Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Yeu cau phan to trong an thua ke

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.48 KB, 6 trang )

Vấn đề yêu cầu phản tố trong giải quyết một vụ án thừa kế
ThS. Nguyễn Thị Hạnh
Giảng viên Khoa Đào tạo Thẩm phán- Học viện Tư pháp
Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự có yêu cầu phản tố của bị đơn cho thấy, có Tịa
án vẫn cịn nhầm lẫn trong việc xác định yêu cầu phản tố, điều kiện thụ lý yêu cầu phản tố và
giải quyết về mặt nội dung yêu cầu phản tố. Việc nhầm lẫn này dẫn đến hậu quả không bảo
đảm được quyền lợi hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự. Chúng tôi xin nêu một vụ
án cụ thể để minh chứng. Nội dung vụ án như sau:
Cụ Đặng Văn S và cụ Nguyễn Thị T sinh được 8 người con (đã chết 2 người là bà
Đặng Thị X và Đặng Thị B) còn lại 6 người gồm bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị L, Đặng Thị
N, Đặng Thị S, Đặng Thị T và ông Đặng Văn Th. Năm 1996 cụ S chết, năm 1999 cụ T chết,
các cụ không để lại di chúc. Tài sản của các cụ để lại có 1200 m2 đất thổ cư tại phố Y, xã P,
huyện M, tỉnh VP. Khi còn sống, các cụ chưa phân chia tài sản cho ai. Ông Th đang quản lý
400 m2, bà M đang quản lý 400 m2, bà L quản lý 200 m2, bà S quản lý 200 m2.
Ngày 16.8.2005, ông Đặng Văn Th khởi kiện yêu cầu chia thừa kế di sản của bố mẹ
để lại theo pháp luật, khi chia để lại 200 m2 đất phía sau làm nơi thờ cúng tổ tiên, ơng Th yêu
cầu gộp diện tích 400 m2 bà M đang quản lý, sử dụng vào di sản để chia thừa kế và cho rằng
việc bà M cung cấp giấy chuyển nhượng của cụ S năm 1984, của cụ T năm 1997 là giả mạo.
Bị đơn bà Đặng Thị M thống nhất với lời khai của ông Th về người để lại di sản và
người thừa kế. Tuy nhiên, bà cho rằng khi còn sống bố mẹ bà đã chuyển nhượng cho bà diện
tích đất bà đang ở. Trong q trình sử dụng từ năm 1984 đến nay hàng năm bà vẫn đóng thuế
và khơng có ai tranh chấp. Do đó, bà khơng đồng ý sát nhập diện tích đất bà đang ở vào khối
tài sản chung của cụ S, cụ T để chia thừa kế.
Ngày 15.1.2007, bà M có đơn yêu cầu phản tố. Trong đơn, bà đề nghị Tòa án công
nhận quyền sử dụng 400 m2 đất là của bà và chia di sản thừa kế của bố mẹ bà để lại theo
pháp luật, bà đồng ý trích ra 200 m2 đất trong di sản của bố mẹ giao cho ông Th làm nơi thờ
cúng, còn lại chia cho các hàng thừa kế.
Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà L, bà N, bà S, bà T cũng có cùng
quan điểm với ơng Th, u cầu Tịa án chia thừa kế theo pháp luật.
Với nội dung vụ án như trên, bản án dân sự sơ thẩm của Tịa án huyện M đã xử:
- Xác nhận diện tích đất 800 m2 tờ bản đồ số 13 tại khu 5, phố Y, xã T, huyện M có


giá trị 1.6000.00.000 là tài sản chung của cụ Đặng Văn S và cụ Nguyễn Thị T.
- Xác nhận diện tích 400 m2 thửa số 15, tờ bản đồ số 13 tại khu 6, phố Y, xã T, huyện
M là tài sản hợp pháp của bà Đặng Thị M.
- Xác nhận cụ S mất năm 1996, cụ T mất năm 1999 chia thừa kế theo pháp luật tài
sản của cụ S, cụ T có 800 m2.
- Xác nhận hàng thừa kế thứ nhất của cụ S, cụ T gồm bà Đặng Thị M, bà Đặng Thị L,
Đặng Thị N, Đặng Thị S, Đặng Thị T và ông Đặng Văn Th.
Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự giao cho ông Th 200 m2 đất phía sau có trị
giá 400.000.000 đồng làm nơi thờ cúng.
Xác nhận mỗi kỷ phần được hưởng 200.000.000 đồng

1


Giao cho bà M 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp ranh
Giao cho bà L 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp ranh
Giao cho bà N 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp ranh
Giao cho bà S 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp ranh
Giao cho bà T 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp ranh
Giao cho ơng Th 100 m2 đất thổ cư trị giá 200.000.000 đồng có các chiều giáp
ranh
Ngày 8/2/2007, bà Đặng Thị L, Đặng Thị N, Đặng Thị S, Đặng Thị T và ông Đặng
Văn Th có chung kháng cáo, khơng nhất trí với bản án sơ thẩm về việc công nhận 400 m2 đất
thuộc thửa số 15, tờ bản đồ số 13 tại khu 6, phố Y, xã T, huyện M là tài sản của bà M.
Tại bản án phúc thẩm, Tòa án nhân dân tỉnh VP đã nhận định: “Đối với yêu cầu phản
tố của bị đơn là bà M, Hội đồng xét xử thấy: Tịa án sơ thẩm đã thơng báo về việc thụ lý vụ
án từ ngày 22/8/2005, cùng với việc nộp cho Tịa án văn bản ghi ý kiến của mình với u cầu
khởi kiện thì bị đơn có quyền u cầu phản tố với nguyên đơn căn cứ khoản 1, Điều 176
BLTTDS. Trước đó, bà M khơng có u cầu chia cho bà phần đất ông Th và các em đang
quản lý sử dụng tại biên bản hòa giải ngày 29.5.2006. Sau một thời gian dài, đến ngày

15.1.2007 bà M mới có yêu cầu phản tố và chỉ nộp 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đối với
yêu cầu phản tố của mình tại biên lai số 008536 ngày 18.1.2007 trước khi Tịa án có quyết
định đưa vụ án ra xét xử 4 ngày (22.01.2007). Đáng lẽ Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu
cầu phản tố này, giả sử có đủ điều kiện chấp nhận thì ngày thụ lý vụ án là ngày bị đơn nộp
cho Tòa án biên lai nộp tiền tạm ứng án phí căn cứ Điều 178 và khoản 3 Điều 171BLTTDS.
Vì vậy Tịa án cấp phúc thẩm cần sửa bản án, bác yêu cầu phản tố của bà M”.
Trong vụ án này, chúng tôi không bàn đến việc xây dựng hồ sơ vụ án, đánh giá chứng
cứ, giải quyết vụ án về mặt nội dung mà chỉ bình luận liên quan đến vấn đề xác định yêu cầu
phản tố của bà Đặng Thị M cũng như nhận định và quyết định của Toà án tỉnh VP về việc
“bác yêu cầu phản tố của bà M”.
Vấn đề thứ nhất: Về việc xác định yêu cầu phản tố của bà Đặng Thị M
Theo nội dung đơn yêu cầu phản tố của bà M, bà có hai yêu cầu: công nhận quyền sử
dụng 400 m2 đất là của bà và chia di sản thừa kế của bố mẹ bà để lại theo pháp luật. Tòa án
tỉnh VP đã xác định cả hai yêu cầu này đều là yêu cầu phản tố. Vậy, vấn đề đặt ra ở đây là
việc Tòa án xác định cả hai yêu cầu của bà M là u cầu phản tố có chính xác không?
Trong thực tiễn giải quyết vụ án dân sự, nhiều trường hợp còn sự nhầm lẫn giữa yêu
cầu phản tố với ý kiến phản bác của bị đơn. Sự nhầm lẫn này có nguyên nhân xuất phát từ
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) còn chưa rõ ràng, cụ thể để nhận diện được
chính xác về yêu cầu phản tố cũng như nhận thức của một số thẩm phán về vấn đề này cịn
có sự mơ hồ. Việc xác định chính xác yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản tố có ý nghĩa quan
trọng trong giải quyết vụ án dân sự bởi lẽ thủ tục yêu cầu phản tố được thực hiện theo quy
định của BLTTDS về thủ tục khởi kiện của nguyên đơn (Điều 178 BLTTDS) và trong bản án
phải phán quyết cụ thể về yêu cầu phản tố của bị đơn.
Để xác định yêu cầu của công nhận quyền sử dụng 400 m2 đất và yêu cầu chia di sản
thừa kế của bố mẹ để lại theo pháp luật của bà M có phải là yêu cầu phản tố không, chúng ta
cần phải căn cứ vào quy định của pháp luật tố tụng dân sự về vấn đề này. Điều 176 BLTTDS
quy định:
1.
2.
3.

4.
5.
6.

2


“1. Cùng với việc phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu
của người khởi kiện thì bị đơn có quyền u cầu phản tố đối với nguyên đơn.
2. Yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn được chấp nhận khi có một trong
các trường hợp sau đây:
a) Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn;
b) Yêu cầu phản tố được chấp nhận dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc
toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn;
c) Giữa yêu cầu phản tố và yêu cầu của nguyên đơn có sự liên quan với nhau và nếu
được giải quyết trong cùng một vụ án thì làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và
nhanh hơn”.
Trên cơ sở quy định của Điều 176 BLTTDS, Mục 11, Phần I Nghị quyết số
02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai “Thủ tục giải quyết
vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm” của BLTTDS đã hướng dẫn cụ thể như sau:
“11.1. Được coi là yêu cầu phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn, nếu yêu cầu đó độc lập, không cùng về yêu
cầu mà nguyên đơn yêu cầu Tồ án giải quyết. Trường hợp bị đơn có u cầu cùng về yêu cầu của nguyên đơn
(như yêu cầu Tồ án khơng chấp nhận u cầu của ngun đơn hoặc chỉ chấp nhận một phần yêu cầu của
nguyên đơn), thì đây là ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn..
11.2. Yêu cầu phản tố để bù trừ nghĩa vụ với yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp bị đơn có nghĩa vụ đối với
nguyên đơn và nguyên đơn cũng có nghĩa vụ đối với bị đơn; do đó, bị đơn có u cầu Tồ án giải quyết để bù trừ
nghĩa vụ mà họ phải thực hiện theo yêu cầu của nguyên đơn.
11.3. Yêu cầu phản tố của bị đơn dẫn đến loại trừ việc chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn
là trường hợp bị đơn có yêu cầu phản tố lại đối với nguyên đơn và nếu yêu cầu đó được chấp nhận, thì loại trừ
việc chấp nhận một phần hoặc tồn bộ u cầu của ngun đơn vì khơng có căn cứ.

11.4. Có sự liên quan giữa u cầu phản tố của bị đơn và yêu cầu của nguyên đơn là trường hợp hai yêu cầu này
có mối quan hệ với nhau và nếu được giải quyết trong cùng một vụ án, thì làm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác và nhanh chóng hơn.”
Về u cầu thứ nhất của bà M: Trong vụ án trên, nguyên đơn (ơng Th) và những
người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có hai yêu cầu, đó là yêu cầu gộp 400 m2 đất mà bà M
đang quản lý vào di sản thừa kế và yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ để lại, còn bà M
yêu cầu cơng nhận 400 m2 đất đó là của bà. Từ yêu cầu của các đương sự trong vụ án có thể
khẳng định rằng: đối tượng tranh chấp ở đây là 400 m2 đất bà M đang quản lý, các bên
đương sự thống nhất về việc chia di sản thừa kế và đều có yêu cầu chia. Bên nguyên đơn ông
Th và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho rằng: 400 m2 đất này là tài sản của bố mẹ
để lại vì vậy yêu cầu xác định là di sản thừa kế. Còn bị đơn bà M khẳng định 400 m2 đất đó
khơng cịn là di sản thừa kế mà là tài sản của bà và yêu cầu cơng nhận quyền sử dụng diện
tích đất đó cho bà. Đối chiếu với nội dung các quy định của pháp luật đã viện dẫn nêu trên,
tác giả cho rằng việc Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm xác định yêu cầu này của bà M là yêu cầu
phản tố là chính xác vì đây là một u cầu mới, độc lập, không cùng với yêu cầu của nguyên
đơn; những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Yêu cầu này của bà M nếu được chấp
nhận sẽ dẫn đến loại trừ yêu cầu của nguyên đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với yêu cầu thứ hai của bà M: Nguyên đơn (ông Th) yêu cầu chia di sản thừa kế
của bố mẹ để lại và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có cùng u cầu với ơng
Th. Mặc dù trước đó, bà M không yêu cầu chia di sản thừa kế của bố mẹ để lại nhưng trong

3


đơn yêu cầu phản tố, bà M cũng có yêu cầu chia di sản thừa kế, là quyền sử dụng đất mà ông
ông Th, bà L, bà S đang quản lý. Đây là quyền của đương sự trong tố tụng dân sự. Trước khi
mở phiên tịa, BLTTDS khơng có quy định giới hạn thời hạn quyền yêu cầu của đương sự.
Tại phiên tịa, đương sự có quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu không vượt quá phạm vi yêu cầu
ban đầu. Rõ ràng, yêu cầu này của bà M không mang tính độc lập mà cùng yêu cầu với yêu
cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nên chúng tôi cho rằng không

thể xác định là yêu cầu phản tố. Như vậy, không phải mọi yêu cầu của bị đơn đối với nguyền
đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự đều là yêu cầu phản tố. Theo
quan điểm của tác giả, trong vụ án thừa kế, chia tài sản chung không chỉ nguyên đơn mà các
đương sự khác là bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan cũng có quyền yêu cầu chia
tài sản thừa kế, chia tài sản chung. Tương tự như vậy, trong vụ án ly hơn khơng chỉ ngun
đơn mà cả bị đơn đều có quyền yêu cầu ly hôn, nuôi con và chia tài sản. Vì vậy, với nhận
định :“Trước đó, bà M khơng có u cầu chia cho bà phần đất ơng Th và các em đang quản
lý sử dụng tại biên bản hòa giải ngày 29.5.2006. Sau một thời gian dài, đến ngày 15.1.2007
bà M mới có u cầu phản tố”, Tịa án tỉnh VP đã xác định yêu cầu chia di sản thừa kế của
bà M là yêu cầu phản tố, tác giả cho rằng khơng chính xác.
Vấn đề thứ hai: Về nhận định và quyết định của Toà án tỉnh VP “bác yêu cầu
phản tố của bà M”.
Liên quan đến vấn đề này, có 2 nội dung cần trao đổi:
Thứ nhất: Thời hạn bị đơn có quyền yêu cầu phản tố trong quá trình giải quyết vụ án
dân sự được quy định tại Điều 175, 176 BLTTDS. Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều
175 BLTTDS và khoản 1 Điều 176 BLTTD thì trong thời hạn thơng báo thụ lý vụ án 15
ngày hoặc 30 ngày (trong trường hợp gia hạn) kể từ ngày nhận được thông báo thụ lý vụ án
thì bị đơn có quyền u cầu phản tố đối với nguyên đơn (khoản 26 Điều 1 Luật sửa đổi, bổ
sung một số điều của BLTTDS quy định bổ sung bị đơn có quyền phản tố đối với người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập). Có nghĩa là, từ thời điểm nộp cho Toà án
văn bản ghi ý kiến của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn; người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có u cầu độc lập thì bị đơn bắt đầu có quyền yêu cầu phản tố. Song, ở thời điểm
giải quyết vụ án này BLTTDS chỉ quy định về thời điểm bắt đầu bị đơn có quyền đưa ra yêu
cầu phản tố mà không quy định thời điểm kết thúc của thời hạn bị đơn đưa ra yêu cầu phản
tố. Và như vậy, bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố ở bất cứ thời điểm nào trong q
trình giải quyết vụ án ở Tồ án cấp sơ thẩm. Cho nên, với nhận định của Tịa án tỉnh
VP:(“Trước đó, bà M khơng có u cầu chia cho bà phần đất ông Th và các em đang quản
lý sử dụng tại biên bản hòa giải ngày 29.5.2006. Sau một thời gian dài, đến ngày 15.1.2007
bà M mới có yêu cầu phản tố và chỉ nộp 50.000 đồng tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu
phản tố của mình tại biên lai số 008536 ngày 18.1.2007 trước khi Tịa án có quyết định đưa

vụ án ra xét xử 4 ngày (22.01.2007). Đáng lẽ Tòa án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu phản
tố này, giả sử có đủ điều kiện chấp nhận thì ngày thụ lý vụ án là ngày bị đơn nộp cho Tòa án
biên lai nộp tiền tạm ứng án phí căn cứ Điều178 và khoản 3 Điều 171BLTTDS. Vì vậy Tịa
án cấp phúc thẩm cần sửa bản án, bác yêu cầu phản tố của bà M”) theo quan điểm của tác
giả là không đúng các quy định của BLTTDS đã phân tích nêu trên. Bởi lẽ, nội dung nhận
định này cho thấy, Tòa án tỉnh VP đã không chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn
là do bị đơn đưa ra yêu cầu phản tố quá thời hạn quy định tại Điều 176 BLTTDS. Điều này

4


đã dẫn đến việc không bảo đảm quyền của bị đơn trong tố tụng dân sự, làm cho việc giải
quyết vụ án khơng chính xác, triệt để.
Vì BLTTDS khơng quy định về thời điểm kết thúc của thời hạn bị đơn đưa ra yêu cầu
phản tố nên việc áp dụng quy định tại khoản 1 Điều 176 BLTTDS của các Toà án trong thực
tiễn giải quyết các vụ án dân sự khơng thống nhất. Các Tồ án đã chấp nhận xem xét yêu cầu
phản tố của bị đơn (thụ lý yêu cầu phản tố) ở các thời điểm khác nhau trong q trình giải
quyết vụ án. Có Tồ án chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố của bị đơn đến thời điểm ra quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm. Có Tồ án chỉ chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố của bị
đơn trong thời hạn thông báo thụ lý vụ án (15 hoặc 30 ngày kể từ ngày nhận được thơng báo
thụ lý). Có những vụ án, tại phiên tòa bị đơn mới đưa ra yêu cầu phản tố và đề nghị Hội đồng
xét xử chấp nhận xem xét, giải quyết. Trong trường hợp này, đương sự đã lập luận rằng
BLTTDS đã khơng có quy định giới hạn thời điểm bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố
nên tại phiên tòa bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố. Với quan điểm tạo sự thống nhất
trong việc xác định thời hạn bị đơn có quyền yêu cầu phản tố trong tố tụng dân sự, Luật sửa
đổi bổ sung một số điều của BLTTDS đã bổ sung quy định tại Điều 176 “Bị đơn có quyền
đưa ra yêu cầu phản tố cho đến trước khi Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ
thẩm”. Quy định này phù hợp với các nguyên tắc cơ bản, bảo đảm được quyền của các
đương sự trong tố tụng dân sự.
Thứ hai: Vì cho rằng bà M đã đưa ra yêu cầu phản tố quá thời hạn quy định tại Điều

176 BLTTDS nên Tòa án tỉnh VP nhận định: “bác yêu cầu phản tố của bà M” và do đó
trong phần quyết định của bản án phúc thẩm cũng đã: “bác yêu cầu phản tố của bà M đòi
chia di sản thừa kế trên diện tích đất của ơng Th, bà , bà đang quản lý” điều này là không
đúng quy định của pháp luật, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bà M.
Trong quá trình giải quyết vụ án dân sự, khi bị đơn đưa ra u cầu thì trước hết Tịa
án phải xem xét yêu cầu đó có phải là yêu cầu phản tố theo quy định tại khoản 2 Điều 176
BLTTDS và hướng dẫn tại Mục 11, Phần 11 Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn
thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án dân sự tại Tòa án cấp sơ
thẩm” của BLTTDS. Khi đã xác định được chính xác yêu cầu của bị đơn là yêu cầu phản tố
thì tiếp theo là phải xác định có đủ điều kiện để thụ lý yêu cầu đó khơng. Nếu đủ điều kiện
thụ lý thì Tịa án chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố. Điều kiện thụ lý yêu cầu phản tố cũng
phải tuân thủ điều kiện thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đồng thời phải bảo đảm điều
kiện về thời hạn yêu cầu phản tố. Nếu không đủ điều kiện thụ lý u cầu phản tố thì Tịa án
khơng chấp nhận xem xét yêu cầu phản tố (không thụ lý yêu cầu). Khi đã chấp nhận xem
xét yêu cầu phản tố, Tòa án phải có trách nhiệm giải quyết yêu cầu đó trong cùng một vụ án.
Kết quả của việc giải quyết u cầu là Tịa án có thể chấp nhận hoặc khơng chấp nhận u
cầu (một phần hoặc tồn bộ).
Như vậy, cần phân biệt không thụ lý yêu cầu phản tố với giải quyết về mặt nội dung
yêu cầu phản tố của bị đơn. Nếu nhầm lẫn sẽ dẫn đến trường hợp không đủ điều kiện thụ lý
yêu cầu phản tố nhưng trong bản án lại quyết định “bác yêu cầu phản tố…” và hậu quả là
đương sự bị mất quyền khởi kiện đối với yêu cầu này. Bởi lẽ, theo quy định tại điểm c,
khoản 1, Điều 168 BLTTDS (đã được sửa đổi, bổ sung) thì Tịa trả lại đơn khởi kiện trong
các trường hợp sau: “b) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Toà án hoặc quyết định đã có hiệu lực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền,

5


trừ trường hợp vụ án mà Toà án bác đơn xin ly hôn, xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp
dưỡng, mức bồi thường thiệt hại, xin thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di

sản hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho
thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Toà án chưa chấp nhận yêu cầu do chưa đủ điều kiện khởi
kiện”
Từ các phân tích trên cho thấy, trong giải quyết vụ án dân sự rất cần thiết phải phân
biệt các khái niệm: khôngchấp nhận xem xét yêu cầu và không chấp nhận yêu cầu. Qua
nghiên cứu các bản án dân sự tác giả thấy: khi không chấp nhận yêu cầu của đương sự nhiều
bản án vẫn sử dụng cụm từ “bác yêu cầu”. Mặc dù, xét về bản chất của “bác yêu cầu” và
“không chấp nhận yêu cầu” là giống nhau song BLTTDS không sử dụng cụm từ “bác yêu
cầu”. Tại khoản 4 Điều 238 BLTTDS quy định cách viết bản án sơ thẩm đã khẳng định:
“Trong nhận định của Tịa án phải phân tích những căn cứ để chấp nhận hoặc không chấp
nhận yêu cầu, đề nghị của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự”. Một trong những yêu cầu của soạn thảo bản án là phải bảo đảm tính chính xác.Vì vậy,
khi soạn thảo bản án dân sự tác giả cho rằng các Thẩm phán cần sử dụng thuật ngữ pháp lý
theo đúng quy định của BLTTDS.
Trở lại vụ án, do cho rằng không đủ điều kiện thụ lý yêu cầu phản tố của bà M, Tịa án
phải khẳng định việc khơng chấp nhận xem xét yêu cầu này và nhận định rõ trong phần “xét
thấy” của bản án tại sao không chấp nhận xem xét yêu cầu của đương sự, vỉ vậy không thể
nhận định và quyết định“bác yêu cầu phản tố của bà M” được.
Trên đây là quan điểm của tác giả về vấn đề yêu cầu phản tố trong giải quyết một vụ án
thừa kế, rất mong nhận được ý kiến trao đổi từ bạn đọc.

6



×