Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.2 KB, 16 trang )

Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia là một trong những vấn đề hàng đầu
mà nhà đầu tư quan tâm khi quyết định thực hiện đầu tư.
Trong những năm qua, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam đã có những bước
phát triển, đáp ứng phần nào yêu cầu phát triển kinh tế xã hội nói chung và khẳng
định được vai trò của lĩnh vực này đối với quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài nói riêng.
Tuy nhiên, bên cạnh sự phát triển đó, cơ sở hạ tầng kỹ thuật của chúng ta đã và
đang bộc lộ hạn chế về nhiều mặt, chẳng hạn sự xuống cấp của hệ thống giao thông
đường bộ, đường sắt, phí bưu điện khá cao Dẫn đến vai trò của lĩnh vực cơ sở hạ
tầng kỹ thuật bị suy giảm, xuất hiện nguy cơ về sự giảm sút của vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài.
Xuất phát từ thực tiễn trên, với sự tìm hiểu và nghiên cứu của mình, em đã
nhận thức được rõ vai trò và tầm quan trọng của lĩnh vực cơ sở hạ tầng kỹ thuật với
quá trình thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài . Đây là lý do em chọn đề tài:
Trang 1
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
"Thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội( đường xá, cầu cống, trường
học…) tại Việt Nam "
Nhưng vì cơ sở hạ tầng kỹ thuật là một khái niệm riêng bao gồm một hệ thống
các công trình như cấp điện, cấp nước, giao thông, nhà ở, thông tin liên lạc mà thời
gian nghiên cứu hạn chế, nên chúng em chỉ giới hạn ở việc tìm hiểu một số bộ phận
như cấp điện, giao thông, thông tin liên lạc.
Kết cấu bài viết ngoài phần mở đầu và phần kết luận còn bao gồm:
Phần I: Khái quát chung.
Phần II: Thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội tại Việt Nam.
Phần III: Giải pháp về vấn đề hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật ở Việt Nam.
Do trình độ lý luận và thực tiễn còn hạn chế, bài viết này của em không thể
tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy, em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của cô


nhằm giúp đỡ chúng em trau dồi và nắm chắc hơn những gì mình đã học, những gì
mình có thể vận dụng vào thực tiễn.
Trang 2
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Phần I: Khái quát chung
1.1 Khái niệm và phân loại.
1.1.1 Khái niệm:
Cơ sở hạ tầng là tổ hợp các công trình vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ
trực tiếp dịch vụ sản xuất đời sống của dân cư được bố trí trên một phạm vi lãnh thổ
nhất định. Cơ sở hạ tầng có thể được hiểu là hệ thống giao thông vận tải, đường bộ,
đường sông, đường sắt, đường hàng không, đường ống, hệ thống liên lạc viễn thông,
hệ thông cung cấp năng lượng, nước…
Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển quá trình tiến hành các hoạt động chỉ là
sự kết hợp giản đơn giữa 3 yếu tố đó là lao động, đối tượng lao động và tư liệu lao
động chưa có sự tham gia của cơ sở hạ tầng. Nhưng khi lực lượng sản xuất đã phát
triển đến trình độ cao thì để sản xuất có hiệu quả cần có sự tham gia của cơ sở hạ
tầng. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật được phát triển mạnh mẽ gắn liền với cuộc cách mạng
công nghiệp từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19.
Bên cạnh đó, chính vì sự phát triển mạnh mẽ của cơ sở hạ tầng kỹ thuật mà nó
thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội từ cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20.
Hiện nay, chúng ta đang tiến hành phát triển cơ sở hạ tầng ở giai đoạn 3. Giai đoạn
vừa phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật vừa phát triển cơ sở hạ tầng xã hội. Như vậy, khi
khoa học kỹ thuật ngày càng được nâng cao thì cơ sở hạ tầng càng phát triển.
1.1.2 Phân loại.
Căn cứ vào chức năng, tính chất và đặc điểm ngời ta chia các công trình cơ sở
hạ tầng thành 3 loại
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
- Cơ sở hạ tầng xã hội.
Trang 3
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7

- Cơ sở hạ tầng môi trờng
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật là các công trình phục vụ cho sản xuất và đời sống bao
gồm: các công trình thiết bị chuyển tải và cung cấp năng lượng, mạng lưới giao thông,
cấp thoát nước, thông tin liên lạc.
Cơ sở hạ tầng xã hội bao gồm các công trình phục vụ cho các địa điểm dân cư
như nhà văn hoá, bệnh viện, trường học, nhà ở và các hoạt động dịch vụ công cộng
khác. Các công trình này thường gắn với các địa điểm dân cư làm cơ sở góp phần ổn
định, nâng cao đời sống dân cư trên vùng lãnh thổ.
Cơ sở hạ tầng môi trờng là toàn bộ hệ thống vật chất kỹ thuật phục vụ cho việc
bảo vệ, giữ gìn và bảo vệ môi trường sinh thái của đất nước và môi trường sống của
con người.
Hệ thống này bao gồm các công trình phòng chống thiên tai, các công trình bảo
vệ đất đai, vùng biển và các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
1.2.Đặc điểm:
Hệ thống cơ sở hạ tầng có nhiều đặc điểm riêng biệt khác với hệ thống kinh tế
xã hội khác. Đứng dưới góc độ đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cần xem xét các đặc
điểm sau:
Bản thân hệ thống cơ sở hạ tầng là một tập hợp các công trình xây dựng có vốn
đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài thường là thông qua các hoạt động kinh tế khác
để thu hồi vốn.
Trong cơ chế thị trường hiện nay, đồng vốn luôn vận động một cách năng động
và chịu sự chi phối của lợi nhuận, nơi nào có lợi nhuận cao, thời gian thu hồi vốn
nhanh thì sẽ được đầu tư nhiều và ngược lại. Vì thế, lĩnh vực kinh doanh cơ sở hạ tầng
Trang 4
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
kỹ thuật thường được các nhà đầu tư ít quan tâm hơn là dịch vụ kinh doanh buôn bán
khác.
Các công trình cơ sở hạ tầng mang tính xã hội hoá cao, có nhiều đặc tính của
hàng hoá công cộng. Tuy nhiên, cơ sở hạ tầng thì không chỉ có sự tham gia của chính
phủ mà còn có sự đóng góp của khu vực tư nhân, còn hàng hoá công cộng về cơ bản

do chính phủ cấp, chính phủ là người đứng ra bỏ vốn đầu tư xây dựng mà chủ yếu là
vốn từ ngân sách, tư nhân thì rất ít, đầu tư thì các công trình này thường có vốn đầu tư
hơn, thời gian thu hồi vốn chậm, thậm chí rất khó thu hồi vốn.
Hệ thống các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật mang tính kỹ thuật cao, quy mô
lớn nó không chỉ đáp ứng nhu cầu cuộc sống, sản xuất, dịch vụ, đời sống con người
trong hiện tại và cả trong tương lai nữa. Mặt khác, thời gian tồn tại của các công trình
cơ sở hạ tầng trên lãnh thổ là rất lâu dài. Vì thế những sai lầm trong bố trí địa điểm,
áp dụng công nghệ sẽ đều phải trả giá rất đắt. Do đó, yêu cầu khi xây dựng cơ sở hạ
tầng bên cạnh việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học kỹ thuật, phải căn
cứ vào quy hoạch phát triển vùng và dự kiến được những biến động trong tương lai.
Các công trình cơ sở hạ tầng trên phạm vị lãnh thổ có chức năng phục vụ sản
xuất và đời sống. Tuy vậy, nếu xét về bản chất kết quả hoạt động của các cơ sở hạ
tầng lại là từ dịch vụ chứ không phải là sản xuất vật chất cụ thể chẳng hạn dịch vụ
bưu chính viễn thông, giáo dục đào tạo đây chính là điểm phân biệt giữa cơ cở hạ tầng
với các ngành sản xuất vật chất khác.
Trang 5
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Phần II: Thực trạng hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội tại Việt
Nam.
2.1. Hệ thống giao thông.
Hệ thống giao thông Việt nam được đưa vào khai thác từ hơn 100 năm nay.
Trong cả thời gian này không được đầu tư đúng mức để bảo dưỡng, cải tạo, nâng cấp.
Vì vậy sau một thời gian dù khai thác và trải qua hai cuộc chiến tranh, đến nay hệ
thống giao thông Việt Nam không đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế.
Từ cuối những năm 80, Chính phủ Việt nam đã dành ưu tiên nguồn vốn NSNN
và tín dụng ra ưu đãi đầu tư nước ngoài cho các dự án cải tạo, nâng cấp và xây dựng
mới đường bộ, đường sắt, cảng biến và hàng không. Đến nay, nước ta đã có một mạng
lưới giao thông khá đa dạng về số lượng, mật độ và loại hình phong phú. Song chất
lượng còn chưa cao.
2.1.1. Đường bộ:

Mạng lưới đường bộ Việt Nam dài khoảng 210 000 km trong đó quốc lộ và tỉnh
lộ là 56 000 km, mật độ đường bộ trên 100 km2 là 16,16km. Tỷ số này không phải là
thấp so với các nước trong khu vực.
Về hệ thống : có 3 trục Bắc–Nam trong quốc lộ 1 từ Lạng Sơn đến Cà Mau dài
2300km. Bên cạnh đó chúng ta đã xây dựng được một số công trình giao thông quan
trọng, công trình có kỹ thuật cao như: cầu Thăng Long, cầu Chương Dương, tuyến
đường Thăng Long-Nội Bài, đường 5 … củng cố nâng cấp một số tuyến giao thông
nội thị ở các thành phần phố lớn.
Đang khởi công xây dựng công trình trọng điểm, cải thiện các đầu mối và các
trục chính ở các vùng kinh tế trọng điểm: Bắc Bộ, Nam Bộ và Miền Trung. Tuy
nhiên, đường bộ của ta còn hẹp mặt đường xấu và mới có 60% quốc lộ và tính lộ
được nhựa hoá. Theo kết quả điều tra cho đến năm 95 trên địa bàn cả nước.
Trang 6
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
- Đường rải nhựa chiếm 22%
- Đường nhựa bán thành nhập 38%
- Đường đá 15%
- Đường đất 25%
2.1.2. Đường sắt:
Mật độ đường sắt nước ta là 0,8 km/100km2 trong đó đường sắt Bắc Nam dài
1726 km, tuyến Hà Nội - Lào Cai 230 km, tuyến Hà Nội-Hải Phòng 100km. Hai
tuyến trên vận tải quốc tế Hà Nội - Trung Quốc là Hà Nội-Đồng Đăng -Bắc Kinh và
Hà Nội-Lào Cai-Côn Minh. Đường sắt Bắc Nam đang được củng cố, nâng cấp nhưng
hệ thống này đang ở vào thế độc tuyến. Chỉ cần một ách tắc nhỏ tại một địa điểm sẽ
làm cho cả hệ thống phải tạm dừng hoạt động.
2.1.3. Đường biển:
Hệ thống cảng phân bố đều ở cả ba miền với bờ biển dài 3.200 km, quy mô và
tổng công suất trên chục triệu tấn. Mặc dù đã có những hải cảng quốc tế như Sài Gòn,
Đà Nẵng, Hải Phòng đón nhận tàu các nước ra vào. Song đó chỉ là số ít, phần lớn các
cảng biển nước ta không đảm nhận được những tàu trọng tải lớn vì vậy chi phí cho

việc bốc dỡ hang hoá cao do phải chuyển tải. Bên cạnh đó hệ thống dịch vụ ở các
cảng này cũng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển.
2.1.4. Hàng không:
Hiện có gần 100 vị trí sân bay lớn nhỏ trong nước, trong số gần 20 sân bay đã
được đưa vào khai thác sử dụng, có 3 sân bay cấp IV là Nội Bài, Tân Sơn Nhất và Đà
Nẵng đạt tương đương tiêu chuẩn quốc tế.
Trang 7
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
2.2. Bưu chính viễn thông:
Đã triển khai chiến lược tăng tốc, mạng thông tin mở rộng nhanh, đi vào kỹ
thuật hiện đại hoà nhập với quốc tế, các dịch vụ bưu chính viễn thông đang có nhiều
cố gắng cải thiện đáp ứng yêu cầu sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội nói chung và thu
hút FDI nói riêng.
Tuy phát triển tăng tốc song còn ở mức độ thấp, mới chỉ tập trung ở đô thị, đáp
ứng được nhu cầu trước mắt với chất lượng chưa cao và chi phí đắt. Mạng cáp nội hạt
quá cũ , bố trí cáp treo thiếu quy hoạch, kém an toàn và mất mỹ quan. Mạng viễn
thông có hệ thống thiết bị chưa đồng bộ, tồn tại nhiều hệ khác nhau, chưa phát triển
nhiều dạng thông tin, giá cả còn mang tính độc quyền.
2.3. Cung cấp điện.
Đã phát triển nhanh chóng nguồn điện, đến năm 98 sản lượng điện đạt 21,77 tỷ
kwh, tốc độ tăng sản lượng điện thời kỳ 91-95 đạt bình quân 10,2%/ năm với việc đưa
vào vận hành đường dùng 500 KV Bắc Nam tạo điều kiện khai thác hợp lý các nguồn
điện trong cả nước, cung cấp điện an toàn, liên tục cho nhu cầu các vùng và toàn bộ
đất nước.
Cung cấp điện năng bình quân đầu người tăng lên đáng kể ( năm 90: 135 Kwh,
95: 175 kwh, 98: 279 kwh). Hệ thống lưới chuyển tải được mở rộng, lưới phân phối
được cải tạo hoàn thiện từng bước. Đến nay đã có 85% số huyện và 60% số xã được
cung cấp điện từ lưới điện quốc gia.
Tuy nhiên, thời gian qua phát triển nguồn điện chưa cân đối về cơ cấu, thủy
điện chiếm tỷ trọng cao gần 71% cả về công suất lẫn sản lượng, gây ra tính kém ổn

định của hệ thống. Tổn thất điện năng còn lớn, hiệu suất của các nhà máy nhiệt điện
còn rất thấp, tiêu hao nhiên liệu cao, máy móc thiết bị cũ kỹ lạc hậu.
Trang 8
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
2.4. Hệ thống cấp nước.
Hệ thống cấp nước đô thị cũng trì trệ không kém. Trong tổng số 689 đô thị trên
toàn quốc hiện vẫn còn gần 400 đô thị nhỏ chưa có hệ thống cấp nước tập trung. Tổng
công suất thiết kế của các nhà máy nước sinh hoạt đạt 3.2 đến 3.6 triệu m3/ngày đêm,
công suất khai thác chỉ đạt 2.2 m3/ngày đêm. Rõ ràng, hệ thống cấp nước đô thị mới
chỉ đáp ứng yêu cầu của 60% dân số đô thị với mức tiêu thụ bình quân 80
lít/người/ngày đêm. Trong khi đó tỷ lệ thất thoát, thất thu vẫn cao trên 30%, có nơi tỷ
lệ này lên tới 45%. Đặc biệt tại các khu đô thị cũ mạng lưới đường ống cũ và đường
kính nhỏ, khó đảm bảo cấp nước liên tục đặc biệt trong mùa khô hạn. Trong khi đó,
hệ thống còn lạc hậu và thiếu sự đồng bộ cần thiết. Có thể khẳng định, tại các đô thị
của Việt Nam hệ thống thoát nước chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội. Phần lớn hệ thống là chung cho thoát nước mưa và cả nước thải, được xây dựng
trên địa hình tự nhiên, nước tự chảy và độ dốc thủy lực thấp. Cho đến nay, chưa đô thị
nào có được trạm xử lý nước thải sinh hoạt. Cũng như hệ thống cấp nước, hệ thống
thoát nước của các thành phố lớn chỉ mới đáp ứng 60% nhu cầu trong khi các đô thị
khác phạm vi phục vụ chỉ đạt 20-25%. Theo đánh giá của các công ty thoát nước, môi
trường đô thị tại các địa phương hiện nay, 50% tuyến cống đã bị hư hỏng, 30% tuyến
cống đã bị xuống cấp, chỉ còn khoảng 20% tuyến cống mới xây dựng là còn tốt. Hệ
quả tất yếu là ngập úng xảy ra thường xuyên đặc biệt là trong những năm gần đây khi
tốc độ xây dựng tăng mạnh. Số điểm ngập úng ngày càng nhiều và thời gian ngập úng
kéo dài 2-3 tiếng đồng hồ.
Trang 9
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Phần III: Giải pháp về hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật xã hội tại Việt
Nam.
Trong công tác quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng Việt Nam hiện còn nhiều

khiếm khuyết như: thiếu quy hoạch đồng bộ tổng thể, thiếu hợp tác liên kết với các tổ
chức quy hoạch hàng đầu thế giới, việc làm quy hoạch có tính khép kín trong các
ngành và lĩnh vực có tính kỹ thuật, thiếu một tầm nhìn kinh tế tổng thể.
Để khắc phục những khiếm khuyết trên đây, cần phải xem xét và định hướng
lại công tác quy hoạch xây dựng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam.
3.1 Chính phủ cần lập một tổ tư vấn liên ngành nghiên cứu xác định một hệ quan
điểm phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam.
Hệ quan điểm phát triển cơ sở hạ tầng, không chỉ xác định những quan điểm
phát triển cho từng lĩnh vực, quan trong hơn là những quan điểm phát triển cơ sở hạ
tầng có tính liên hoàn, phối hợp. Trong tổ tư vấn này không chỉ gồm quan chức, mà
cần các chuyên gia độc lập, không chỉ gồm các nhà kỹ thuật, mà còn phải có cả các
nhà kinh tế.
Hệ quan điểm phát triển trên đây sẽ được Chính phủ xem xét quyết đinh, và
đây sẽ là cơ sở để các ngành xây dựng các quy hoạch cho mình.
Cần có sự hợp tác với các cơ quan tư vấn quy hoạch hàng đầu thế giới, để tiếp
cận các ý tưởng quy hoạch mới mẻ, để nhờ họ đánh giá, phản biện các bản quy hoạch
của các ngành. Điều nay sẽ đảm bảo cho các bản quy hoạch Việt Nam có tính hiện đại
hơn.
3.2 Xây dựng cơ sở hạ tầng phải ưu tiên tập trung trước hết ở hai tuyến phát
triển kinh tế trọng điểm quan trọng nhất.
Trang 10
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Hai tuyến này là Hà Nội – Hải Phòng, Hồ Chí Minh – Vũng Tàu. Hai tuyến
phát triển này cần sớm có đường bộ cao tốc hiện đại, đường sắt tốc độ cao hai chiều,
đường sông, sân bay quốc tế hiện đại, cảng nước sâu… Đi theo hai tuyến phát triển
này sẽ là nhưng chuỗi đô thị liên hoàn với các khu công nghiệp, ở mỗi tuyến phát
triển cần xây dựng những cửa mở liên thông với khu vực và thế giới – đó là những
khu kinh tế tự do. Từ thực tế hai tuyến phát triển này mà mở them các tuyến phát triển
ở miền Trung.
3.3. Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo trong việc xây dựng cở sở hạ tầng trên

các phương tiện.
Xây dựng quy hoạch phát triển, giải phóng mặt bằng.
Đầu tư xây dựng những công trình sau đó, nhượng lại cho tư nhân quản lý khai
thác, nhà nước rút vốn ra làm các công trình khác. Đây là phương thức rất hiệu quả
mà nhiều nước đã làm.
Trong một số lĩnh vực cơ sở hạ tầng, Nhà nước có vai trò độc quyền, nhưng
nhà nước phải vận hành theo các nguyên tắc thị trường, chẳng hạn định giá điện, giá
nước… phải theo thị trường – có thể lấy giá thị trường khu vực làm chuẩn để điều
chỉnh phù hợp.
Việc huy động nguồn vốn khi vực tư nhân vào xây dựng cơ sở hạ tầng theo các
hình thức BOT, BT… là hoàn toàn cần thiết, đã và đang được áp dụng ở Việt Nam.
Trong một số lĩnh vực có thể huy động cả vốn đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
năng lượng, tuy nhiên cần có hình thức phù hợp, đảm bảo lợi ích hợp lý cho các nhà
đầu tư.
3.4. Định hướng phát triển giao thông vận tải.
Trang 11
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Trước hết các đường giao thông nên trước hết theo hướng Đông – Tây, hướng
ra các cảng biển.
Vận tải hàng hóa phải lấy vận tải đường biển là chính, Việt Nam có 3260 km
bờ biển với hàng chục cảng biển nối với nhiều con sông vào sâu nội địa. Vận tải thủy,
pha sông biển, đa phương thức kết hợp phải là định hướng chính, vừa đảm bảo chi phí
thấp, vừa giảm tải cho các tuyến đường bộ, đường sắt.
Hệ thống đường sắt phải được hiện đại hóa theo hướng nâng tốc độ tàu chạy
trên 100 km.giờ, với hai chiều, xây them các tuyến đường sắt mới theo hướng Đông –
Tây, trước hết là Hồ Chí Minh đi Vũng Tàu.
Hệ thống vận tải hàng không phải được điều chỉnh theo hướng liên kết với các
hãng hàng không quốc tế mở thẳng đường bay từ Hà Nội, Hồ Chí Minh đến tất cả các
thành phố lớn trên thế giới, cần có phương án mở cửa bầu trời cho vận tải hàng hóa
quốc tế, xây dựng một số sân bay quốc tế hiện đại có thể kêu gọi vốn FDI ngang tầm

khu vực.
3.5. Quy hoạch phát triển đô thị phải tho quy hoạch phát triển hạ tầng cơ sở.
Các đô thị Việt Nam hiện phát triển đã vượt qua các cơ sở hạ tầng cơ sở, đô thị
hóa đã đi xa hơn tốc độ phát triển hạ tầng cơ sở. Tình trạng tắc nghẽn giao thông,
thiếu điện, thiếu nước là điều khó tránh khỏi.
Do vậy quy hoạch phát triển hạ tầng cơ sở phải đi trước, và quy hoạch xây
dựng đô thị phải dựa trên quy hoạch hạ tầng cơ sở.
Nhà nước phải thu lại những giá trị gia tăng của đất đai khi có cơ sở hạ tầng
hiện đai. Một nghịch lý ở nhiều đô thị Việt Nam là Nhà nước bỏ tiền làm đường, mắc
điện, cấp nước,… nhưng giá đất hai bên đường đó tăng lên bao nhiêu dân ảnh hưởng
tất cả. Do vậy, cần có chính sách điều tiết để nhà nước có thể thu hồi một phần lớn giá
trị giá tăng bù vào chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng của Nhà nước.
Trang 12
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
3.6. Huy động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật
có hiệu quả.
Để huy động được nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là một vấn đề
thực sự nan giải vì đầu tư cơ sở hạ tầng đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn chậm,
tính sinh lời thấp nên đã hạn chế sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư do đó bên cạnh nguồn
vốn nhà nước giữ vai trò chủ đạo cần phải có chính sách huy động mọi nguồn vốn
trong dân, từ phía các doanh nghiệp, tố chức trong và ngoài nước: nguồn vốn ODA,
phát hành trái phiếu chính phủ( trong nước), trái phiếu quốc tế để đầu tư phát triển cơ
sở hạ tầng và phải đảm bảo nguồn vốn hoàn trả, cho phép nhà đầu tư nước ngoài
thành lập doanh nghiệp chuyên tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng, hoặc sử dụng quỹ
đất để kêu gọi đầu tư theo hình thức đổi đất lấy công trình; Xã hội hóa lĩnh vực đầu tư
phát triển cơ sở hạ tầng thông qua việc hình thành những đơn vị chuyên ngành đầu tư
và khai thác cơ sở hạ tầng có đủ năng lực tài chính và chuyên môn, cũng như khả
năng thu hút nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Quá trình sử dụng vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật phải đảm bảo
công khai, minh bạch và hiệu quả. Gắn trách nhiệm của chủ đầu tư với chất lượng và

tiến độ của dự án. Hằng năm trên cơ sở tổng hợp, phân tích đánh giá nhu cầu, lập kế
hoạch đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật sau đó cân đối với nguồn vốn rồi mới
có kế hoạch phân bổ và sử dụng từng loại nguồn vốn khác nhau sao cho hợp lý, ưu
tiên cho những dự án cấp bách hơn.
3.7. Thực hiện xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật.
Trước thực trạng khả năng huy động nguồn vốn ngân sách phát triển cơ sở hạ
tầng còn hạn chế, về thực hiện xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng nhằm huy động các
nguồn vốn khác từ các thành phần kinh tế để thực hiện các dự án thuộc lĩnh vực cơ sở
hạ tầng kỹ thuật là rất cần thiết và hết sức quan trọng, góp phần bổ sung phần thiếu
Trang 13
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
hụt từ ngân sách nhà nước, tập trung cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật là
một bước đi đúng và cần thiết.
Do đó nhà nước cần tiếp tục nghiên cứu, ban hành các cơ chế chính sách,
khung pháp lý tạo điều kiện cho việc thực hiện xã hội hóa đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng từ trung ương đến địa phương theo hướng cụ thể cho từng ngành từng lĩnh vực.
Có chính sách đảm bảo lợi ích chính đáng, hợp pháp của các cá nhân, tập thể tham gia
xã hội hóa, chính sách ưu đãi tín dụng từ quỹ hỗ trợ phát triển của nhà nước. Tăng
cường phân cấp cho địa phương, khu vực tư nhân, các thành phần kinh tế, doanh
nghiệp trong đầu tư, sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện chức năng quản lý quy
hoạch, kế hoạch, ban hành cơ chế chính sách, tổ chức thực hiện và kiểm tra quản lý,
thanh tra giám sát. Đa dạng và mở rộng các phương thức đầu tư, tạo điều kiện thuận
lợi trong thu hút và nâng cao chất lượng các nguồn vốn đầu tư. Vốn ngân sách nhà
nước tập trung đầu tư cho công tác quy hoạch, hỗ trợ đầu tư các công trình hạ tầng
trọng yếu, tạo điều kiện cơ chế để nhà nước và nhân dân cùng làm. Đối với các công
trình kinh doanh sinh lời, nhà nước không đầu tư chỉ tạo chính sách khuyến khích vốn
đầu tư từ các thành phần kinh tế khác. Đồng thời phải xã hội hóa cả thông tin để mọi
tổ chức cá nhân dễ dàng và bình đẳng trong việc tiếp cận với nguồn thông tin về xã
hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng, đẩy mạnh xúc tiến đầu tư tạo cho các nhà đầu tư như
đầu tư tư nhân có cơ hội trao đổi tình hình, các thông tin có liên quan đến dự án để họ

có cơ hội tham gia lựa chọn và quyết định đầu tư.
Đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng đòi hỏi một khối lượng vốn rất lớn. Trong
khi đó các ngân hàng thương mại tuy xuất hiện ngày càng nhiều nhưng chưa phải là
kênh huy động chính cho các dự án do quy mô vốn chủ sở hữu thấp và khả năng cung
ứng vốn hạn chế. Để tạo điều kiện và hỗ trợ cho các dự án lớn, việc hình thành và
phát triển mô hình quỹ đầu tư phát triển đô thị ở các địa phương là hết sức cần thiết.
Quỹ này sẽ phát huy tín dụng như nguồn vốn để huy động các nguồn vốn khác từ mọi
thành phần kinh tế trong xã hội, tạo năng động lực để thu hút các nguồn tài chính
Trang 14
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
cùng tham gia đầu tư. Để thu hút vốn đầu tư và chia sẻ rủi ro giữa nhà nước và nhà
đầu tư, ngân sách nhà nước tham gia vào các dự án BOT để làm tăng tính khả thi của
dự án.
3.8. Nâng cao chất lượng công tác quản lý đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ
thuật và năng lực cán bộ quản lý.
Không những công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật là rất khó mà
công tác quản lý cũng rất khó khăn và phức tạp. Đòi hỏi đội ngũ cán bộ quản lý phải
có trình độ chuyên môn cao, có kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm.
Để chống thất thoát lãng phí, nâng cao chất lượng công trình và đẩy nhanh tiến
độ dự án cần phải tăng cường công tác thanh tra kiểm tra, giám sát chất lượng và tiến
độ, giải quyết nhanh chóng và dứt điểm những thiếu sót và vướng mắc trong quá trình
triển khai. Không để chồng chất đến khi không còn có cách nào khắc phục được nữa
mới biết và báo cáo.Nghiêm chính chấp hành pháp luật và xóa bỏ những tiêu cực
trong hoạt động đầu tư.
Đối với từng ngành, từng lĩnh vực riêng cần phải xây dựng và ban hành các
định mức kinh tế kỹ thuật cho phù hợp với điều kiện thực tế, có tính khả thi đồng thời
cần hướng dẫn các chủ đầu tư, đơn vị tư vấn hiểu và áp dụng vào thực tế. Bên cạnh đó
cần thường xuyên và định kỳ tiến hành việc phân tích, đánh giá hiệu quả của hoạt
động đầu tư, từ đó rút ra những điểm mạnh, điểm yếu, điều chỉnh các cơ chế chính
sách, tiêu chuẩn định mức còn chưa phù hợp với điều kiện thực tế.

Trang 15
Lý thuyết tài chính công Nhóm 7
Trang 16

×