp với Ball (2010).
Trong thang đo dưới, IT làm thấp hơn tăng trưởng trung bình ở cả vd và các nền kinh tế
mới nổi nhưng lại gia tăng ở các nước phát triển. Kết quả cho các nền kinh tế mới nổi thì
phù hợp với Brito and Bystedt (2010), nhưng trái ngược với Ball (2010), người tìm ra
khơng có ảnh hưởng ở các nước phát triển. Cột 4-6 chỉ ra rằng IT có tác động tiêu cực
nhưng không ảnh hưởng đáng kể đến biến động tăng trưởng trong vd ( p – value = 0.14 )
và cho các nền kinh tế mới nổi ( p – value = 0.24 ) nhưng lại tác động tích cực và không
đáng kể ở các nước phát triển. Kết quả là ở các nền kinh tế mới nổi thì tương tự như Brito
and Bystedt (2010), Batini and Laxton (2007), và Golcalves and Salles (2008), người tìm ra
một tác động tiêu cực và đáng kể. Kết quả ở các nước phát triển thì lại phù hợp với Ball
(2010), người tìm ra một hệ số tích cực nhưng khơng đáng kể. Cuối cùng, HIGHINFl là
một tác động tích cực cao hơn lạm phát trung bình, biến động lạm phát, biến động tăng
trưởng nhưng lại thấp hơn tăng trưởng trung bình. Ở các nước tiên tiến, các biến bị bỏ qua
do việc canh thẳng, vì một quốc gia có kinh nghiệm với một giai đoạn lạm phát cao.
Bảng 6 trình bày kết quả từ ước lượng phương trình (1) với lạm phát trung bình như là biến
phụ thuộc, bao hàm CBI và tương tác giữa nó với IT. Chúng tui cung cấp kết quả cho tồn

bộ ví dụ, các nước tiên tiến và các nền kinh tế mới nổi sử dụng cả LEGAL và
TURNOVER để đánh giá CBI. Để kiểm tra hiệu quả của IT, ta sử dụng hệ số của IT và
IT*CBI. Theo mẫu đầy đủ, và phương trình (1), kết quả hàm ý rằng IT khơng có ảnh
hưởng tới lạm phát bất kể tính độc lập pháp lý. Tuy nhiên mẫu đầy đủ ở phương trình (2),
hệ số IT*TURNOVER là tiêu cực và đáng kể, hàm ý rằng IT nhiều ảnh hưởng hơn trong
trường hợp giảm phát ở các quốc gia có kim ngạch ngân hàng TW cao. Cụ thể là, ảnh
hưởng của IT lên lạm phát ở các nước có doanh thu cao nhất là 36.3% so với các nước thấp
nhất, cả trong trường hợp bằng.13 Những tính tốn xa hơn tiết lộ ảnh hưởng của IT là tiêu
cực đáng kể nhưng chỉ ở các quốc gia có TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.26, hơi lớn
hơn mức trung bình trong mẫu đầy đủ. Khi TUNOVER = 0.26 thì kích thước của dự báo
tác động lên lạm phát trung bình xấp xỉ là -3.0%. Ảnh hưởng này tăng khi TURNOVER
tăng đến mức tối đa -29.9% ở quốc gia có TURNOVER tương đương 1. Vì vậy kết quả IT
trong mẫu đầy đủ phụ thuộc vào mức độ CBI. Kết quả này là một bằng chứng, tuy nhiên
13 Thực tế, khi TURNOVER = 0, ảnh hưởng của IT là tích cực và gần như ở mức 10%.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 12


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

chỉ khi ta sử dụng TURNOVER để ước lượng CBI. Chúng tôi sẽ giải thích ngắn gọn tại
sao trong trường hợp này lại như vậy.
Ở các quốc gia phát triển, IT có kết quả không đáng kể cho tất cả các giá trị của LEGAL ở
cột (3) và TURNOVER ở cột (4). Ở các nền kinh tế mới nổi trong phương trình (5), IT tác
động không đáng kể lên bất kỳ giá trị nào của LEGAL. Hơn nữa hệ số IT*LEGAL là
khôpng đáng kể , hàm ý rằng tất cả đểu bằng như vậy, tính độc lập của pháp lý khơng làm

thay đổi tác động của IT lên lạm phát. Tuy nhiên, kết quả phương trình (6) hàm ý rằng kết
quả IT khác bởi 57% các quốc gia có mức TURNOVER cao nhất tương đối với mức thấp
nhất, kể cả bằng ( chúng tôi bàn luận những hệ số lớn và những giá trị ngoại lai trong mục
3.1). Cụ thể, kết quả IT là một tích cực đáng kể ở mức 10% khi TURNOVER thấp hơn
hoặc bằng 0.06 ( 4 quốc gia và 11 quan sát). Ngược lại, kết quả tiêu cực đáng kể ở mức
10% khi TURNOVER lớn hơn hay bằng 0.26 ( 25 quốc gia và 114 quan sát), mức trung
bình cho nền kinh tế mới nổi. Những quan sát với TURNOVER từ 0.06 đến 0.26( 34 quốc
gia và 175 quan sát), IT có tác động khơng đáng kể. Điều này miêu tả trong Hình 1, trình
bày kết quả biên của IT về lạm phát ở nền kinh tế mới nổi cho những giá trị khác nhau của
TURNOVER và độ tin cậy 90%.
Tóm lại, kết quả phương trình (6) hàm y rằng IT khơng có kết quả đáng kể khi
TURNOVER < 0.26 nhưng lại đóng vai trị quan trọng trong giảm lạm phát tương đối với
các chính sách tiền tệ khác cho lượng lớn các nền kinh tế mới nổi có TURNOVER > 0.26.
Khi TURNOVER = 0.26, kích thước tác động về dự đoán ảnh hưởng của lạm phát là
-4.6%. kết quả này sẽ tăng khi TURNOVER tăng đến cực đại, tăng đến 46.6 % điểm khi
TURNOVER tương đương 1.
Cuối cùng hệ số LEGAL, tự thân nó là khơng đáng kể ở cả 3 mẫu. Hệ số TURNOVER tự
thân nó có tích cực đáng kể trong mẫu đầy đủ ở các nền kinh tế mới nổi, hàm ý CBI thấp
liên quan đến lạm phát cao. Tuy nhiên chú y rằng, trong các mẫu đầy đủ ở các nền kinh tế
mới nổi hệ số TURNOVER và IT*TURNOVER bằng về độ lớn nhưng ngược dấu. Điều
này chỉ ra IT có thể trung hịa ảnh hưởng của CBI thấp lên lạm phát.
Như đã đề cập ở trên, tác giả tìm thấy bằng chứng IT làm giảm lạm phát một cách tương
đối so với các yếu tố khác trong mẫu đầy đủ khi chúng ta sử dụng TURNOVER như 1 biến
CBI, nhưng không đúng khi sử dụng LEGAL. LEGAL khơng có ảnh hưởng đối với các
nước phát triển, dường như là không được hưởng lợi từ IT. Nó cũng khơng có tác dụng đối
với các nền kinh tế mới nổi, mặc dù các nền kinh tế này được hưởng lợi từ IT, có lẽ
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 13



Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

LEGAL đo lường tính độc lập ít chính xác hơn ở các nền kinh tế mới nổi (Cukierman, et
al., 1992). Trong khi đó, TURNOVER có tác động mạnh mẽ lên các nền kinh tế mới nổi
nhưng khi thống kê trên tồn mẫu thì tác động này có vẻ yếu và nhỏ hơn( mặc dù vẫn có ý
nghĩa). Sự suy giảm về độ lớn và ý nghĩa trên tồn mẫu có thể được giải thích bởi trên thực
tế một số nước phát triển có tỷ lệ doanh thu cao hơn so với các nước đang phát triển,
nhưng vẫn khơng chịu những tác động có lợi của IT. Cukierman, et al. (1992) lập luận rằng
việc đo lường nàychỉ dẫn tác động của CBI thì ít hơn so với đo lường của LEGAL lên các
nước phát triển. Trên toàn mẫu, hiệu quả của TURNOVER, mặc dù yếu hơn, nhưng vẫn
đáng kể. Lý do là các nước tiên tiến có tỷ lệ doanh thu trung bình thấp hơn và nhỏ hơn tác
động của tác động của IT lên các nền kinh tế mới nổi, trong khi đó các nền kinh tế mới nổi
với tỷ lệ doanh thu cao làm giảm lạm phát hơn so với các nước có tỷ lệ doanh thu thấp.14
Bảng 7 trình bày kết quả từ việc ước tính phương trình (1) với biến động lạm phát như là
một biến phụ thuộc. Bất kể giá trị của LEGAL hoặc TURNOVER, tác động của IT khơng
đáng kể trong tồn mẫu và các nền kinh tế mới nổi. Tuy nhiên đối với các nền kinh tế phát
triển, ITlàm tăng đáng kể biến động của lạm phát đối với LEGAL lớn hơn hoặc bằng 0.51
(hơi cao hơn giá trị trung bình 0.42)(CBI cao). Dự đốn ảnh hưởng biến động của lạm phát
có phạm vi từ 0.9%(LEGAL= 0.51) tới 3.7(LEGAL= 1.00). Vì vậy IT với CBI cao trong các
nền kinh tế phát triển dẫn đến sự gia tăng đáng kể biến động của lạm phát so với các nước
có CBI thấp. Khơng có tác động ở các nền kinh tế phát triển với tất cả giá trị của
TURNOVER.
Bảng 8 trình bày kết quả việc ước tính phương trình với tốc độ tăng trưởng trung bình
được xem như biến phụ thuộc. Với toàn mẫu, IT liên quan đến việc tăng trưởng thấp hơn
với các nước có CBI thấp khi chúng ta sử dụng TURNOVER để đo lường CBI. Cụ thể, IT
không tác động lên tất cả các giá trị của LEGAL nhưng lại có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể
khi TURNOVER lớn hơn 0.21. Ở các nền kinh tế phát triển, IT tác động đáng kể và tích cực

khi LEGAL giữa 0.22 và 0.46, với sự gia tăng tốc độ tăng trưởng từ 1.5 đến 1.0%. Tác
động không đáng kể cho tất cả các giá trị của TURNOVER. Đối với các nền kinh tế mới nổi,
tác động của IT thì đáng kể lên tất cả các giá trị của LEGAL. Tuy nhiên, có tác động tiêu
cực đối với TURNOVER lớn hơn hoặc bằng 0.13. tác động này giao động khoảng từ -0.9%
khi TURNOVER bằng 0.13 đến -4.3% khi TURNOVER bằng 1. Vì vậy một số lượng lớn các
nền kinh tế tiên tiến có CBI thấp thì có tốc độ tăng trưởng cao hơn từ tác động của IT so
14 Lời giải thích này tương tự như một nghiên cứu trong Cukierman, et al. (1992) về lý do tại sao doanh thu góp phần đáng kể trong việc giải thích
lạm phát trung bình ở các nước đang phát triển và trong tồn mẫu, mặc dù nó o có ý nghĩa đối với các nước cơng nghiệp.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 14


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

với các nền kinh tế khác, trong khi đó các nền kinh tế mới nổi với CBI thấp thì tốc độ tăng
trưởng cũng thấp hơn. Lưu ý rằng sự so sánh giữa các nghiên cứu khác nhau về lạm phát
giả cao thì dễ hơn việc ước tính các giá trị biến đi theo bởi vì lạm phát cao có thể tác động
đến tăng trưởng thực tế.
Bảng 9 trình bày việc ước tính phương trình với sự biến động tăng trưởng như là một biến
phụ thuộc. Với tồn mẫu, IT có ảnh hưởng ít nhưng tác động tiêu cực đối với giá trị
TURNOVER thấp. Với các nền kinh tế tiên tiến, IT ảnh hưởng ít nhưng tác động tích cực
đối với các giá trị trung gian của LEGAL. Đối với các nền kinh tế mới nổi, thì khơng ảnh
hưởng lên LEGAL hay TURNOVER.
3.1 Chi tiết lạm phát trong nền kinh tế mới nổi

Các hệ số lớn như IT, TURNOVER, và IT*TURNOVER trong cột 6 bảng 6 chỉ dẫn rằng các

quan sát lạm phát cao có thể ảnh hưởng đến việc dẫn dắt các kết quả, bao gồm chỉ số lạm
phát giả cao. Theo đó chúng tôi giới hạn sự chú ý đến TURNOVER như là một cách đo
lường CBI, qua việc thảo luận chúng tơi tìm thấy khơng có bằng chứng nào chứng tỏ IT
ảnh hưởng đến lạm phát khi sử dụng LEGAL, với việc không chắc chắn khi phản ảnh CBI
trong các nền kinh tế mới nổi. Trong bảng 10, chúng tôi đưa ra kết quả với việc bỏ qua các
quan sát lạm phát lớn hơn 100% hoặc 40%. Việc bỏ qua lạm phát khi lớn hơn 100%(40%)
kết quả là chúng tôi đã bỏ qua khoảng 23(56) các quan sát. Kết quả là có ít các tác động
ảnh hưởng hơn trong các báo cáo này trong bảng 5 và 6. Đặc biệt trong cột 1 với khoanh
vùnggiá trị lạm phát ít hơn 100%, thì ảnh hưởng của hệ số IT* TURNOVER là khơng đáng
kể, mặc dù chúng tơi vẫn tìm ra rằng tác động tổng thể của IT là tiêu cực và có tác động
đáng kể đối với TURNOVER khi lớn hơn hoặc bằng 0.25.Dự đoán ảnh hưởng của lạm phát
khi TURNOVER bằng 0.25 là -1.4 %.Ảnh hưởng này tăng khi TURNOVER bằng 1 và tăng
tối đa 8.6%.
Khi chúng tôi khoanh vùng các giá trị lạm phát ít hơn 40% ở cột 2, hệ số ảnh hưởng
IT*TURNOVER có tác động tiêu cực nhưng khơng đáng kể. Hơn nữa, ảnh hưởng của IT thì
nhỏ và không đáng kể đối với tất cả các giá trị của TURNOVER. Điều này cho thấy rằng
việc quan sát các trường hợp lạm phát cao thì có ảnh hưởng đến các kết quả. Khơng có gì
đáng ngạc nhiên khi chúng ta tìm thấy trong hồi quy chuẩn IT có ảnh hưởng lớn đối với
các quốc gia có CBI thấp thì có tỷ lệ lạm phát cao hơn so với trước khi IT được thơng
qua.Các thảo luận sau đó chỉ ra rằng các tỷ lệ lạm phát cao hầu như là kết quả của các thâm

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 15


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang


hụt tài chính tiền tệ, với môi trường CBI thấp. Loại trừ các mẫu quan sát đã bị loại bỏ
trước đó thì IT có hiệu quả nhất.

3.2 Tính bền vững của các thử nghiệm

Chúng tôi tiến hành một vài thử nghiệm để kiểm tra tính bền vững của các kết quả nghiên
cứu. Ở bảng 6-10 chúng tôi xem IT như là giá trị được định trước. Tuy nhiên có mối quan
hệ nhân quả đảo ngược từ nền kinh tế vĩ mô yếu như là lạm phát cao thơng qua IT. Ngồi
ra, việc một biến bị bỏ qua có thể ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của kinh tế vĩ mô và
IT. Tương tự, hiệu suất hoạt động của kinh tế vĩ mô có thể thay đổi CBI, hoặc biến bị bỏ
qua có thể dẫn dắt cả CBI và hiệu quả hoạt động kinh tế vĩ mơ. Tính bền vững của thử
nghiệm đầu tiên, chúng tơi ước tính lại mơ hình nghiên cứu IT và các vấn đề nội tại của cả
IT và CBI. Các bảng được lập theo yêu cầu. Đối với lạm phát trung bình, kết quả gần giống
như bảng 6.Đối với sự biến động của lạm phát, sự khác biệt duy nhất đối với các nền kinh
tế phát triển, IT khơng có ảnh hưởng bất kể giá trị của LEGAL. Đối với tốc độ tăng trưởng
trung bình, kết quả khác về mặt IT có tác động một cách tiêu cực lên giá trị LEGAL thấp.
Đối với biến động tốc độ tăng trưởng, các kết quả hầu như giống hệt nhau. Như vậy, đối
với hầu hết các phần, kết quả tương tự đối với các yếu tố nội tại của IT hoặc của cả IT và
CBI.
Thứ hai, việc lạm phát giảm và TURNOVER có mối tương quan tích cực. Mặc dù chúng ta
đã tính việc giảm lạm phát như là một biến hồi quy, chúng ta bỏ qua thời gian tương tác
của khoản IT*INFLt-1 trong hồi quy chuẩn. Điều này có thể gây ra một sự thiên vị trong
việcgiảm ước tính hệ số ảnh hưởng IT* TURNOVER, kể từ khi xem ITcó thể có nhiều tác
động hơn trong việc lạm phát giảm khi tỷ lệ giảm phát đang ở mức cao (ví dụ hệ số ảnh
hưởng IT*INFLt-1 là tiêu cực). Trước đó chúng tơi cũng đã tính IT*INFLt-1 như là một
biến hồi quy bổ sung. Kết quả là trong hồi quy lạm phát không thay đổi.
Thứ ba, chúng tôi thay thế vic chn IT t nhng ngy bt u t Gonỗalves và
Salles(2008), hơi khác so với chọn từ Batini và Laxton (2007) những người đã phân loại
các quốc gia đã chọn IT sau tất cả các yếu tố phụ thuộc của các mục đích khác so với lạm
phát mục tiêu(Mishkin, 2000). Các kết quảhầu như giống hệt nhau. Cuối cùng chúng tơi

tìm thấy các kết quả tương tự khi loại trừ các biến giả đối với lạm phát cao.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 16


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

4. Các vấn đề liên quan cần trao đổi thêm

Trong phần này chúng tơi điều tra thơng qua các kênh, qua đó cho thấy CBI tăng trưởng
thấp ở các nền kinh tế mới nổi làm tăng tính hiệu quả mục tiêu lạm phát liên quan đến các
chế độ tiền tệ khác. Cũng trong phần này chúng tôi chỉ chú ý đến mức lạm phát trung bình.
Chúng tôi cho rằng CBI tăng trưởng thấp còn bao hàm một số yếu tố làm cho chính sách
tiền tệ hiệu quả hơn đang bị bỏ qua. Bởi vì sự chấp nhận mức lạm phát mục tiêu có thể
thúc đẩy sự phát triển của một số yếu tố (Batini và Laxton, năm 2007, Friedman và ÖtkerRobe, 2009; Mishkin, 1999), Có nhiều cách cải thiện trong môi trường CBI thấp. Vì mục
tiêu lạm phát có thể có tác động lớn hơn khi CBI được cho là thấp như là một kết quả của
việc nổ lực cải thiện.15
4.1 Tác động ngược trở lại của IT đối với CBI thấp

Trước tiên, mục tiêu lạm phát có thể thúc đẩy CBI tự nó tăng lên. Đặc biệt, bằng cách nhấn
mạnh khả năng kiểm soát lạm phát của ngân hàng trung ương trong dài hạn và nó khơng có
khả năng tác đợng đến sự phát triển lâu dài, IT có thể làm giảm áp lực chính trị trên các
ngân hàng trung ương theo đuổi chính sách mở rộng (Mishkin, 1999). Như vậy, IT có thể
làm giảm sự ln chủn vớn của thống đốc ngân hàng trung ương. Tương tự như vậy,
quyền tự chủ được quy định trong một số trường hợp đã được cấp đồng thời với việc chấp
nhận IT (Batini và Laxton, 2007). Ví dụ, nhiều nước thực hiện mục tiêu lạm phát đã thông

qua các nguyên tắc cho ngân hàng trung ương có thẩm quyền để thiết lập lãi suất
(Freedman, và Ötker-Robe, 2010). Giả định rằng phạm vi cải thiện CBI lớn hơn khi CBI
ban đầu thấp, CBI thấp có thể cho phép IT có tác động lớn hơn trong việc thực hiện chính
sách tiền tệ.
Trong thực tế, theo báo cáo số liệu thống kê tóm tắt trong bảng 3, doanh thu trung bình
giảm từ 0,47 tới 0,39 ở những nước có CBI thấp thông qua mục tiêu lạm phát, trong khi đó
phần lớn là khơng thay đổi ở các nước khác. Phương pháp hồi quy của chúng tôi đã kiểm

15 Hầu hết các kênh tác giả xem xét ở đây có thể được trực tiếp bị ảnh hưởng bởi việc áp dụng IT và mức độ của CBI. Lưu ý, tuy nhiên, một kênh
không được trực tiếp bị ảnh hưởng bởi IT. Ví dụ, nếu CBI ảnh hưởng đến biến X, đó là khơng bị ảnh hưởng bởi IT trực tiếp nhưng làm cho IT hiệu
quả hơn trong việc giảm lạm phát, sau đó X là vẫn cịn là một kênh thơng qua đó CBI làm thay đổi IT là hiệu quả. Ngược lại, nếu IT làm giảm lạm
phát thông qua biến Y nhưng CBI có khơng có hiệu lực trên Y, sau đó trong khi Y là 1 kênh thơng qua đó CNTT làm giảm lạm phát, nó là khơng một
kênh thơng qua CBI ơn hịa của CNTT hiệu quả, là trọng tâm của bài báo này.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 17


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

chứng các kênh này kể từ khi chúng cho tương tác IT * CBI. Tuy nhiên, chúng ta không
tách biệt hiệu ứng các kênh này để xác định cường độ của nó.

4.2 Tương quan giữa mục tiêu lạm phát thấp và nguyên tắc tài chính

Liên quan đến CBI, nguyên tắc tài chính cũng góp phần quan trọng vào độ tin cậy của
khung chính sách tiền tệ bằng cách giảm nhu cầu tài trợ thâm hụt ngân sách thông qua việc

tạo ra tiền. Một lần nữa, IT có thể có lợi ích trong lĩnh vực này là tốt như việc hỗ trợ cho
khả năng ổn định tài chính bằng cách làm nổi bật sự không đồng nhất của một mục tiêu
lạm phát thấp và thiếu nguyên tắc tài chính (IMF, 2006). Tương tự như vậy, liên quan đến
chính phủ trong việc thiết lập các tỷ lệ lạm phát có thể giúp hạn chế chính sách tài khóa
(Mishkin, 2000). Chỉ sớ CBI thấp cung cấp một mơi trường tài chính cơng có thể vượt ra
khỏi kiểm sốt vì nó dễ dàng hơn để dựa vào lưu hành tiền tệ. Một lần nữa, lợi ích của IT
là có nhiều ý nghĩa hơn khi CBI thấp. Các số liệu thống kê tóm tắt từ Bảng 3 hỗ trợ cho
tuyên bố này, kinh nghiệm của một số nước có CBI thấp có sự sụt giảm đáng kể trong thâm
hụt ngân sách của họ sau khi thông qua IT. Khi chúng tôi tính hồi quy về thâm hụt ngân
sách (% của GDP) của chính nó và tương tác với IT, các hệ số của IT * doanh thu trở nên
nhỏ hơn và không đáng kể (p-value = 0,34). Điều này cho thấy thâm hụt ngân sách thấp
hơn là thông qua kênh IT qua đó nó có khả năng tốt hơn để giảm lạm phát ở quốc gia có
CBI thấp.
4.3 Chính sách tỷ giá hối đối và lãi suất có ảnh hưởng đến sự độc lập của ngân hàng

trung ương đối với mục tiêu lạm phát hay không?
Trách nhiệm mở rộng đơ la hóa làm thay đổi việc truyền tải chính sách tiền tệ và tạo ra
những khó khăn trong việc triển khai IT (Mishkin, 2003). Đặc biệt, việc giảm lãi suất có
nghĩa là để kích thích tổng cầu có thể có tác dụng ngược lại nếu nó làm sụt giảm tỷ giá hối
đối. Cả hai IT và CBI có thể ảnh hưởng đến mức độ đơ la hóa vì tin rằng chính sách tiền
tệ có thể làm giảm nhu cầu vay bằng đơ la (IMF, 2006). Vì vậy, mức độ CBI thấp làm tăng
trách nhiệm đơ la hóa, có thể có nhiều cách để giảm đơ la hóa sau khi lựa chọn IT. Để nắm
bắt trách nhiệm đô la hóa, chúng tôi đã gửi ngoại tệ như một phần của tổng số tiền gửi
trong hệ thống ngân hàng trong nước. Hệ số tương quan giữa biến này và doanh thu là
0.14, cho thấy một liên kết giữa hai biến. Sự bao gồm của biến này và tương tác của nó với
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 18



Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

IT, tuy nhiên, không thay đổi kết quả, cho thấy rằng đây không phải là một kênh thơng qua
đó CBI ảnh hưởng đến hiệu suất IT.
Thị trường tài chính khơng đầy đủ ảnh hưởng đến sự thành công của IT bằng cách hạn chế
khả năng của ngân hàng trung ương ảnh hưởng đến lãi suất phải đối mặt với hộ gia đình và
các cơng ty (IMF, 2006). Vì lý do này, thơng qua IT trong một số trường hợp được đi kèm
với việc bảo đảm an toàn và giám sát chặt chẽ hệ thống tài chính. Trong phạm vi cải cách
tài chính xảy ra nhiều hơn ở quốc gia có IT, IT có thể thành công hơn so với các quốc gia
khác, đặc biệt là khi hệ thống tài chính ban đầu kém phát triển, Hơn nữa, CBI lớn hơn có
thể thúc đẩy phát triển hệ thống tài chính bằng cách kiểm soát lạm phát ở mức vừa phải và
ổn định. Chúng tôi dùng tỉ lệ doanh thu của các cổ phiếu thương mại (tương quan với
doanh thu = -0,13) và vốn hóa thị trường chứng khoán như là một phần của GDP (tương
quan với doanh thu = -0,17) để kiểm soát phát triển hệ thống tài chính. Một lần nữa, kết
quả khơng thay đổi, cho rằng điều này không phải là một kênh thơng qua đó CBI ảnh
hưởng đến hiệu suất IT .
4.4 Sự tín nhiệm của ngân hàng trung ương và kỳ vọng IT

CBI thấp có thể hàm ý sự tín nhiệm ngân hàng trung ương và kỳ vọng neo giữ lạm phát
yếu, điều này cho thấy IT có thể có một tác động lớn hơn (Bernanke et al, 1999;. Mishkin,
1999; Svensson năm 1997), trong khi đó nếu một ngân hàng trung ương đã có đủ độ tin
cậy, nó có thể không yêu cầu độ tin cậy bổ sung và neo các kỳ vọng lạm phát đi kèm với IT
(Ball, 2010, Goncalves và Salles, 2008). Một lần nữa, chúng tôi sẽ mong đợi để xem hiệu
ứng mạnh mẽ của IT ở các nước khơng có ngân hàng trung ương độc lập. Chúng tơi sử
dụng giảm phát cho sự tín nhiệm và kỳ vọng lạm phát. Vì vậy, để kiểm sốt cho các kênh
này, chúng tôi bao gồm * INFLt-1. Như đã đề cập tại mục 3.2, kết quả gần như giống hệt
nhau sau khi dùng biến này. Điều này cho thấy rằng đây không phải là một kênh thông qua
ảnh hưởng của CBI và hiệu suất IT, mặc dù giảm phát có thể là một biện pháp khơng hồn

hảo của sự tín nhiệm ngân hàng trung ương và kỳ vọng lạm phát.
4.5 Các vấn đề đặt ra khác

Có một số các kênh tiềm năng mà chúng ta không thể định lượng do thiếu dữ liệu. Lưu ý
rằng chúng ta phải chú ý cẩn thận để xem CBI trong thực tế có một ảnh hưởng quan hệ
nhân quả trên các biến này để CBI ảnh hưởng đến hiệu suất IT thông qua các kênh cụ thể,
Trong trường hợp đó, khơng bao gồm các biến này từ hồi quy sẽ không bỏ qua sự biến
thiên thay đổi, chúng tôi không thể tách biệt định lượng của các kênh cụ thể. Ngược lại,
Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 19


Paper 6

Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

trong trường hợp CBI được tương quan với các biến này, khơng có gì là đặc biệt khi CBI
thấp. Nếu các biến này làm thay đổi hiệu quả IT, sau đó loại trừ của họ sẽ bỏ qua sự biến
thiên trong ước tính của chúng tơi IT*CBI.
Đầu tiên, có bằng chứng cho rằng IT đã được kết hợp với những cải tiến nhanh chóng
trong cơ sở hạ tầng kỹ thuật, trong đó đề cập đến khả năng của ngân hàng trung ương đưa
ra dự báo cũng như các dữ liệu sẵn có (Batini và Laxton, năm 2007).16 Một lần nữa, do IT
có thể có nhiều hiệu quả hơn khi cơ sở hạ tầng này không phải là nơi ban đầu. Có sự đánh
giá mức CBI thấp là tương quan với một cơ sở hạ tầng kỹ thuật yếu, chúng tôi sẽ mong đợi
để thực hiện một tác động lớn hơn của IT trong nước có CBI thấp, mặc dù khơng có kênh
quan hệ nhân quả có thể tồn tại. Thật khơng may, chúng tơi khơng có dữ liệu về cơ sở hạ
tầng kỹ thuật để kiểm soát sự tương quan này.
Thứ hai, IT đã được lập luận để thúc đẩy sự truyền đạt của ngân hàng trung ương, minh
bạch và trách nhiệm giải trình (Mishkin và Schmidt-Hebbel, năm 2001) và có thể có tác

động lớn hơn khi các yếu tố này bị bỏ sót. Chắc chắn CBI có thể được tương quan với các
đặc tính này. Một lần nữa, dữ liệu hạn chế ngăn cản chúng tơi kiểm sốt các mối tương
quan tiềm năng. Tuy nhiên, một lập luận cho rằng CBI thấp có thể làm suy yếu những yếu
tố này, đặc biệt là trách nhiệm và có thể trong thực tế một kênh quan hệ nhân quả từ CBI
thấp để cải thiện IT hiệu quả.
Cuối cùng, có một số điều kiện kinh tế đã được lập luận để ảnh hưởng đến sự thành công
của IT (Batini và Laxton, 2007). Chúng bao gồm mức độ mở cửa thương mại, giá cả được
điều tiết và độ nhạy của giá cả hàng hóa và tỷ giá hối đối thấp (IMF, 2006). Nghe khơng
hay lắm, tuy nhiên, IT có thể tác động tới các biến. Nó cũng khơng cho rằng CBI có thể có
nhiều tác động như thế. Tuy nhiên, nếu CBI có tương quan với các yếu tố này, chúng ta có
thể nhầm lẫn quy ảnh hưởng của họ kiểm duyệt về hiệu quả của IT đến CBI. Chúng tơi đã
có thể có được dữ liệu theo mức độ mở cửa thương mại (hệ số tương quan đơn giản giữa
thương mại/GDP và doanh thu là -0,09). Khi chúng ta kiểm soát thương mại hay GDP và
tương tác của nó với IT, chúng ta tìm thấy kết quả rất giống nhau, cho thấy CBI không phải
là sự lựa chọn cho những tác động mở cửa thương mại.
5. Kết luận

Mục tiêu đầu tiên của tác giả trong bài nghiên cứu này là để mở rộng việc phân tích những
lợi ích của IT. Những nghiên cứu gần đây có xu hướng tìm thêm bằng chứng đới với các
16

Ví dụ, ngân hàng trung ương phải có khả năng dự báo và mơ hình lạm phát.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 20


Paper 6


Giảng viên: PGS.TS Nguyễn Thị Ngọc Trang

nước mới nổi hơn so với các nền kinh tế phát triển mà ở đó IT làm giảm lạm phát, mặc dù
các kết quả không phải là kết luận. Tác giả thêm vào thực nghiệm bằng cách phân tích vai
trị của CBI khuếch đại ảnh hưởng của IT trong nền kinh tế mới nổi. Về lý thuyết, hiệu quả
của CBI là mơ hồ. CBI thấp có thể tăng cường tác động của IT như là một kết quả của tác
dụng cải thiện, tức là IT có thể mang lại thay đổi tài chính hoặc tổ chức trong các nước
CBI thấp, trong đó cải thiện điều kiện kinh tế vĩ mô một cách đáng kể. Tuy nhiên, nếu CBI
chính nó là một điều kiện tiên quyết cho thành công hoặc thúc đẩy các điều kiện tiên quyết
khác, sau đó CBI thấp nên kiềm chế tác động có lợi của IT. Tác giả tìm thấy lợi ích lớn
hơn của IT trong các nước CBI thấp nhưng khơng có tác dụng đáng kể trong các quốc gia
CBI cao, cho thấy tác dụng cải thiện là quan trọng hơn. Kết quả của tác giả cũng cung cấp
một lời giải thích cho tác động phần nào của IT được tìm thấy trong các nghiên cứu trước
đó
khơng
phân
biệt
tác
động
của
IT
dựa
trên
CBI.
Thứ hai, tác giả cố gắng nhận diện các kênh thông qua IT làm giảm lạm phát ở các nước
CBI thấp. Tác giả tìm thấy bằng chứng rằng IT có hiệu quả bằng cách thúc đẩy khn khở
tài chính và tự tăng cường CBI, các khu vực nơi có chỗ cho cải thiện trong các quốc gia
CBI thấp.
IV. BÌNH LUẬN CỦA NHĨM


Nghiên cứu này đã phân tích nhiều khía cạnh của vấn đề của một quốc gia nên có CBI cao
hay thấp, cho chúng ta một cái nhìn tổng quan về tác động của nó đối với mục tiêu lạm
phát cũng như sự tăng trưởng kinh tế của một quốc gia khi công bố mục tiêu lạm phát. Mặc
dù không đưa ra một kết luận chắc chắn nào nhưng tác giả cũng đã đưa ra những thực
nghiệm hết sức thuyết phục đi kèm với việc phân tích mơ hình hồi quy đã khẳng định
hướng nghiên cứu này là hoàn toàn thuyết phục. Bên cạnh đó, nhiều vấn đề liên quan đã
được đưa ra xem xét thêm để gợi mở cho những nghiên cứu tiếp sau đó một mặt để đóng
góp thêm, một mặt để phản biện và đặt ra những câu hỏi để giúp trả lời cho những thực
nghiệm của riêng tác giả.

Nhóm 08 – Đêm 1 TCDN K20

Trang 21



×