Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tỷ lệ khò khè ở học sinh 6-7 tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.25 KB, 21 trang )

TỈ LỆ KHÒ KHÈ Ở HỌC SINH 6 – 7 TUỔI

TÓM TẮT
Đặt vấn đề - Mục tiêu nghiên cứu: Tỉ lệ suyễn đang gia tăng tại các nước, nhất là
các nước đang phát triển. Tại Tiền Giang chưa có nghiên cứu nào về độ lưu hành
suyễn và triệu chứng suyễn. Mục tiêu nghiên cứu: Khảo sát tỉ lệ khò khè và mô tả
đặc điểm những trường hợp từng được bác sĩ chẩn đốn suyễn về gánh nặng của
bệnh và thói quen điều trị ở học sinh 6- 7 tuổi tại tỉnh Tiền Giang.
Phương pháp nghiên cứu: Cắt ngang mô tả.
Kết quả: Có tổng cộng 940 học sinh tham gia nghiên cứu. Tỉ lệ khò khè trong 12
tháng qua là 9%, tỉ lệ từng khò khè là 33,2% và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đốn
suyễn là 2,2%. Từ đó có thể dự đốn được tỉ lệ suyễn chưa được chẩn đoán ở mức
khá cao. 21 trường hợp từng được bác sĩ chẩn đốn suyễn có những đặc điểm như
sau: Tỉ lệ nhập viện và tỉ lệ vào cấp cứu vì suyễn trong năm qua tương đương nhau
là 19%; tỉ lệ nghỉ học vì suyễn trong năm qua là 29%, số ngày nghỉ học vì suyễn
trung bình trong năm qua là 6,8 ngày. Nơi điều trị mỗi khi trẻ lên cơn suyễn
thường gặp nhất là bệnh viện/ trung tâm y tế (57%) và phịng khám tư nhân (52%),
có 24% trẻ được cha mẹ tự mua thuốc uống mỗi khi lên cơn suyễn. Mặt khác, có
57% trẻ khi lên cơn suyễn được điều trị thuốc dạng tiêm chích và chỉ có 48% trẻ
được phun hoặc xịt thuốc mỗi khi lên cơn suyễn.


Kết luận: Tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua ở học sinh 6– 7 tuổi tại Tiền Giang ở
mức trung bình cao và tỉ lệ suyễn chưa được chẩn đoán ở Tiền Giang ở mức khá
cao.
ABSTRACT
THE

PREVALENCE

OF WHEEZING



AMONG

6

-

7 YEAR-OLD

SCHOOLCHILDREN IN TIEN GIANG IN 2007
Huynh Cong Thanh, Ta Van Tram
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 88 - 93
Background - Objectives: The prevalence of asthma has been increasing in many
countries, especially in developing countries. In Tien Giang, there hasn’t been any
survey of the prevalence of asthma and asthma symptoms. Objectives: To
determine the prevalence of wheezing and characteristic features of physiciandiagnosed asthma among 6-7 year-old schoolchildren in Tien Giang province
Method: Cross-sectional survey

Results: 940 schoolchildren joined in our survey. Wheezing in the last 12 months
9%; ever wheezing 33.2% and physician - diagnosed asthma 2.2%. Prevalence of
undiagnosed asthma was estimated at high level. 21 cases of physician - diagnosed
asthma have some characteristic features: admission magnitude due to asthma and
the rate of emergency room visits in the last year was 19%; school absences due to
asthma in last year were 29% while mean days of missing school due to asthma
came to 6.8 days. The most common places of choice for treatment asthma attacks


were in hospital or health center (57%) and clinical cabinet (52%), 24% of patients
taken orally administered drug self-treated from pharmacies for treatment asthma
attacks, 57% of patients were injected and only 48% of patients got nebulized or

sprayed medicine when having asthma attacks.
Conclusion: The prevalence of wheezing in the last 12 months among 6–7 yearold schoolchildren in Tien Giang was at moderate – high level and the prevalence
of undiagnosed asthma was rather high.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suyễn là một trong các bệnh mạn tính hay gặp nhất trên thế giới. Với độ lưu hành
cao và ngày càng gia tăng tại nhiều nước, đặc biệt ở trẻ em, suyễn hiện là một vấn
đề sức khỏe cộng đồng mang tính tồn cầu, là gánh nặng y tế và kinh tế của tất cả
các quốc gia (3).
Tại Việt Nam, các nghiên cứu về độ lưu hành suyễn trẻ em đã được thực hiện ở
một số nơi từ nhiều năm nay. Tuy nhiên, các nghiên cứu này sử dụng những định
nghĩa suyễn khác nhau nên khó sử dụng để so sánh độ lưu hành giữa các vùng
trong nước cũng như khó tìm ra một con số thuyết phục về độ lưu hành suyễn
chung cho cả nước. Những năm gần đây tại Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) và
Hà Nội đã có những điều tra tỉ lệ suyễn và các triệu chứng suyễn theo mẫu bộ câu
hỏi được chuẩn hóa của nghiên cứu ISAAC (International Study of Asthma and
Allergies in childhood – Nghiên cứu Quốc tế về Suyễn và bệnh Dị ứng ở Trẻ em)
(1). Tại Tiền Giang, hiện chưa có một số liệu nào về độ lưu hành suyễn. Chúng tôi


thực hiện nghiên cứu này nhằm cung cấp một vài số liệu cơ bản về bệnh suyễn ở
trẻ em Tiền Giang.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Khảo sát tỉ lệ khị khè và mơ tả đặc điểm những trường hợp từng được bác sĩ chẩn
đoán suyễn về gánh nặng của bệnh và thói quen điều trị ở học sinh 6- 7 tuổi tại
tỉnh Tiền Giang.
Mục tiêu cụ thể
- Xác định các tỉ lệ khò khè và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn ở học sinh
6-7 tuổi tại tỉnh Tiền Giang.
- Xác định tỉ lệ các đặc điểm (nhập viện, vào cấp cứu và nghỉ học trong năm qua,

yếu tố nghi khởi phát cơn suyễn, nơi điều trị và dạng thuốc điều trị mỗi khi lên
cơn suyễn) của những trường hợp từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn ở học sinh 67 tuổi tại tỉnh Tiền Giang.
- Thăm dị mối liên quan giữa giới tính, địa dư, cân nặng lúc sinh, bú mẹ, số người
trong nhà, khói thuốc lá, tiền sử bệnh dị ứng của gia đình với khò khè và suyễn.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Cắt ngang mơ tả.
Đối tượng nghiên cứu
Tồn bộ học sinh 6-7 tuổi sống tại tỉnh Tiền Giang.
Dân số chọn mẫu


Học sinh 6- 7 tuổi sống tại tỉnh Tiền Giang tại thời điểm nghiên cứu.
Cỡ mẫu
Chọn khoảng tin cậy 95%
a: xác suất sai lầm loại 1 (a = 0,05)
Z (1-a/2) = 1,96 (tra từ bảng phân phối chuẩn)
d: Độ chính xác mong muốn
p: Theo nghiên cứu của Bạch Văn Cam và cộng sự tại TPHCM vào năm 2001 (2):
“Từng bị khị khè”: p1 = 0,325 ® n1 = 338
“Khị khè 12 tháng qua”: p2 = 0,17 ® n2 = 217
“Đã từng được chẩn đoán suyễn”: p3 = 0,045 và d = 0,02 ® n3 = 413.
Vì vậy chúng tơi chọn cỡ mẫu lớn nhất là n = 413.
Cỡ mẫu hiệu chỉnh (vì chọn mẫu cụm) với ảnh hưởng thiết kế là 2:
N = 2 x n = 2 x 413 = 826.
Tuy nhiên, vì cơng cụ thu thập số liệu là bảng câu hỏi do cha mẹ trẻ tự điền, nên
chắc chắn sẽ có 1 tỉ lệ cha mẹ trẻ không phản hồi. Trong nghiên cứu của Bạch Văn
Cam và cộng sự, tỉ lệ phản hồi là 92,3% nên cần phải điều chỉnh cỡ mẫu lớn hơn:
N’ = N/ 0,923 = 895.
Chúng tôi chọn cỡ mẫu khoảng 1.000 trẻ.

Phương pháp chọn mẫu
Lấy mẫu 2 bậc và lấy mẫu cụm theo các bước:
- Bước 1: Lập danh sách tất cả các lớp 1 và 2 trong tỉnh và đánh số thứ tự lớp.


- Bước 2: Lấy mẫu bậc 1, tức là chọn ngẫu nhiên 30 lớp từ danh sách tất cả các lớp
1 và 2 trong tỉnh.
Điều tra tất cả học sinh trong lớp được chọn.
Tiêu chí chọn mẫu
Tiêu chí đưa vào
Tồn bộ học sinh đang học lớp 1-2 của 30 cụm học sinh thuộc các trường tiểu học
trong tỉnh Tiền Giang năm 2007.
Tiêu chí loại trừ
- Học sinh lớp 1 và 2 nhưng ngồi độ tuổi 6-7 tính tới thời điểm thực hiện nghiên
cứu.
- Gia đình khơng đồng ý tham gia nghiên cứu.
- Người trả lời không phải là cha mẹ trẻ.
- Phiếu trả lời thiếu thông tin.
Thu thập số liệu
Phương pháp thu thập số liệu
Gửi bộ câu hỏi cho cha mẹ trẻ tự điền.
7 ngày sau quay lại thu phiếu.
Công cụ thu thập số liệu
Là bộ câu hỏi do cha mẹ trẻ tự điền, gồm 27 câu trong đó có 8 câu hỏi đã được
chuẩn hóa, được nghiên cứu ISAAC sử dụng trên toàn thế giới và 19 câu hỏi bổ
sung tìm hiểu về những yếu tố liên quan đến suyễn, khò khè và những câu hỏi về
gánh nặng của bệnh cũng như thói quen điều trị.


Xử lý dữ liệu

Các dữ liệu nhập bằng phần mềm EpiData 3.0. Phân tích số liệu bằng phần mềm
Stata 10.0.
KẾT QUẢ:
Mơ tả đặc tính chung của mẫu nghiên cứu
Có tất cả 1023 học sinh 6 – 7 tuổi được gửi phiếu tham gia, trong đó có 940 phiếu
phản hồi. Tỉ lệ phản hồi đạt 91,9%. Trong 940 học sinh tham gia nghiên cứu, một
số đặc tính chung được ghi nhận là: nam chiếm 50,7%; sống ở nông thôn chiếm
81,8%.
Tỉ lệ khò khè và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn:
Từ 940 học sinh tham gia nghiên cứu, chúng tơi thu được một số tỉ lệ khị khè và tỉ
lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn như sau:
Bảng 1: Tỉ lệ khò khè và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn
Biến số

Tần suất
(N = 940)

Tỉ lệ (%)

Khoảng tin cậy 95%
Từng khò khè


312

33,2

30,2 – 36,2
Khò khè trong 12 tháng qua


85

9

7,2 - 10,9
Khò khè nặng giới hạn lời nói trong 12 tháng qua

15

1,6

0,8 - 2,4


Khò khè liên quan gắng sức trong 12 tháng qua

61

6,5

4,9- 8,1

Khò khè ≥ 4 cơn trong 12 tháng qua

31

3,3

2,2 – 4,4
Thức giấc do khò khè > 1 đêm/ tuần

trong 12 tháng qua

7


0,7

0,2 – 1,3

Ho khan về đêm trong 12 tháng qua

246

26,2

23,4 – 29
Từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn

21

2,2

1,3 - 3,2


Khi so sánh tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán
suyễn ở từng huyện thị, chúng tơi có kết quả:
Bảng 2: Tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán
suyễn phân bố theo từng huyện thị
Huyện thị (N)


Khò khè trong 12 tháng qua % (n)

Từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn % (n)
Cái Bè (236)

10,2 (24)

3,8 (9)
Cai Lậy (125)

8,8 (11)

0 (0)
Châu Thành (187)

10,2 (19)


1,1 (2)
Chợ Gạo (40)

2,5 (1)

0 (0)
Gị Cơng Đơng (114)

11,4 (13)

1,8 (2)

Gị Cơng Tây (22)

0 (0)

0 (0)
Thành phố Mỹ Tho (137)

8 (11)

4,4 (6)


Tân Phước (22)

18,2 (4)

4,6 (1)
Thị xã Gị Cơng (57)

3,5 (2)

1,8 (1)
Đặc điểm của các trường hợp từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn
Trong 21 trường hợp từng được bác sĩ chẩn đốn suyễn, độ tuổi trung bình được
bác sĩ chẩn đốn là 30,8 tháng.
Về gánh nặng của bệnh: Có 6 học sinh phải nghỉ học vì suyễn trong năm qua
chiếm tỉ lệ 29%, trong đó trung bình số ngày nghỉ học vì suyễn trung bình trong
năm qua là 6,8 ngày. Có 4 trường hợp nhập viện vì suyễn trong năm qua chiếm tỉ
lệ 19%, 4 trường hợp vào cấp cứu vì suyễn trong năm qua chiếm tỉ lệ 19%.
Các yếu tố nghi khởi phát cơn suyễn thường gặp là: thay đổi thời tiết (95%), gắng

sức (48%), nhiễm khuẩn hô hấp (38%).
Về thói quen điều trị: Nơi điều trị mỗi khi trẻ lên cơn suyễn thường gặp là bệnh
viện/ trung tâm y tế (57%), phịng khám tư nhân (52%), có đến 24% cha mẹ tự
mua thuốc để điều trị cho trẻ mỗi khi lên cơn suyễn. Về loại thuốc điều trị, có đến


57% trẻ được tiêm thuốc và chỉ có 48% được phun hoặc xịt thuốc mỗi khi lên cơn
suyễn.
Mối liên quan giữa giới tính, địa dư, cân nặng lúc sinh, bú mẹ, số người sống
chung trong nhà, khói thuốc lá và tiền sử bệnh dị ứng của gia đình với khị khè và
suyễn
Mối liên quan giữa “khò khè trong 12 tháng qua” và hút thuốc lá thụ động: Tổng
số điếu thuốc những người sống chung nhà với trẻ hút trung bình mỗi ngày tăng
lên một mức thì nguy cơ bị “khị khè trong 12 tháng qua” tăng 60%, OR = 1,6
(khoảng tin cậy 95% là 1,3 – 1,9), với p< 0,001.
Mối liên quan giữa khò khè trong 12 tháng qua và tiền sử bệnh suyễn và dị ứng
(chàm, viêm mũi dị ứng, viêm xoang) của gia đình: Hầu hết các tiền sử bệnh dị
ứng của gia đình đều làm tăng nguy cơ bị khò khè trong 12 tháng qua ở trẻ, trừ
tiền căn suyễn ở mẹ, viêm mũi dị ứng ở mẹ, viêm xoang ở mẹ và viêm xoang ở
anh em, chúng tơi chưa ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Trong đó, đáng
ghi nhận tiền sử suyễn ở cha và suyễn ở anh em làm gia tăng nguy cơ bị khò khè
trong 12 tháng qua ở trẻ lên lần lượt 7,3 và 4,4 lần.
Mối liên quan giữa giới tính, địa dư, cân nặng lúc sinh, số người trong nhà với khị
khè và suyễn: khơng có ý nghĩa thống kê.
BÀN LUẬN
Tỉ lệ khò khè và tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đốn suyễn
Tỉ lệ khị khè trong 12 tháng qua ở học sinh 6 – 7 tuổi tại Tiền Giang là 9%, ở mức
trung bình – cao. Khi so sánh với các nơi khác, chúng tôi nhận thấy:



Bảng 3: So sánh tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua ở trẻ 6 – 7 tuổi giữa các nơi trong
nước và trên thế giới
Nơi nghiên cứu (năm)

Tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua (%)
Việt Nam

Tiền Giang (2007)

9
TPHCM (2001) (2)

17
Hà Nội (1999) (5)*

14,9
Vùng Châu Á- Thái Bình Dương (chung)

9,6
Bandung, Indonesia


4,1
Hồng Kông

9,1
Đài Bắc, Đài Loan

9,6
Fukuoka, Nhật Bản


11,3
Châu Đại Dương

24,6
Nam Á (Ấn Độ)

5,6
Toàn cầu

11,8
*: Độ tuổi nghiên cứu là 5 – 11
Tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua ở Tiền Giang thấp hơn ở TPHCM (17%) và Hà
Nội (14,9%). Điều này cũng hợp lý bởi vì TPHCM và Hà Nội là 2 đô thị lớn nhất


của Việt Nam, là những nơi có tốc độ đơ thị hóa cao nhất, sự thay đổi lối sống
theo kiểu “Tây phương” nhiều nhất và mức độ ô nhiễm môi trường cũng thuộc
hàng cao nhất cả nước. Nhưng 9% cũng không phải là một tỉ lệ thấp, con số này
thuộc hàng trung bình – cao. Con số này cũng góp phần giảm bớt sự hồi nghi và
góp một tiếng nói chung rằng: Tỉ lệ suyễn ở Việt Nam không hề thấp mà ở mức
cao, ngang với những nước đã phát triển và thuộc hàng cao nhất khu vực Châu Á
Thái Bình Dương
Khi so sánh với kết quả của những nơi khác trên thế giới, tỉ lệ khò khè trong 12
tháng qua của chúng tôi tương đương với tỉ lệ ở Hồng Kông, Đài Bắc và tỉ lệ
chung của vùng Châu Á Thái Bình Dương, cao hơn Indonesia (có tỉ lệ thấp nhất
vùng Châu Á – Thái Bình Dương) nhưng thấp hơn Nhật Bản (có tỉ lệ cao nhất
vùng Châu Á - Thái Bình Dương), thấp hơn nhiều so với Châu Đại Dương (có tỉ lệ
cao nhất thế giới).
Kết quả ISAAC giai đoạn I đã cho thấy trên thế giới, tỉ lệ khò khè 12 tháng qua ở

độ tuổi 6- 7 thay đổi đáng kể, khác nhau đến 5 lần giữa các quốc gia, từ 4,1% ở
Indonesia đến 32,1% ở Costa Rica. Người ta nhận thấy tỉ lệ này thấp hơn ở những
nước đang phát triển so với những nước giàu có và cao nhất ở các nước nói tiếng
Anh. Người ta nghĩ có thể là do yếu tố mơi trường(4).
Trong nghiên cứu của chúng tơi, có 21 trẻ đã từng được bác sĩ chẩn đoán là suyễn,
chiếm tỉ lệ 2,2%. Trong nghiên cứu dịch tễ, có thể xem khị khè 12 tháng qua là
suyễn hiện hành còn từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn là tỉ lệ suyễn cộng dồn.
Với kết quả như trên, chúng tôi nhận thấy tỉ lệ khị khè 12 tháng qua của chúng tơi


(9%) cao hơn nhiều so với tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn (2,2%). Điều
này tương tự kết quả tại TPHCM (tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua và tỉ lệ từng
được bác sĩ chẩn đoán suyễn lần lượt là 17% và 4,5%). Tại Hà Nội hai tỉ lệ này
khác biệt không nhiều (14,9% và 13,9%). Việc tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua
cao hơn tỉ lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn trong nghiên cứu chúng tơi có thể
gợi ý số bệnh nhân suyễn chưa được chẩn đốn tại Tiền Giang cịn chiếm tỉ lệ cao.
Như vậy có thể một số lớn bệnh nhân suyễn đã bị bỏ sót, khơng được chẩn đốn,
điều này thật nguy hiểm vì hậu quả là những trường hợp này không được điều trị
và quản lý.
Khi xem xét ở từng huyện thị về tỉ lệ khò khè trong 12 tháng qua và tỉ lệ từng
được bác sĩ chẩn đoán suyễn (bảng 2), chúng tôi nhận thấy những huyện Cai Lậy,
Châu Thành, Gị Cơng Đơng, Tân Phước có tỉ lệ từng được chẩn đốn suyễn so
với tỉ lệ khị khè trong 12 tháng qua là thấp nhất, tức số trường hợp suyễn chưa
được chẩn đoán rơi nhiều nhất vào những huyện này. Tại thành phố Mỹ Tho và thị
xã Gò Cơng, những con số có vẻ “khả quan” hơn những huyện trên nhưng thật ra
chỉ có khoảng 50% trường hợp khị khè trong 12 tháng qua được chẩn đốn suyễn.
Đây cũng không phải là con số lạc quan.
Kết quả này cũng phù hợp vì thành phố Mỹ Tho và thị xã Gị Cơng là hai đơ thị
của tỉnh. Người dân sống ở những nơi này sẽ có điều kiện thuận lợi hơn những nơi
khác trong việc tiếp cận với chăm sóc y tế và kết quả là tỉ lệ suyễn chưa được chẩn

đoán sẽ thấp hơn.
Đặc điểm các trường hợp từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn


Những kết quả đã thu được cũng phản ánh phần nào gánh nặng suyễn ở Tiền
Giang. Gánh nặng đó gợi ý cho chúng tôi thấy rằng suyễn ở trẻ em Tiền Giang
chưa được kiểm sốt tốt lắm, điều này có thể có nguyên nhân từ sự nhận thức của
cha mẹ bệnh nhi về bệnh lý này và cũng có thể do chương trình kiểm sốt suyễn
trẻ em của ngành y tế tỉnh nhà chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức.
Khi khảo sát về thói quen điều trị bệnh suyễn, chúng tôi nhận thấy mỗi khi trẻ lên
cơn suyễn, những nơi mà cha mẹ thường đưa trẻ đi khám bệnh là bệnh viện hoặc
trung tâm y tế và phòng khám tư nhân, trong đó, có một tỉ lệ khơng thấp (24%)
cha mẹ trẻ tự mua thuốc ở nhà thuốc cho trẻ uống. Thực tế này phản ánh một điều
là bệnh viện hay trung tâm y tế và phòng khám tư nhân là những nơi đóng vai trị
quan trọng trong điều trị và thực hiện chương trình quản lý suyễn trẻ em. Người
dân, nhất là những nơi có trình độ dân trí chưa cao, vẫn cịn thói quen tự mua
thuốc để điều trị cho con mình từ nhà thuốc tây, ngay cả đối với những bệnh quan
trọng như suyễn. Về loại thuốc điều trị mỗi khi trẻ lên cơn suyễn, có đến 57% trẻ
được sử dụng thuốc đường tiêm chích trong khi đó chỉ có khoảng 48% bệnh nhân
được phun hoặc xịt thuốc. Những thói quen điều trị này có thể do bệnh nhân tự
chọn lựa và cũng có thể là thói quen của thầy thuốc.
Mối liên quan với các yếu tố nguy cơ
Kết quả nghiên cứu chúng tôi với có mối liên quan giữa bú mẹ với “từng khị khè”
nhưng không thấy sự liên quan giữa bú mẹ và “khị khè trong năm qua” có thể
được lý giải tương tự như trong nghiên cứu của Wright(6): Có lẽ sữa mẹ bảo vệ


cho trẻ giảm tỉ lệ khò khè ở trong giai đoạn đầu của cuộc đời nhiều hơn là giảm tỉ
lệ khò khè ở thời điểm 6- 7 tuổi.
Mối liên quan với hút thuốc lá thụ động: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi ủng hộ

một điều rằng tổng số điếu thuốc những người sống chung nhà với trẻ hút trung
bình mỗi ngày tăng lên một mức (cách nhau 5 điếu) thì nguy cơ bị “khị khè trong
năm qua” tăng 60%, như vậy có lẽ hút thuốc lá thụ động có quan hệ liều lượng đáp
ứng với khò khè 12 tháng qua ở trẻ.
Mối liên quan với tiền sử các bệnh dị ứng của gia đình: Đáng lưu ý là tỉ lệ khị khè
trong 12 tháng qua ở những trẻ có cha hoặc anh em bị suyễn cao hơn rõ rệt so với
những trẻ có cha, anh em khơng bị suyễn và OR lần lượt là 7,3 và 4,4. Tuy nhiên
mối liên quan giữa tiền sử bệnh suyễn ở mẹ và khị khè 12 tháng qua ở trẻ khơng
có ý nghĩa thống kê, có lẽ do cỡ mẫu chưa đủ lớn.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ khò khè 12 tháng qua ở học sinh 6 – 7 tuổi tại Tiền Giang ở mức trung bình –
cao là 9% ngang với tỉ lệ ở một số nước phát triển, tỉ lệ từng khò khè là 33,2%; tỉ
lệ từng được bác sĩ chẩn đoán suyễn là 2,2%. Chúng tơi dự đốn tỉ lệ suyễn chưa
được chẩn đốn ở mức khá cao. Cịn một tỉ lệ cao (57%) bệnh nhân suyễn được
tiêm thuốc nhưng chỉ có 48% bệnh nhân được phun hay xịt thuốc mỗi khi lên cơn
suyễn. Bệnh viện/ trung tâm y tế và phòng khám tư nhân là những nơi đóng vai trị
quan trọng trong quản lý suyễn trẻ em. Cần có chương trình tầm soát và quản lý
suyễn trẻ em tại Tiền Giang và sắp tới cần có các nghiên cứu theo dõi tỉ lệ khò khè


trẻ em vào thập niên tới tại Tiền Giang cũng như cần có những nghiên cứu sâu hơn
về các yếu tố nguy cơ của khò khè và suyễn.



×