Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Thực trạng chất lượng thể chế Việt Nam: thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.72 KB, 37 trang )

Đề bài: Thực trạng chất lượng thể chế Việt Nam: thực trạng và giải pháp.
Lời mở đầu:
Địa lý không giải thích được sự giàu có, văn hóa là quan trọng nhưng cũng khơng
thể giải thích được sự giàu có. Vậy để đánh giá được một nước có thành cơng hay thất bại
ra sao, mức độ giàu nghèo như thế nào thì một trong những vấn đề chúng ta thường xem
xét đến đó là các thể chế, và các quy tắc khác nhau đã tác động như thế nào đến sự vận
hành của nền kinh tế ở một quốc gia. Sự hịa hợp giữa thể chế chính trị và kinh tế là mốc
quan trọng đánh dấu phát triển bền vững của một quốc gia.
Chính vì vậy mà chất lượng của thế chế xấu hay tốt, tác động tiêu cực hay tích cực
sẽ là một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến nền kinh tế của một quốc gia và
các động cơ của dân chúng một cách không giống nhau. Sự khác biệt về chất lượng thể
chế cuối cùng sẽ dẫn đến sự khác biệt về thành quả của sự phát triển. Tất cả các quốc gia
trên thế giới đều rất chú trọng đến chất lượng thể chế và mỗi một quốc gia lại có một thế
chế riêng phù hợp với đặc điểm của quốc gia đó. Nhất là các quốc gia đang trong quá
trình phát triển như Việt Nam thì càng cần phải chú trọng, ưu tiên hơn nữa về vấn đề thể
chế để từ một quốc gia đang phát triển sẽ vươn lên thành một quốc gia phát triển.
Vậy Việt Nam đã chú trọng đến chất lượng thế chế thế nào? Tuy rằng nền kinh tế
cũng cho thấy có sự khởi sắc nhưng tốc độ quá chậm hơn so với các quốc gia láng giềng.
Chúng ta cần biết được thực trạng chất lượng thể chế Việt Nam để rồi từ đó đánh giá
được những điểm mạnh, điểm yếu và đưa ra các giải pháp phù hợp để đưa nền kinh tế của
nước ta phát triển với tốc độ nhanh hơn nữa sánh kịp với các quốc gia trong cùng khu vực
và trên thế giới. Và sau đây chúng tơi sẽ trình bày chi tiết về chủ đề: “Thực trạng chất
lượng thể chế Việt Nam: thực trạng và giải pháp”.


I, Cơ sở lý thuyết:
1, Thể chế là gì?
- Thể chế là một khái niệm rộng, được định nghĩa bao qt, đơi khi hơi mơ hồ
gồm những luật chơi chính thức hoặc phi chính thức định hình nên phương thức ứng xử
của con người.
- Theo Veblen (1914) (cha đẻ của Kinh tế học thể chế cũ) thể chế là tính quy


chuẩn của hành vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong những tình huống
cụ thể, được các thành viên của một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự
tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự kiểm sốt hoặc do quyền lực bên
ngồi khống chế.
- Theo Douglass North, Thể chế (Institution) được định nghĩa là các ràng buộcdo
con người tạo ra nhằm để cấu trúc các tương tác giữa người với người.
- Từ điển Việt Nam (Hoàng Phê) là những quy định, luật lệ của một xã hội buộc
mọi người phải tuân theo.
=> Như vậy: thể chế là những quy tắc tương tác của con người, ràng buộc cách ứng
xử khả dĩ cơ hội chủ nghĩa và thất thường của cá nhân, qua đó khiến cho hành vi con
người trở nên dễ tiên đốn hơn và tạo điều kiện cho sự phân cơng lao động cùng hoạt
động tạo ra của cải vật chất
2, Chất lượng của thế chế là gì? Đánh giá chất lượng thể chế là gì?
- Chất lượng thể chế phản ánh trình độ chính trị, bản chất chính trị của quốc gia và
đó cũng là cơ sở để xã hội quyết định lựa chọn hoặc không lựa chọn nhà cầm quyền.
- Đánh giá chất lượng thể chế là một quá trình kiểm tra, đánh giá một hệ thống thể
chế để tìm ra các điểm phù hợp hay khơng phù hợp của một hệ thống thể chế trong một tổ
chức, một quốc gia. Kết quả đánh giá là các thông tin, đầu vào quan trọng cho việc cải


tiến chất lượng của thể chế. Việc đánh giá chất lượng của thể chế có thể được tiến hành
bởi một đoàn đánh giá nội bộ hoặc tổ chức đánh giá độc lập.
3, Chất lượng của thể chế biểu hiện trên các lĩnh vực nào?
- Chất lượng của thể chế được biểu hiện trong 4 lĩnh vực:
+ Tham nhũng: được hiểu là việc lạm dụng quyền lực và tài sản công cho lợi ích
riêng.
Vì có sự tham nhũng đã đẩy chi phí giao dịch tăng lên, sự bất định hoạt động kinh
doanh, giảm thu nhập chính phủ, phân bổ nguồn lực kém hiệu quả, phân bổ sai lệch tài
năng.
+ Chất lượng bộ máy hành chính: -hạ tầng kỹ thuật cơng cộng, các dịch vụ cơng và

thủ tục hành chính.
Chất lượng bộ máy hành chính cơng có liên hệ chặt chẽ với mức độ tham nhũng.
Bộ máy hành chính cơng kém hiệu quả ảnh hưởng đến tăng trưởng và phát triển.
+ Tuân thủ pháp luật: là mức độ của người dân của một nước sẵn sàng chấp nhận
các thể chế hiện hành đểđiều chỉnh hành vi và giải quyết tranh chấp.
-> Để có thể mức tuân thủ cao cần có một hệ thống tư pháp mạnh, hữu hiệu và
tương đối sạch.
+ Bảo vệ quyền tài sản:quyền tài sản được cho là quan trọng đối với tăng trưởng
quyền tài sản tác động đến chi phí giao dịch, cấu trúc quyền tài sản có thể dẫn đến phân
bổ nguồn lực khơng hiệu quả.
4,Vai trị của thể chế với phát triển kinh tế:
- Phát triển kinh tế là q trình tăng tiến, tồn diện về mọi mặt kinh tế, chính trị, xã
hội của một quốc gia. Chất lượng thể chế quyết định đến tăng trưởng GDP, chất lượng thể
chế càng cao thì tăng trưởng GDP cũng cao.Với các chức năng vốn có, thể chế hiệu quả


có vai trị to lớn trong phát triển kinh tế ở các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển
với những hạn chế xuất phát từ sự yếu kém về cơ sởhạ tầng, tính hiệu năng của quản lý
nhà nước và sự ràng buộc bởi những rào cản xã hội.
- Thể chế hiệu quả làm giảm chi phí giao dịch, xây dựng được niềm tin trong các
giao dịch. Về khía cạnh này, thể chế giúp giảm các chi phí không cần thiết trong các giao
dịch mua, bán, trao đổi. Nói cách khác, thể chế hiệu quả giúp tăng hiệu quả kinh tế của
các giao dịch nhờ tiết kiệm chi phí.
- Thể chế hiệu quả bảo vệ hữu hiệu phạm vi tự chủ cá nhân. Cụ thể là, các quyền cá
nhân về tài sản, tính tự chủ được bảo đảm là một cơ sở để các nguồn lực được huy động
vào quá trình tăng trưởng tạo ra thu nhập.
- Các tranh chấp, xung đột được giải quyết tốt hơn nhờ thể chế hiệu quả. Sẽ không
thể tránh khỏi trường hợp các giao dịch hoặc thậm chí các giao tiếp thơng thường có
xung đột nhưng các xung đột này có thểđược giải quyết nhờ các hình thức chế tài được
quy định chính thức/khơng chính thức. Khi các chủ thể cùng ý thức được hành động nào

được khuyến khích hoặc khơng đồng thời nhận thức được hình phạt của sử khơng tn
thủ sẽ khiến quá trình hoạt động, hợp tác trởnên linh hoạt, trơn tru.
-> Như vậy, thể chế hiệu quả giúp tiết kiệm chi phí cho tăng trưởng kinh tế, giúp
thơng tin được truyền tải tốt hơn nhờviệc dễ nhận biết và được phổ cập, và nhờ đó q
trình phân cơng lao động diễn ra hiệu quả hơn. Thêm vào đó, các nguồn lực sẽ phân bổ
nhờ các tín hiệu thị trường và được tái phân bổtốt hơn (nhà nước).
5, Các bộ chỉ số để đo lường chất lượng thể chế là gì?
Để đo lường chất lượng thể chế một cách chính xác nhất thì người ta dùng 7 bộ chỉ
số để đo lường:
5.1. Chỉ số chất lượng thể chế IQ
- Chỉ số để đánh giá chất lượng thể chế ở một số nước đặc biệt là so sánh châu Âu,
châu Phi, Nam Á.


- Là mức độ trung bình của 5 chỉ số: trách nhiệm giải trình, hiệu lực của chính phủ,
chất lượng luật lệ, nhà nước pháp quyền, kiểm soát tham nhũng ngồi ra cịn thơng qua
chỉ số sự ổn định về chính trị.
5.2.Chỉ số cạnh tranh tồn cầu (GCI)
- Theo WEF: Năng lực cạnh tranh là một tập hợp các yếu tố về thể chế, chính sách
và các nhân tố quyết định năng suất của một quốc gia, trên cơ sở tiến bộ về năng suất sẽ
xác lập mức độ thịnh vượng mà một nền kinh tế có thể đạt được. WEF đo lường chỉ số
năng lực cạnh tranh toàn cầu trên cơ sở tính bình qn gia quyền của các chỉ số thành
phần khác nhau.
- GCI gồm 12 trụ cột được xếp vào 3 nhóm:
+ Nhóm 1: Nhóm chỉ số về các yêu cầu cơ bản ( thể chế 25%, cơ sở hạ tầng 25%,
ổn định kinh tế vĩ mô 25%, y tế và giáo dục tiểu học 25%)
+ Nhóm 2: Nhóm chỉ số nâng cao hiệu quả ( đào tạo giáo dục ở bậc cao hơn 17%,
hiệu quả của thị trường hàng hóa 17%, hiệu quả của thị trường lao động 17%, sự phát
triển của thị trường tài chính 17%, công nghệ tiên tiến 17%, quy mô thị trường 17%)
+ Nhóm 3: Nhóm chỉ số về sự đổi mới và sự phát triển của nhân tố ( sự phát triển

của hệ thống kinh doanh 50%, đổi mới công nghệ 50%)
5.3. Chỉ số tự do kinh tế IEF
- Chỉ số tự do kinh tế dùng để đo lường chính sách tự do kinh doanh ở các quốc gia
trên thế giới.
- Chỉ số cho điểm dựa trên 10 yếu tố tổng quát sau đây về tự do kinh tế:
+ Tự do buôn bán.
+ Tự do thương mại.
+ Tự do tiền tệ.


+ Độ lớn của nhà nước.
+ Tự do công khố.
+ Quyền tư hữu.
+ Tự do đầu tư.
+ Tự do tài chánh.
+ Tự do không bị tham nhũng.
+ Tự do lao động.
5.4.Chỉ số thuận lợi kinh doanh (EDBI)
- Là chỉ số được đề ra bởi ngân hàng thế giới WB. Thứ hạng cao chỉ ra rằng các quy
tắc cho kinh doanh tốt hơn, đơn giản hơn và bảo vệ quyền sở hữu mạnh hơn.
- Dựa trên 10 chỉ số:
+ Khởi sự doanh nghiệp.
+ Đăng ký giấy phép kinh doanh.
+ Chi phí th cơng nhân và tình trạng khan hiếm lao động.
+ Đăng ký quyền sở hữu.
+ Mức khấu trừ tín dụng.
+ Mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.
+ Gánh nặng thuế phải trả.
+ Hoạt động thương mại dọc và xuyên biên giới.
+ Mức thực thi các hợp đồng.

+ Chấm dứt kinh doanh.


5.5.Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI.
- Chỉ số đánh giá và xếp hạng chính quyền các tỉnh, thành của Việt Nam về chất
lượng điều hành kinh tế và xây dựng môi trường kinh doanh thuận lợi cho việc phát triển
doanh nghiệp dân doanh. Được công bố lần đầu vào năm 2005 với 42 tỉnh thành thành
phố trực thuộc Trung ương.
- PCI còn 9 chỉ số thành phần:
+ Chi phí gia nhập thị trường.
+ Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn định.
+ Môi trường kinh doanh công khai minh bạch, doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận
cơng bằng các thơng tin cần cho kinh doanh và các văn bản pháp luận cần thiết.
+ Chi phí khơng chính thức ở mức tối thiểu.
+ Thời gian doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính và thanh
tra kiểm tra hạn chế nhất.
+ Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong.
+ Dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, do khu vực nhà nước và tư nhân cung cấp.
+ Có chính sách đào tạo lao động tốt.
+ Hệ thống pháp luật và tư pháp để giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả.
5.6.Chỉ số cảm nhận tham nhũng CPI
- Là chỉ số được công bố hàng năm bởi tổ chức Minh bạch Quốc tế, chỉ số CPI xếp
hạng các quốc gia, vùng lãnh thổ trên cơ sở cảm nhận về tham nhũng.
CPI là chỉ số về tham nhũng được sử dụng rộng rãi nhất trên thế giới.
- CPI dựa trên các cuộc thăm dị thơng qua so sánh các vụ hối lộ được báo cáo, số
lượng các vụ truy tố, nghiên cứu các vụ xét xử ở tòa án liên quan trực tiếp. Nhưng không


phải là chỉ số chính xác thể hiện mức độ tham nhũng. Vậy xem xét cảm nhận về tham
nhũng của những người ở vị trí có thể đưa ra đánh giá về tham nhũng trong khu vực công

là phương pháp đáng tin cậy nhất để so sánh mức độ tham nhũng một cách tương đối
giữa các quốc gia.
5.7.Chỉ số cải cách hành chính
- Chỉ số PAR là cơng cụ quan trọng để theo dõi, đánh giá hoạt động cải cách hành
chính được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực, gồm: cải cách thể chế, cải cách tổ chức bộ
máy hành chính, đổi mới, cải cách hành chính cơng và hiện đại hóa nền hành chính.
- Chỉ số PAR sử dụng thang điểm 100 để đo lường mức độ hài lịng về cải cách
hành chính.
- Chỉ số PAR là cơng cụ quản lý mới trong triển khai Chương trình tổng thể cải cách
hành chính nhà nước giai đoạn 2011-2020.
- Đối với chỉ số PAR cấp bộ: trong 7 lĩnh vực, 31 tiêu chí và 89 tiêu chí thành phần.
- Đối với chỉ số PAR cấp tỉnh: trong 8 lĩnh vực, 8 chỉ số thành phần, 31 tiêu chí và
104 tiêu chí thành phần.
II. Thực trạng thể chế Việt Nam
1, Tham nhũng
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, chúng ta có được rất nhiều thuận lợi:
sự đồng tình, ủng hộ và tin tưởng của quần chúng nhân dân; sự chăm lo và định hướng
phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước; sự ủng hộ, giúp đỡ của quốc tế, nhưng đồng
thời chúng ta cũng gặp khơng ít những thách thức, khó khăn. Một trong những vấn đề
gây khó khăn và ảnh hưởng nghiêm trọng đến cơng cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam là tệ tham nhũng - quốc nạn của nước ta.
Điều 1 trong Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26-2-1998 ghi rõ: “Tham nhũng là
hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ và quyền hạn để


tham ô, hối lộ hoặc cố ý làm trái pháp luật vì động cơ vụ lợi, gây thiệt hại cho tài sản
Nhà nước, tập thể và cá nhân, xâm phạm hoạt động đúng đắn của các cơ quan, tổ chức.
Tham nhũng là vật cản lớn nhất của tiến trình phát triển xã hội, là nguy cơ trực tiếp liên
quan đến sự sống còn của Nhà nước”. Luật Phòng chống tham nhũng ở Việt Nam năm
2005 nêu rõ: “Tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức

vụ, quyền hạn đó để vụ lợi”. Cịn theo Tổ chức Minh bạch thế giới (Transparency
International), tham nhũng hay tham ô là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền
hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Mặc dù có nhiều định
nghĩa khác nhau về tham nhũng nhưng có thể hiểu là tham nhũng chủ yếu vẫn thông qua
các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, lộng hành, sách nhiễu gây khó khăn cho người
khác, dùng quyền lực để mưu lợi cá nhân, bao che cho hành vi vi phạm pháp luật, dùng
tiền thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực,…
Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự phát triển bền vững của
đất nước, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển làm cho kinh tế chậm phát triển,
thất thốt, lãng phí tài sản của dân, thiệt hại ngân sách, gây rối loạn nền kinh tế, gia tăng
khoảng cách giàu nghèo, tình trạng nghèo đói ngày càng trầm trọng. Hơn nữa, nó làm xói
mịn lịng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước, làm cho chế độ chính trị dần suy
yếu từ bên trong, tạo điều kiện cho các thế lực thù địch tấn công ta, dẫn đến sụp đổ nếu
không kịp thời chấn chỉnh.
Cụ thể hơn về vấn đề tham nhũng tại Việt Nam, chúng ta đi xét những phương diện
sau
Về quy mơ tình trạng tham nhũng
Ngày càng phức tạp và tinh vi hơn: tình hình tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm
trọng, với những biểu hiện vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều
lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, có những điểm giống và khác nhau so với tình hình
tham nhũng ở các nước khác, nhưng đặc điểm nổi bật là tính phổ biến.
Phạm vi, lĩnh vực tham gia ngày càng rộng,


Trước đây, tham nhũng chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, nhưng ngày nay
đã lan sang các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính
sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, phòng, chống dịch bệnh…
Tham nhũng xảy ra ngay trong các cơ quan bảo vệ pháp luật, là những cơ quan cầm
cân, nảy mực, đại diện cho công lý và công bằng xã hội, như công an, VKS, Tòa án...
Những trường hợp thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán tòa án nhận hối

lộ đã xuất hiện ở nhiều nơi. Khơng ít cán bộ, cơng chức và người dân coi việc hối lộ cho
công chức và việc công chức nhận hối lộ khi giải quyết cơng việc là chuyện bình thường.
Tình trạng tham nhũng “vặt” và tham nhũng “nhỏ, lẻ”, mà nhiều người gọi là “nhũng
nhiễu” hay “chi phí khơng chính thức” tuy thiệt hại khơng lớn, có khi chỉ vài chục nghìn
đồng mỗi vụ, nhưng diễn ra một cách tràn lan ở nhiều nơi, khiến người dân vô cùng bức
xúc.
Số người tham nhũng là cán bộ, cơng chức, viên chức có chức vụ thấp hoặc khơng
có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như nhân viên cảnh sát, thuế vụ, bác sỹ, y tá chiếm tỷ lệ
khá cao. Trong khi ở nhiều nước khác, người tham nhũng chủ yếu là các chính khách, các
quan chức và doanh nhân. Mấy năm gần đây đã xuất hiện một số vụ tham nhũng liên
quan đến yếu tố nước ngồi.
Tính tổ chức của các vụ án tham nhũng ngày càng rõ nét.
1.1. Mức độ của tình trạng tham nhũng
Thực trạng báo động ở nước ta hiện nay là tệ tham nhũng ngày càng trầm trọng, trở
nên phổ biến trong tất cả các lĩnh vực từ công an đến hải quan, từ tài nguyên môi trường
đến xây dựng, thuế, ngân hàng, y tế, giáo dục cho đến cả thanh tra, kiểm sát, tòa án,… Từ
lĩnh vực kinh tế cho đến cả chính trị với quy mơ các vụ án ngày càng lớn, tính chất ngày
càng nghiêm trọng, diễn biến phức tạp, thủ đoạn ngày càng tinh vi. Theo thống kê của Tổ
chức Minh bạch Thế giới về chỉ số tham nhũng của các nước trên thế giới qua các năm,
Việt Nam xếp hạng thứ 113/176 trong năm 2016


Năm

Điểm

Xếp hạng

2016


33/100

113/176

2015

31/100

112/168

2014

31/100

119/175

2013

31/100

116/177

2012

31/100

123/176

Trong xã hội ta hiện nay, việc “bôi trơn”, q cáp, đã trở thành một thói quen có
tính “quy luật” mà hầu như ai cũng ít nhất một lần nghĩ đến và thực hiện để được thiên

vị, ưu tiên, “thuận buồn xi gió”. Mặc dù Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn
bản về phòng, chống tham nhũng, nhưng cho đến nay vẫn chưa đẩy lùi được tham nhũng.
1.2. Một số lĩnh vực tham nhũng phổ biến hiện nay
1.2.1. Quản lí đất đai, tài ngun khống sản
 Dự án phát triển CSHT đô thị Bắc Thăng Long – Vân Trì ở Hà Nội
- Dự án tổ chức thực hiện chậm, kéo dài 5 năm không đảm bảo thời gian như cam
kết trong Hiệp định vay vốn ODA, phải điều chỉnh giảm nguồn vốn ODA, tăng vốn trong
nước và thời gian hoàn thành dự án, dẫn đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA không
cao. Trong khi nguồn vốn trong nước cịn khó khăn nhưng vẫn phải bổ sung bù vào phần
vốn ODA để tiếp tục thực hiện phần còn lại của Dự án do Hiệp định vay vốn ODA kết
thúc.

 Vụ tham nhũng về đất đai tại Đồ Sơn tại Quán Nam, thành phố Hải Phòng.
1.2.2. Tài chính ngân hàng


 Bà Huỳnh Thị Như, nguyên Trưởng phòng Giao dịch Điện Biên Phủ, Ngân hàng
Thương mại cổ phần Công thương Việt Nam chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh đã lừa
đảo chiếm đoạt tài sản, làm giả con dấu để tạo lập các chứng từ chiếm đoạt tổng số tiền
lên tới gần 4000 tỷ đông
1.2.3. Đầu tư xây dựng cơ bản
 Công ty tư vấn Giao thông Nhật Bản đã hối lộ các quan chức ngành đường sắt để
trúng thầu dự án ODA tại Việt Nam. Số tiền lên tới hơn 690000 USD
1.2.4. Quản lí, sử dụng vốn tài sản tại các doanh nghiệp
 Vụ việc Nguyễn Bi, chủ tịch Hội đồng quản trị, kiêm tổng giám đốc và Nguyễn
Thanh Huyền, Phó tổng giám đơc, kế tốn trưởng của Cơng ty cổ phần kĩ nghệ thực
phẩm Việt Nam đã chỉ đạo, thực hiện hạch toán sai tài khoản, sai nguồn vốn, lấy tiền của
Nhà nước và các cổ đông để đưa vào huy động vốn cho cá nhân, sau đó rút ra chiếm đoạt,
gây thiệt hại cho Nhà nước và Công ty Vifon hơn 18 tỉ đồng
 Vụ án Vũ Văn Lương, thẩm phán quận Hoàn Kiến Hà Nội nhận hối lộ 70 triệu

đồng trong vụ tranh chấp 2,7 m2 cơng trình phụ.
 Vụ án Hà Cơng Tuấn, thẩm phán TAND tỉnh Quảng Ninh bị bắt quả tang nhận hối
lộ 200 triệu đồng nhằm xử nhẹ tội cho bị cáo.
2, Bộ máy hành chính cơng
Quốc gia

Tính hiệu quả của chính quyền

Cam-pu-chia

-0,75

Trung Quốc

0.12

Hồng Công

1.7

Lào

-0.91

Việt Nam

-0,28


Thái Lan


0.1

Singgapore
2.16
Dựa vào bảng trên có thể nhìn thấy rõ, tính hiệu quả của chính quyền nước ta hay
chất lượng bộ máy hành chính nước ta cịn thấp. Tính hiệu quả của chính quyền cao nhất
đó là Singgapore với 2.16, Hồng Kong và Trung Quốc, Thái Lan đều mang chỉ số dương.
Việt Nam, cam-pu-chia, Lào là các nước mang chỉ số âm. Tính hiệu quả của bộ máy
chính quyền nước ta chỉ được -0,28. Cho thấy, bộ máy hành chính nước ta còn nhiều yếu
kém, việc quá nhiều các thủ tục hành chính hay chất lượng phục vụ dịch vụ cơng cịn
nhiều bất cập
Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh cơng cuộc cải cách bộ máy hành chính cơng.
Về cơ cấu tổ chức các bộ, ngành
Số người trong biên chế hành chính vẫn tăng. Nhìn nhận về cơ sở pháp lý của cải
cách bộ máy hành chính, nhiều ý kiến cho rằng, Luật Tổ chức Chính phủ 2015 đã quy
định cụ thể về cơ cấu tổ chức của bộ, cơ quan ngang bộ gồm vụ, văn phòng, thanh tra,
cục, tổng cục, đơn vị sự nghiệp công lập…Với những quy định này, tinh thần cải cách bộ
máy hành chính đã được thể hiện trong các giải pháp lập pháp của Quốc hội, tạo khuôn
khổ pháp lý vững chắc, thúc đẩy cải cách tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức làm việc
của các cơ quan hành chính Nhà nước. Tuy nhiên, nhìn từ thực tế, việc sắp xếp thành các
bộ đa ngành, đa lĩnh vực vẫn cịn tính chất lắp ghép cơ học, chưa đi liền với việc sắp xếp
lại cơ cấu bên trong của mỗi bộ, cơ quan ngang bộ; mới chỉ hợp nhất, giảm được đầu mối
ở một số đơn vị có nhiệm vụ tham mưu, tổng hợp chung nhưng lại có xu hướng phình to
thêm các biên chế hành chính ở trong cơ cấu các bộ.Nghị quyết 39-NQ/TW của Bộ
Chính trị cũng quy định rất cụ thể về chủ trương tinh giản biên chế và cơ cấu lại đội ngũ
cán bộ, công chức.trên thực tế, việc quản lý biên chế vẫn cịn nhiều tồn tại, đó là một số
cơ quan, tổ chức vẫn đề nghị bổ sung biên chế công chức đối với những tổ chức thành lập
mới; một số địa phương sử dụng biên chế công chức vượt so với chỉ tiêu biên chế công
chức được Trung ương giao hàng năm. Trong khi đó, việc thực hiện tinh giản biên chế



chậm, chưa đúng kế hoạch, một số cơ quan thực hiện tinh giản biên chế không đúng đối
tượng quy định.Năm 2014, tổng số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách Nhà nước
của các tổ chức trong hệ thống chính trị là hơn 3,68 triệu người (trong đó khối hành chính
có biên chế cơng chức hơn 1,6 triệu người, khối sự nghiệp gần 2,1 triệu người). Năm
2016, các cơ quan quản lý biên chế T.Ư giao là 3.725.559 người. Tuy nhiên, tính đến
ngày 30/10/2016, tổng số người hưởng lương, phụ cấp thực tế trong bộ máy của hệ thống
chính trị là 3.734.302 người, vượt 8.743 người so với số được giao. Do tâm lý ngại va
chạm nên nhìn chung các cơ quan, tổ chức các cấp, các ngành chưa thực hiện nghiêm túc
các chủ trương, Nghị quyết của Trung ương về quản lý biên chế và tinh giản biên chế.
Cho đến nay vẫn chưa xây dựng được cơ chế đánh giá các bộ khoa học, phù hợp. Việc bố
trí, sử dụng cán bộ, cơng chức, viên chức vẫn cịn tình trạng “có lên khơng có xuống”,
“có vào khơng có ra”, “biên chế suốt đời”, “chủ nghĩa bằng cấp”. Thiếu cơ chế cạnh tranh
trong đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ.
Khung chính sách, pháp luật về cải cách bộ máy hành chính nhà nước
Quốc hội khóa XIII đã ban hành 100 luật, bộ luật với chất lượng ngày càng cao, tạo
cơ sở pháp lý đồng bộ cho việc đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà
nước từ trung ương đến địa phương. Liên quan đến cải cách bộ máy hành chính nhà
nước, ngồi Hiến pháp, Quốc hội các nhiệm kỳ đã ban hành Luật tổ chức chính phủ, Luật
tổ chức hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật tổ chức chính quyền đại phương và
nhiều nghị định khác. Chính phủ, thủ tướng Chính phủ đã ban hành 142 nghị định, nghị
quyết, quyết định, chỉ thị liên quan trực tiếp đến chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức
của các cơ quan hành chính nhà nước. Các bộ, cơ quan ngang bộ đã ban hành 50 thông tư
hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan chun
mơn thuộc Ủy ban nhân dân.
Tuy nhiên vẫn cịn tình trạng nợ đọng văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật và việc
ban hành văn bản pháp luật có chất lượng chưa cao, phải sửa đổi nhiều lần.
Về chất lượng của đội ngũ cán bộ trong bộ máy hành chính cơng



Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức được xây dựng và từng bước được nâng cao.
Công tác thi tuyển cạnh tranh các chức danh lãnh đạo, quản lý; và thi nâng ngạch theo
hình thức cạnh tranh tiếp tục được đẩy mạnh và được coi là một trong những giải pháp
mạnh, mang tính đột phá để nâng cao chất lượng nền cơng vụ.
Tuy nhiên, chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng công chức viên chức của một
số bộ, ngành, địa phương chất lượng cịn kém, ít tính sáng tạo và chưa sát với thực tiễn
công tác cải cách hành chính. Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, cơng chức trong các cơ quan
hành chính và chưa thực hiện tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm, cơ chế quy định trách
nhiệm người đứng đầu
Hoạt động của bộ máy hành chính
Chính phủ tiến hành sâu rộng cải cách thủ tục hành chính và thực hiện cơ chế một
cửa, một cửa liên thông. Cụ thể, cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tiếp tục được
các địa phương quan tâm tổ chức thực hiện, đạt được kết quả tại tốt bằng việc ban hành
và triển khai Kế hoạch kiểm sốt thủ tục hành chính và Kế hoạch rà sốt thủ tục hành
chính. Theo báo cáo của Bộ Tư pháp, đến nay đã đơn giản hóa 79% thủ tục hành chính
được Chính phủ phê duyệt tại 25 nghị quyết. Sự hài lòng của người dân về chất lượng
giải quyết thủ tục hành chính đã tăng lên đáng kể. Chất lượng hoạt động của bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả các cấp ngày càng được nâng cao.
Qua một số nghiên cứu, khảo sát cho thấy chất lượng dịch vụ công ngày càng được
người dân đánh giá cao. Cụ thể, các cấp chính quyền và từng cơ quan hành chính nhà
nước đã thực hiện rà soát các loại thủ tục hành chính, bãi bỏ hoặc sửa đổi theo hướng tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp; giảm mạnh các loại thủ tục hành
chính gây phiền hà cho tổ chức và cơng dân. Ngồi ra, việc cơng bố cơng khai các thủ
tục, các loại giấy tờ, biểu mẫu và quy định về thời gian giải quyết, phí và lệ phí giúp
người dân nắm rõ về các quy trình hành chính, tạo thuận lợi cho việc thực hiện.
Tuy nhiên, thủ tục hành chính phiền hà vẫn là khó khăn lớn mà nhiều doan nghiệp
hiện nay phải đối mặt. Trong số gần 7.000 ý kiến phản ánh trong khảo sát chỉ số PCI của



Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam năm 2014, có tới gần 860 ý kiến (12%) cho
rằng, đây là khó khăn mà các DN đang gặp phải. Trong số 8.093 DN trả lời khảo sát, có
tới 23% cho biết họ phải dành hơn 10% quỹ thời gian để tìm hiểu và thực hiện các quy
định pháp luật của Nhà nước. Gần 30% DN cho biết họ vẫn phải đi lại nhiều lần để lấy
dấu và chữ ký, và vẫn có khoảng 38% DN khơng đồng ý với nhận định rằng, thủ tục giấy
tờ đã đơn giản hơn. Cũng gần 30% DN trả lời khảo sát cho biết, họ không nhận thấy bất
kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong cải cách hành chính hiện nay. Về cơng tác cán bộ, trong
khi vẫn có gần 1/4 các DN cho rằng, cán bộ Nhà nước giải quyết công việc chưa hiệu
quả, thì cũng có tới gần 1/3 DN cho rằng cán bộ nhà nước không thân thiện khi giải quyết
thủ tục cho DN. Những lĩnh vực mà DN đang gặp nhiều khó khăn khi thực hiện thủ tục
hành chính bao gồm: Đất đai (21%), thuế (17%), bảo hiểm xã hội (13%), xây dựng (9%),
bảo vệ môi trường (6,5%) và đăng ký DN, đăng ký đầu tư (6%) (VCCI, 2014). Chương
trình Phát triển Liên hiệp quốc tại Việt Nam (UNDP) đã công bố nghiên cứu “Chỉ số hiệu
quả quản trị và hành chính cơng cấp tỉnh ở Việt Nam - Đo lường từ kinh nghiệm thực tiễn
của người dân” khảo sát trên gần 75.000 người tại 63 tỉnh thành.Theo đó, gần 30% người
dân nói rằng phải có phí “bơi trơn” khi làm thủ tục nhà đất, hơn 30% cho biết phải “bồi
dưỡng” cho y tá – bác sĩ khi đi bệnh viện và hơn 50% tin rằng cần tiền “lót tay” nếu
muốn xin vào làm cơ quan nhà nước.
3. Tuân thủ pháp luật
Tuân thủ pháp luật là mức độ của người dân của một nước sẵn sàng chấp nhận các
thể chế hiện hành để điều chỉnh hành vi và giải quyết tranh chấp.
Để có thể mức tuân thủ cao cần có một hệ thống tư pháp mạnh, hữu hiệu và tương
đối sạch.


Vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế khiến cho việc tuân thủ pháp luật của người dân
Việt Nam bị đánh giá thấp. So với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam có
chỉ số về tuân thủ pháp luật vô cùng thấp. Cụ thể năm 2011, con số này chỉ là -0.28, so
với các nước như Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Malayxia, Singapo hay Đài Loan
thì kém xa rất nhiều.

III. Về chính sách xây dựng pháp luật:
1. Những tích cực trong xây dựng và ban hành chính sách pháp luật:
Chính sách xây dựng pháp luật trong thời gian qua đã được xây dựng và thực hiện
tương đối nghiêm túc, đồng bộ và mang lại những chuyển biến tích cực, ngày càng hồn
thiện cả về nội dung, hình thức, số lượng và chất lượng, góp phần tổ chức triển khai thực
hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phù hợp với nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thiện


thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) và xây dựng Nhà nước
pháp quyền xhcn.

Chính sách xây dựng pháp luật tập trung vào sáu định hướng đã được xác định
trong Nghị quyết số 48-NQ/TW, thể hiện tư duy lập pháp mới nhằm mục tiêu cải cách về
thể chế cũng là một bộ phận quan trọng của cải cách hành chính. Đó là đảm bảo sự phát
triển cân đối, đồng bộ giữa thể chế về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phịng, mơi
trường, bảo vệ quyền con người phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững của đất nước.
Đây cũng chính là những lĩnh vực trọng điểm có ý nghĩa then chốt, thúc đẩy mạnh mẽ
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời gian qua. Quy trình ban
hành văn bản quy phạm pháp luật hiện nay đã có những đổi mới quan trọng như: giảm
bớt một số loại, hình thức văn bản quy phạm pháp luật; tăng cường sự minh bạch, chặt
chẽ, dân chủ và huy động được trí tuệ của xã hội vào hoạt động xây dựng pháp luật;
triển khai phương thức ban hành một luật để sửa đổi nhiều đạo luật liên quan.
2. Những hạn chế trong xây dựng và ban hành chính sách pháp luật
Từ thực tế hoạt động trong thời gian qua, có thể nêu ra một số hạn chế cơ bản trong
xây dựng, ban hành chính sách pháp luật như: thời điểm ban hành còn chậm so với yêu
cầu thực tiễn; các chính sách chưa đồng bộ; chất lượng chính sách cịn chưa cao; quy
trình ban hành chính sách chưa được tuân thủ triệt để.
Thời gian cho quá trình từ nghiên cứu, chuẩn bị đến khi chính sách pháp luật được
ghi nhận trong văn kiện hoặc thể chế hóa thành pháp luật còn chậm, cụ thể: gần 7 năm
cho việc ban hành hành chủ trương “đổi mới” của Đảng (1986) nếu như tính từ Hội nghị

Trung ương 6 khố IV (8/1979); 7 năm cho việc ban hành chủ trương xây dựng nhà
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân (2001) nếu tính từ Văn kiện Hội nghị
đại biểu tồn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII của Đảng (tháng 01/1994) với việc nhấn
mạnh: tăng cường pháp chế XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý


xã hội bằng pháp luật… ; 9 năm cho việc ban hành Nghị quyết số 48, Nghị quyết số 49
(2005) nếu tính từ Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (năm 1996); 02 năm cho việc thể chế
Nghị quyết số 48 thành Nghị quyết số 900/UBTVQH11 ngày 21/3/2007; 04 năm cho
việc thể chế Nghị quyết số 17 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X thành Nghị
quyết số 30c/NQ-CP ngày 08/11/2011 của Chính phủ về ban hành Chương trình tổng thể
cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020… Từ đó dẫn tới việc chậm xây
dựng, ban hành chính sách pháp luật phục vụ thực tiễn quản lý nhà nước giải quyết các
vấn đề kinh tế - xã hội, do đó khơng hồn thành tốt mục tiêu của CSXDPL.
Hơn nữa, nếu cả 03 nhóm chính sách trên được tiến hành đồng thời thì hiệu quả có
thể sẽ cao hơn. Trong thực tế, chính sách về cải cách tư pháp được ban hành đầu tiên
(Nghị quyết 08-NQ/TƯ ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một số nhiệm vụ trọng
tâm công tác tư pháp trong thời gian tới”); sau đó 03 năm thì Nghị quyết số 48 và Nghị
quyết số 49 ra đời (năm 2005); đến năm 2007 (Nghị quyết số 17 được ban hành), rồi đến
năm 2011 Nghị quyết số 30c của Chính phủ về cải cách hành chính mới được ban hành.
Điều này phần nào ảnh hưởng tới tiến độ cũng như tính tồn diện của hệ thống CSXDPL
trong thời gian qua.
Mặc dù CSXDPL cho phép chính sách pháp luật được chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi
ban hành, nhưng khi xây dựng chưa có nhiều phương án đưa ra để lựa chọn. Đánh giá
tác động của chính sách pháp luật trong tương lai chưa được quan tâm đúng mức, công
tác giám sát đánh giá và tổng kết chính sách pháp luật chưa được thực hiện tốt và chậm
so với u cầu thực tế.
Bên cạnh đó, CSXDPL cịn thiếu hụt khi một số chính sách pháp luật mới dừng ở
mức nêu định hướng mà thiếu những giải pháp, lộ trình, mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể
cho từng giai đoạn. Điều này phần nào ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thi hành cũng

như kết quả thực hiện.


=> Chính sách xây dựng pháp luật cịn bộc lộ một số hạn chế làm giảm hiệu quả
chính sách pháp luật. Những thiếu hụt này đòi hỏi phải được bổ sung làm rõ để việc xây
dựng, ban hành chính sách pháp luật ngày càng hiệu quả hơn.
3. Nguyên nhân hạn chế, bất cập của CSXDPL
Thứ nhất, chất lượng xây dựng và tổ chức thực hiện Chương trình xây dựng pháp
luật cịn hạn chế về đánh giá tác động chính sách nên chưa xác định được thứ tự ưu tiên
ban hành văn bản. Vẫn cịn tình trạng “xin rút” hoặc “bổ sung” vào chương trình và chưa
đáp ứng tính kịp thời trong việc ban hành văn bản pháp luật để điều chỉnh những vấn đề
ưu tiên, bức xúc mà xã hội quan tâm, như dự án đất đai, đầu tư, kinh doanh vốn nhà
nước.
Thứ hai, quá trình đổi mới quy trình lập pháp còn chậm, việc tuân thủ các bước
chưa nghiêm. Cơng đoạn phân tích chính sách, đánh giá tác động trước khi xây dựng dự
thảo luật có trường hợp chưa được thực hiện kỹ lưỡng dẫn đến nội dung của một số dự
án luật, pháp lệnh do Chính phủ trình Quốc hội so với văn bản luật, pháp lệnh khi được
thơng qua có sự thay đổi nhiều. Việc gửi dự án đến cơ quan thẩm tra còn nhiều trường
hợp chưa bảo đảm thời gian trình theo luật định; việc tổ chức thực hiện lấy ý kiến và sử
dụng các chuyên gia, nhà khoa học cịn gặp khó khăn.
Thứ ba, chất lượng của chính sách pháp luật hiện hành cịn những hạn chế nhất
định, như:
- Thiếu tính hệ thống, chưa bảo đảm tính đồng bộ, cân đối.
Các văn bản pháp luật chưa tạo thành một chỉnh thể thống nhất với những nguyên
tắc chỉ đạo xuyên suốt mang tính chuyên ngành hoặc liên ngành. Vì vậy, khi có quy định
liên quan đến chức năng của nhiều ngành, mỗi ngành lại có những cách hiểu khác nhau,
dẫn đến tình trạng cùng một vấn đề chính sách nhưng lại có nhiều văn bản hướng dẫn


khác nhau, làm giảm tính minh bạch, khiến cho chính sách pháp luật trở nên phức tạp,

khó hiểu, khó áp dụng, chậm đi vào cuộc sống.
- Còn đa dạng về hình thức, phạm vi điều chỉnh rộng.
Tính đến trước thời điểm ban hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
năm 2008, hệ thống pháp luật có khoảng 26 loại văn bản quy phạm pháp luật và đến nay
còn 19 loại. Bên cạnh đó, trong một số trường hợp rất khó xác định rõ tính chất, nội
dung của từng loại văn bản (ví dụ giữa luật và pháp lệnh, giữa nghị quyết của Quốc hội
với luật, với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội). Từ đó ảnh hưởng
đến giá trị pháp lý cũng như bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống chính sách
pháp luật.
Thực tế cho thấy, các văn bản quy phạm pháp luật ở nước ta thường được xây dựng
theo hướng có phạm vi, đối tượng điều chỉnh rộng. Điều này có ảnh hưởng khơng tốt tới
tính cụ thể, tính khả thi của pháp luật do phải ban hành nhiều văn bản dưới luật và khó
sửa đổi, bổ sung để theo kịp sự thay đổi của đời sống xã hội. Hạn chế này đặt ra yêu cầu
cần phải có sự thay đổi về xây dựng chính sách pháp luật trong thời gian tới.
- Tính ổn định chưa cao.
Chính sách pháp luật không ổn định chủ yếu do năng lực của đội ngũ cơng chức
xây dựng chính sách. Ngun nhân từ sự e ngại, né tránh với những vấn đề mới, chỉ
chấp nhận những vấn đề đã chín muồi, có sự đồng thuận cao, thiếu vắng tầm nhìn và
quan điểm chiến lược cho sự phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội cụ thể và của cả hệ
thống pháp luật. Nhiều văn bản pháp luật thời gian áp dụng rất ngắn, thậm chí mới ban
hành đã phải tạm hỗn thực hiện hoặc phải sửa đổi, bổ sung. Pháp luật thường xuyên
thay đổi sẽ tác động xấu đến sự ổn định của các quan hệ xã hội, nhất là đối với các quan
hệ kinh tế.


- Chính sách pháp luật có tính quy phạm thấp.
Bản chất của quy phạm pháp luật là để xác định mơ hình hành vi, xác định những
quy tắc xử sự cụ thể mà chủ thể chính sách phải thực hiện. Nhưng trên thực tế, có những
văn bản chứa đựng những quy định mang tính tun ngơn hơn là quy phạm chính sách
pháp luật.

Thứ tư, việc thực hiện CSXDPL phục vụ q trình cải cách tư pháp cịn chậm và
chưa mang lại sự thay đổi rõ nét so với mục tiêu chính sách đề ra. Cơng tác xây dựng,
ban hành văn bản pháp luật về tư pháp còn chậm, việc phối hợp giữa các cơ quan tư
pháp chưa chặt chẽ, hiệu quả nên nhiều văn bản quy định cụ thể và hướng dẫn thi hành
các đạo luật về tư pháp chưa được ban hành. Việc triển khai thực hiện một số chủ trương
như “thành lập viện kiểm sát theo khu vực”, “tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt
động điều tra, gắn công tố và điều tra”, “nâng cao chất lượng tranh tụng tại tịa” nhìn
chung cịn chậm, chưa thật sự quyết liệt.
Thứ năm, việc thực hiện chính sách pháp luật phục vụ q trình cải cách hành
chính nhà nước có nhiều thay đổi nhưng chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn và mong mỏi
của người dân, doanh nghiệp. Hệ thống chính sách pháp luật cịn thiếu đồng bộ, thống
nhất, vẫn chồng chéo, nhiều về số lượng, hạn chế về chất lượng. Các đầu mối trực thuộc
Chính phủ giảm nhưng bộ máy bên trong các bộ chưa giảm; cơ chế quy định trách
nhiệm người đứng đầu chưa rõ ràng. Vẫn còn nhiều thủ tục hành chính bất hợp lý, gây
phiền hà cho nhân dân và doanh nghiệp; quá trình cải cách chủ yếu dừng lại ở những
biện pháp tình thế, vướng đâu gỡ đó, thiếu một giải pháp tồn diện, cơ bản để có thể giải
quyết tận gốc những nguyên nhân làm phát sinh những bất hợp lý cả về nội dung và hình
thức của các quy trình, thủ tục, nên hiệu quả không cao, kết quả không vững chắc. Việc
rà sốt, sửa đổi, bổ sung thủ tục hành chính trong những năm qua chưa bảo đảm tính
đồng bộ, đặc biệt là giữa cải cách thủ tục hành chính với cải cách thể chế chính sách, đổi
mới tổ chức bộ máy, điều chỉnh sự phân công phân cấp, đổi mới lề lối làm việc, nâng


cao năng lực, trình độ đội ngũ cán bộ, cơng chức.
Thứ sáu, quy trình ban hành chính sách pháp luật chưa được đề cao và tuân thủ
nghiêm túc, đặc biệt trong việc đánh giá thực tiễn cũng như tạo cơ chế để nhân dân và
doanh nghiệp tham gia xây dựng chính sách cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách. Điều này vừa ảnh hưởng tới chất lượng của chính sách, vừa làm cho việc
điều chỉnh chính sách phù hợp với thực tiễn còn chậm.
IV. Về việc tuân thủ pháp luật của người dân

1.Ưu điểm:
Những năm gần đây, công tác phổ biến giáo dục pháp luật ở nước ta đã được Đảng
và Nhà nước quan tâm chú trọng nhiều hơn. Những hoạt động của các cấp các ngành
trong việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
người dân, hầu hết người dân đã nắm rõ được tầm quan trong của pháp luật trong đời
sống từ đó mà nhìn nhận đúng và tự giác hơn trong việc chấp hành pháp luật mà nhà
nước đề ra.
Hiện nay trong các hoạt động của pháp luật, ý thức của người dân Việt Nam đã
nâng lên. Sự hiểu biết về pháp luật của nhân dân đã biểu hiện rõ nét, nhân dân ý thức
được trách nhiệm, quyền hạn của mình đối với nhà nước thơng qua pháp luật do đó họ
tích cực tham gia vào các hoạt động quản lí nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ
quan nhà nước để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình. Trong những năm qua, người
dân đã tích cực tham gia đóng góp các ý kiến cho các văn bản pháp luật, những ý kiến
đó được đánh giá cao và có tính thực tiễn. Có những ý kiến cũng đã được các cơ quan có
thẩm quyền ghi nhận để xem xét, nghiên cứu và bổ sung thêm. Như vậy, do nhận thức
đúng trách nhiệm của mình trong các vấn đề quan trọng của đất nước cho nên người dân
ngày càng quan tâm đến pháp luật; tự giác học hỏi và nghiên cứu nhằm hoàn hiện nhận
thức đúng đắn nhất đưa ra những quan điêm sáng suốt và có giá trị.


Trong hoạt động thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật hiện nay cũng có nhiều
bước chuyển biến tích cực, người dân Việt Nam đã chủ động tích cực, đã tôn trọng và
thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật. Trong các cơ quan nhà nước, các tổ
chức, số cán bộ vi phạm pháp luật trong khi thi hành công vụ đã giảm, thực trạng tham
nhũng, sách nhiễu trong công việc đang được đẩy lùi, các cán bộ công chức đã ngày
càng chứng tỏ sự minh bạch cơng khai trong cơng việc của mình.
Ý thức trong thực hiện pháp luật của các tầng lớp nhân dân cũng được cải thiện rõ
rệt. Người dân đã ngày càng nêu cao tinh thần “ sống và làm việc theo pháp Hiến pháp
và pháp luật”. Người dân trở nên có nhận thức tốt về các vấn đề của đời sống xã hội coi
trọng tính mạng, nhân phẩm và tài sản của nhau. Nhân dân đã nghiêm chỉnh, tự giác

trong việc chấp hành pháp luật. Các tranh chấp trong xã hội nay đã giảm bớt đi sự căng
thẳng vì mọi người có ý thức điều hịa những mâu thuẫn khơng đáng có.
Bên cạnh đó, ý thức bảo vệ pháp luật hiện nay cũng đã được quan tâm. Xuất hiện
trong cuộc sống của chúng ta nhiều tấm gương về người tốt, việc tốt trong thực hiện
pháp luật, họ đã nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong việc bảo đảm trật tự, an
toàn xã hội, trợ thành những tấm gương sáng trong việc giúp cho các cơ quan chức năng
thi hành công vụ, trong việc bắt giữ tội phạm, tố giác những hành vi của những người
người thực hiện hành vi trái pháp luật. Như vậy có thể nói rằng đã có nhiều bước chuyển
biến đáng mừng trong tư tưởng tình cảm của người dân đối với việc chấp hành pháp
luật.
2. Hạn chế:
Bên cạnh những mặt tích cực về ý thức pháp luật của người dân hiện nay thì vẫn
cịn tồn tại những mặt hạn chế nhất định ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống của tồn xã
hội. Có thể nhận thấy những sự hạn chế như sau:
Hiện nay, ý thức pháp luật của một bộ phận người dân vẫn còn thấp. Họ chưa tôn
trọng pháp luật, thái độ thờ ơ và lẩn tránh các quy định của pháp luật vẫn còn xảy ra
nhiều, sự tùy tiện trong việc chấp hành kỉ luật lao động, sinh hoạt và làm việc. Nguyên
nhân của vấn đề trên chính là do nhân dân Việt Nam vẫn cịn chiếm tỉ lệ lớn trong các
ngành nơng nghiệp, quanh năm chú trọng đến sản xuất, chăn nuôi, người dân sống và


thực hiện trách nhiệm của mình bằng các phong tục, tập qn từ lâu đời do đó ý thức vẫn
cịn thấp trong hiểu biết và chấp hành pháp luật
Những cuộc chiến tranh liên miên, khốc liệt trong lịch sử Việt Nam đã làm ý thức ý
bị gắn kết, người dân dẫu rằng thể hiện ý thức, trách nhiệm của mình tuy nhên vẫn dẫn
đến thói quen là cấp trên thì ra lệnh, thiếu dân chủ, cấp dưới thì đợi mệnh lệnh, chỉ thị
của cấp trên nên người dân thiếu sự chủ động và sáng tạo. Có đơi khi, ý thức của cá nhân
còn bị hòa nhập vào ý thức tập thể, cộng đồng nên người dân không bộc lộ được rõ ràng
nhân cách, lối sống của mình.
Ý thức pháp luật trong mỗi người dân vẫn còn chậm được nâng cao do những thói

quen truyền thống. Những thói quen như “ bất tuân pháp luật”, nhiêu người cố tìm mọi
cách để lách luật, tìm ra những kẽ hở và hạn chế của pháp luật để thực hiện hành vi vi
phạm nhằm đạt được mục đích.” Lách luật” xảy ra rất nhiều trong hoạt động giao thơng
hiện nay, có thể thấy rõ tình trạng một số người dân tham gia giao thơng trên đường
bằng xe máy chỉ chấp hành việc đội mũ bảo hiểm khi nhìn thấy cảnh sát giao thơng hoặc
khi nhìn thấy cảnh sát giao thơng từ xa sẽ đi vào đường tránh khác để khơng bị bắt khi
biết mình đã vi phạm.
Tình trạng phổ biến của người dân hiện nay là chưa có thói quen giải quyết các
tranh chấp mâu thuẫn bằng con đương tư pháp, tâm lí e ngại ra tòa, thái độ thiếu thiện
cảm, bất cần với người đại diện chính quyền vẫn thường xuyên xảy ra. Dẫn đến các mâu
thuẫn trong đời sống của người dân không những không được gải quyết mà ngày càng
nghiêm trọng hơn. Một tực tế đáng buồn hiện nay là tình trạng người dân thờ ơ, vô trách
nhiệm với những hành vi trái pháp luật. Cụ thể trong đời sống hiện nay những vụ đua xe
hay những vụ đánh đập tấn công của những đối tượng trong cuộc , người dân nhìn thấy
thay vì ngăn cản, tố giác thì họ lại đứng cổ vũ, hô hào hay đứng xem với một thái độ
bình thản. Điều này cũng đã chứng tỏ phần nào thực trạng ý thức pháp luật của người
dân hiện nay.
Đến nay, trình độ dân trí của người dân vẫn còn thấp, sự chênh lệch giữa các vùng
miền, ở một số nơi thì người dân đã có kiến thức về pháp luật nhưng một số nơi thì pháp
luật cịn là một điều gì đó xa vời, khơng gắn với thực tiễn cuộc sống, họ thờ ờ trước


×