Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

KHỞI NGHĨA YÊN THẾ CÓ PHẢI LÀ PHONG TRÀO NÔNG DÂN?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (101.2 KB, 15 trang )

KHỞI NGHĨA N THẾ CĨ PHẢI LÀ PHONG TRÀO NƠNG DÂN?

1. Các tiêu chí về phong trào nơng dân
Phong trào nông dân là một thực tế lịch sử quan trọng trong tiến trình lịch
sử Việt Nam. Trong suốt tiến trình lịch sử Việt Nam, rất nhiều cuộc khởi nghĩa
nông dân đã nổ ra. Có cuộc khởi nghĩa là để chống lại sự hà khắc của chính
quyền phong kiến cũng có cuộc khởi nghĩa là để nhằm giải phóng dân tộc.
Thậm chí có trường hợp ban đầu là chống phong kiến cầm quyền về sau lại
chuyến hóa thành lực lượng chống ngoại xâm như cuộc khởi nghĩa Tây Sơn.
Vậy thì dựa vào tiêu chí nào để phân loại các cuộc khởi nghĩa thuộc phạm trù
“phong trào nông dân”? Thông thường để xét tính chất của một cuộc khởi nghĩa
chúng ta thường dựa vào các yếu tố như lực lượng chủ đạo hay còn gọi là động
lực của phong trào; thành phần xuất thân của lãnh tụ phong trào; động cơ chính
của phong trào.
Lực lượng chính của các cuộc khởi nghĩa trong lịch sử Việt Nam đều là
nông dân. Tuy nhiên đây khơng thể được coi là tiêu chí quyết định tính chất của
cuộc khởi nghĩa được. Vì trong xã hội phong kiến Việt Nam kéo dài cho đến
trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 có đến 90% dân số là nơng dân. Vì thế
tuyệt đa số những người tham gia khởi nghĩa là nơng dân. Vì thế cho nên tiêu
chí này chỉ đóng vai trị thứ yếu trong việc xác định tính chất của các cuộc khởi
nghĩa ở Việt Nam.
Thành phần xuất thân của giới lãnh đạo khởi nghĩa cũng được xem là
một tiêu chí đánh giá tính chất của các phong trào đấu tranh giai cấp. Trong các
cuộc cách mạng chống lại giai cấp phong kiến ở châu Âu trước đây, giai cấp tư
sản nắm vai trò lãnh đạo cách mạng trong khi đại đa số quần chúng nhân dân là
nơng dân, thợ thủ cơng đóng vai trị chủ đạo. Tuy giai cấp tư sản khơng đóng
vai trị là động lực của cuộc đấu tranh nhưng lại nắm vai trò lãnh đạo và quyết
định đến tính chất của phong trào. Tuy nhiên ở Việt Nam, lại có sự phức tạp
trong vấn đề này. Thành phần lãnh đạo các cuộc khởi nghĩa nông dân đa phần là
tầng lớp địa chủ phong kiến, quý tộc nhỏ chứ không phải nông dân. “Nông dân
chiến đấu rất anh dũng, và tham gia các hoạt động xã hội với tinh thần tích cực


cao độ nhất của mình. Nhưng nơng dân khơng hề có khả năng lãnh đạo. Trong
chế độ phong kiến, nông dân đại diện cho nền sản xuất cá thể. Mỗi một người
chỉ biết đến phần ruộng đất của mình với những cơng cụ và kinh nghiệm sản
xuất riêng. Chính vì thế mà nơng dân thiếu ý thức tổ chức, thiếu tinh thần thống


nhất. Họ khơng có ý thức giai cấp, nên cũng khơng có lịng căm thù giai cấp.
Mỗi khi cực khổ quá, căm thù cao độ, họ vùng lên chém giết phá phách bọn địa
chủ phong kiến trực tiếp bóc lột, đè nén họ. Và khi họ đã thỏa mãn họ bỏ hàng
ngũ trở về với ruộng đất”1. Vì thế cho nên cuộc khởi nghĩa có thể nhằm thỏa
mãn một phần nào đó u cầu của nơng dân nhưng cũng có thể chỉ phục vụ cho
lợi ích của giới cầm quyền thuộc tầng lớp địa chủ phong kiến. Trong lịch sử Việt
Nam chúng ta đã chứng kiến rất nhiều cuộc khởi nghĩa với lực lượng chính là
nơng dân do giới q tộc lãnh đạo tiến hành chiến tranh với nhau như cuộc khởi
nghĩa của Lê Duy Mật. Vì thế cho nên tiêu chí này cũng chỉ đóng vai trị thứ
yếu.
Động cơ của cuộc khởi nghĩa là tiêu chí thứ ba nhằm xác định tính chất
của phong tranh. Đây được xem là tiêu chí tiên quyết để xác định tính chất của
phong trào. Động cơ của cuộc khởi nghĩa chính là những nhiệm vụ đặc ra mà
cuộc khởi nghĩa phải giải quyết. Cách mạng tư sản phải thực hiện hai nhiệm vụ
cơ bản là đánh đổ chế độ phong kiến, thiệt lập sự phát triển của chế độ tư bản
chủ nghĩa. Tất cả các cuộc đấu tranh nhẳm thực hiện mục tiêu này được coi là
mang tính chất tư sản. Sau này chúng ta có dùng đến khái niệm cách mạng dân
chủ tư sản là chỉ cuộc đấu tranh đánh đổ ách thống trị phong kiến, thiết lập
quyền làm chủ của nhân dân. Ở đây, để xác định được tiêu chí của cuộc khởi
nghĩa nơng dân thì cuộc khởi nghĩa đó phải đáp ứng được nhu cầu của nông
dân. Mặc dù trong thực tế lịch sử, đến hiện nay chúng ta chưa phát hiện được có
cuộc phong trào nơng dân nào đưa ra khẩu hiệu ruộng đất nhưng cũng không
thể loại trừ động lực này của các cuộc khởi nghĩa. Không thể tách vấn đề nông
dân ra khỏi vấn đề ruộng đất. Đây là hai đối tượng có mối quan hệ mật thiết với

nhau. Người nơng dân cần có đất để canh tác. Nhưng nhiều người cho rằng do
mơ hình ruộng đất công làng xã nên người nông dân Việt Nam thời phong kiến
khơng có nhu cầu đấu tranh về ruột đất. Thậm chí họ cịn bỏ đất, bỏ làng mà đi
như trong thời kì khủng hoảng của chế độ Đàng Ngồi thế kỷ XVII-XVIII. Tuy
nhiên lập luận như vậy là có phần sai lệch khi khơng nhìn rõ chính sưu cao thuế
nặng là điều khiến cho nông dân phải rời ruộng đất để phiêu tán khắp nơi. Đồng
thời nạn kiêm tính ruộng đất đã làm thu hẹp ruộng đất công làng xã và khiến
người nơng dân khơng cịn đất canh tác. Khi khơng cịn ruộng đất để canh tác
lại phải chịu các thứ thuế khác như thuế thân, sưu dịch đã trở thành gánh nặng
trên vai người nông dân mà không thể nào chịu nổi. Chính từ đó, nhu cầu đấu
1

Trương Hữu Quýnh, “Những đặc điểm phong trào nông dân Việt Nam”, tập san Văn Sử Địa, số 37, tháng 2
năm 1958, tr.93.


tranh chống lại sưu cao thuế nặng, chống cường hào ác bá của nông dân xuất
hiện làm tiền đề cho các phong trào nơng dân khởi nghĩa. Nói như Marx và
Angles, vấn đề ruộng đất là “chiếc chìa khóa để hiểu tồn bộ phương Đơng”2.
Như vậy trong các tiêu chí trên, thì vấn đề động lực của cuộc khởi nghĩa
được xem là tiêu chí tiên quyết, mấu chốt để xác định tính chất cuộc khởi nghĩa.

2. Khởi nghĩa Yên Thế có phải là phong trào nơng dân?
Từ những năm 50-60, đã có nhiều bài viết trên các diễn đàn tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, tập san Văn Sử Địa tranh luận về vấn đề phong trào nông
dân trong lịch sử. Theo Trương Hữu Qnh ước tính đã có đến hơn 150 bài viết
bàn về vấn đề này. Đây quả thật là một vấn đề lớn trong lịch sử trung cận đại
Việt Nam. Trong đó cũng có nhiều bài nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa Yên Thế
nói chung cũng như lãnh tụ Hồng Hoa Thám nói riêng. Đây là một cuộc khởi
nghĩa vĩ đại trong thời Pháp thuộc khi kéo dài đến 30 năm (1884-1913) đã làm

cho chính quyền Pháp phải lao đao. Tuy nhiên, cuộc tranh luận về tính chất của
cuộc khởi nghĩa này còn chưa ngã ngũ.
Nguyễn Quang Ngọc trong Tiến trình Lịch sử Việt Nam cho rằng “Phong
trào nông dân Yên Thế (1883-1913) là dự kiện quan trọng nhất của phong trào
nông dân khởi nghĩa thời cận đại. Cuộc khởi nghĩa kéo dài trong 30 năm, trải từ
thời Cần Vương qua đầu thế kỷ XX, luôn là ổ đề kháng quan trọng mà nhiều lực
lượng chính trị phải tìm thấy”3. Tuy nhiên quan điểm này đã bị Khổng Đức
Thiêm bác bỏ: việc đưa cuộc khởi nghĩa Yên Thế vào phong trào nông dân đã bị
bác bỏ trong các Hội thảo khoa học được tổ chức ở địa phương những năm 80
của thế kỷ trước.
Một quan điểm khá phổ biến được các nhà sử học Việt Nam sử dụng là
việc phân kì cuộc khởi nghĩa Yên Thế theo giai đoạn và xác định tính chất trên
từng giai đoạn. Theo đó, ngay từ những năm 50-60 của thế kỷ 20, nhiều nhà
khoa học Việt Nam đã chia khởi nghĩa Yên Thế thành hai thời kì và xác định
tính chất của thời kì một từ 1884-1900 là thuộc phạm trù phong kiến, còn giai
đoạn hai thuộc phạm trù tư bản chủ nghĩa: “gần đây có ý kiến cho rằng phong
2

Theo Văn Tạo (1996), Phương thức sản xuất châu Á-Lý luận Marx-Lenin và thực tiễn Việt Nam, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội, tr.44.
3

Nguyễn Quang Ngọc chủ biên (2010), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục Việt Nam, Thái Nguyên,
tr.243.


trào Yên Thế gồm 2 giai đoạn: trước đình chiến lần 2 (1900) là nằm trong phạm
trù phong kiến còn thời gian còn lại nằm trong phạm trù tư sản do mối liên kết
với các phong trào của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh…lập ra đảng Nghĩa
Hưng”4. Gần đây, GS. Đinh Xuân Lâm vẫn giữ quan điểm này khi nói về tính

chất cuộc khởi nghĩa Yên Thế: “Nhưng quan trọng hơn cả là do sự chuyển biến
tính chất của phong trào yêu nước của nhân dân ta từ những năm cuối thế kỷ
XIX sang những năm đầu thế kỷ XX, phong trào nông dân Yên Thế từ một
phong trào mang “cốt cách phong kiến” của giai đoạn cuối thế kỷ XIX, nhưng
bước sang những năm đầu thế kỷ XX đã hoà dần và chịu ảnh hưởng của phong
trào yêu nước cách mạng có tính chất tư sản của nhân dân ta hồi đầu thế kỷ XX.
Thể hiện rõ ở chỗ chủ tướng Hồng Hoa Thám đã có tiếp xúc với các nhà yêu
nước của thời kỳ mới như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh để bàn bạc phương
thức và việc phối hợp tác chiến trong tình hình mới, việc viện trợ lẫn nhau giữa
các phong trào, như với Duy Tân hội, với Đông Kinh nghĩa thục dẫn tới một số
sự kiện tiêu biểu, như thành lập đảng Nghĩa Hưng tại Hà Nội và cịn có cơ sở ở
Bắc Ninh, Nam Định hay vụ Hà Thành đầu độc cuối năm 1908”5.
Trong một chuyên khảo cùng tên nghiên cứu về thủ lĩnh Hoàng Hoa
Thám, Khổng Đức Thêm một người đã dành hơn 40 năm để nghiên cứu và bổ
khuyết sử liệu cho cuộc khởi nghĩa này đã có một nhận định tương đối khác so
với Trần Kiên và Đinh Xuân Lâm: “Kể từ khi khởi nghĩa Yên Thế bùng nổ đến
giai đoạn này, thời gian mới gần 6 năm (3/1984-12/1889). Quãng thời gian tuy
không dài, nhưng sức sống của cuộc khởi nghĩa đã được thể hiện rất bền bỉ và
mãnh liệt. Nó đã trở thành một trung tâm tập hợp hai xu hướng yêu nước khác
nhau: phong trào yêu nước do các sĩ phu lạnh đạo mà tiêu biểu là lực lượng khởi
nghĩa do Đội Văn đứng đầu-một bộ phận lớn của phong trào Bãi Sậy và phong
trào yêu nước của nông dân do Cai Biều-Tổng Bưởi-Thống Luận-Thống Ngị
chỉ huy. Do đó, cuộc khởi nghĩa Yên Thế đã nhanh chóng chuyển từ một phong
trào nông dân tự phát sang phong trào giải phóng dân tộc”6.
Như vậy, nhìn chung quan điểm phổ biến của các nhà sử học Việt Nam
khi nghiên cứu về phong trào Yên Thế đều cho rằng cuộc khởi nghĩa này có
xuất phát điểm là một phong trào nơng dân tự phát. Trải qua quá trình phát triển,
4

Trần Kiên “Trao đổi một số ý kiến về tính chất phong trào nghĩa quân Yên Thế”, tập san Văn Sử Địa, số 42,

tháng 7/1958, tr.76.
5

Đinh Xuân Lâm (01/05/2009), “Vai trò của phong trào Yên Thế đối với lịch sử dân tộc”, website:
cập nhật ngày 20/3/2014.
6

Khổng Đức Thiêm (2014), Hoàng Hoa Thám, NXB Trí thức, Hà Nội, tr.224.


trước khuynh hướng lan tỏa của phong trào yêu nước theo trào lưu dân chủ tư
sản đã có sự tác động nhất định đến phong trào Yên Thế. Và trong giai đoạn hai
của mình, phong trào Yên Thế đã chuyển mình thành một phần của phong trào
giải phóng dân tộc lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, để xác định cho rõ về tính chất của cuộc khởi nghĩa Yên Thế
nhằm xác định xem có phải đây là một phong trào thuộc phạm trù phong trào
nông dân hay không. Chúng ta lần lượt xét các tiêu chí của phong trào Yên Thế.
Thứ nhất, về lực lượng của cuộc khởi nghĩa. Giống như các cuộc khởi
nghĩa khác, khởi nghĩa Yên Thế cũng được quy tụ bởi một lực lượng nông dân
đông đảo. Tuy nhiên, thành phần nơng dân ở n Thế có sự đặc biệt. Yên Thế là
vùng đất mới khai phá còn hoang vu. Làng mạc cịn thư thớt, làng đơng nhất chỉ
có chục hộ, có làng chỉ có 7 đến 8 hộ. Những người đến đây khai phá chủ yếu là
ở đồng bằng lên đâu sau mỗi kì lụt lội, hạn hán gây đói kém. Hoặc nơng dân đã
trải qua q trình sinh sống lưu vong nhiều năm phải đến đây nương náu một
thời gian rồi ở lại. Đất ở đây khá tốt lâm sản nhiều nhưng điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt nên ít người trụ lại được. Bên cạnh đó, ngồi các dân cư từ miền
xi lên khai hoang cịn có các tốn giặc cướp. Nơng dân miền xi lên đây
khai phá hồn tồn tự động, khơng có sự can thiệp của nhà nước. Kỹ thuật canh
tác ở đây còn thiếu thốn không đầy đủ như ở miền xuôi nên sự phân hóa giàu
nghèo diễn ra chậm. Những người có máu mặt nhất như Khâu Tích, Cai Nghi,

Bá Phức…cũng chỉ là trung nơng khá giả. Do đó sự đối lập giai cấp trong vùng
là chưa rõ nét. Quan hệ của họ cũng khá bình đẳng. Từ những năm 60-70 của
thế kỷ XIX, số nông dân miền xuôi kéo lên đây sinh sống ngày càng nhiều.
Trước khi Pháp càn quét thì ở Yên Thế Thượng đã hình thành được một cộng
đồng dân cư gồm những người nông dân bần cùng bất mãn với chính quyền
phong kiến từ dưới xi lên đây ở. Vì thế cho nên những cư dân của vùng đất
này có những truyền thống hết sức đặc biệt. “Đó là truyền thống bất khuất đối
với cường quyền và một truyền thống tự vệ cao tới mức giặc cướp kiêng nể,
chính quyền phong kiến e sợ”7. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần hết sức lưu ý là sự
gia nhập của các toán tàn quân phong trào Cần Vương cũng đã gia nhập phong
trào Yên Thế. “Vào cuối thế kỷ XIX, trong lúc nhiều cuộc khởi nghĩa nơng dân
nhanh chóng hịa nhập với phong trào Cần Vương chống Pháp, thì trái lại phong
trào Yên Thế lại là nơi tiếp nhận nhiều cánh quân Cần Vương từ nhiều nơi kéo
về, tiêu biểu là cánh quân Bãi Sậy của Cả Tuyển (con trai của Nguyễn Thiện
Thuật) và cánh quân của Đội Văn. Đồng thời nghĩa quân Yên Thế cũng đi nhiều
7

Nguyễn Văn Kiệm (2001), Phong trào nông dân Yên Thế chống thực dân Pháp xâm lược, NXB ĐHQG Hà
Nội, tr.53.


địa phương để xây dựng lực lượng và địa bàn hoạt động như Vĩnh Yên, Phúc
Yên”8. Tuy nhiên yếu tố “Cần Vương” này khơng đóng vai trị chủ đạo trong
phong trào nông dân Yên Thế. Nông dân vẫn chiếm một lực lượng hết sức quan
trọng trong cuộc khởi nghĩa. Tuy nhiên như trên đã nói, lực lượng khởi nghĩa
vẫn chưa phải là yếu tốc quyết định đến tính chất của phong trào. Có thể yếu tố
đặc trưng về thành phần xuất thân của người nơng dân n Thế có thể tác động
đến động lực của phong trào. Ở đây người nơng dân n Thế khơng vũ trang để
địi đất, giành lấy tư liệu sản xuất cho mình mà họ đấu tranh để bảo vệ quyền tự
do sinh sống trên vùng đất mới khai lập. Sự gia nhập của các toán nghĩa binh

Cần Vương khơng khiến cho tính chất của đấu tranh mang màu sắc “Cần
Vương”. Tuy nhiên hiện tượng này phản ánh cuộc khởi nghĩa n Thế khơng
hồn tồn khép kín như nhiều nhận định trước đây. Mà cho thấy, phong trào
Yên Thế có sự liên kết với các phong trào yêu nước đương thời như Cần
Vương, Văn Thân. Và nó cũng chỉ dấu cho hiện tượng chuyến biến về chất của
phong trào: từ phong trào nông dân tự phát chuyển biến thành phong trào giải
phóng dân tộc.
Thứ hai, là về thành phần xuất thân của lãnh tụ phong trào. Phong trào
n Thế khơng chỉ có một lãnh tụ Hồng Hoa Thám. Phong trào này khởi đầu
vào ngày 16/3/1884 dưới sự lãnh đạo của Đề Nắm (Lương Văn Nắm). Đề Nắm
tên thật là Lương Văn Nắm, quê ở làng Hả, xã Thế Lộc, tổng Yên Lễ. Ông sinh
trưởng trong một gia đình nơng dân nghèo khổ. Lên 8 tuổi thì mồ côi cha về
sống tại quê mẹ tại Hà Châu (nay là Phú Bình, Thái Nguyên) được vài năm thì
trở về lại Yên Thế. Sát cánh bên Đề Nắm còn có các thủ lĩnh phong trào như
Thân Văn Đệ, Trần Văn Lâm ở Dương Sặt, Nguyễn Văn Thái ở Yên Lễ, Dương
Phùng Xuân ở Thế Lộc, Dương Văn Phú, Dương Văn Hùng, Đồng Văn Phú ở
Ngơ Xá, Nguyễn Văn Hóa ở Dương Lâm. Về sau, phong trào có sự góp mặt của
một thủ lĩnh quân sự tài ba trở thành linh hồn của cuộc khởi nghĩa, Hoàng Hoa
Thám. Đánh giá về sự có mặt của Hồng Hoa Thám trong phong trào, Khổng
Đức Thiêm cho rằng: “Sự có mặt của Đề Thám, Bá Phức trong cuộc khởi nghĩa
Yên Thế đã tại nên một diện mạo mới cho phong trào, kể từ tháng 12-1885. Đó
là một bước ngoặt thực sự chấm dứt thời kì tự phát của một phong trào nơng
dân, chuyển sang phạm trù giải phóng dân tộc. Ý thức xây dựng khu căn cứ
được hình thành và thực hiện với một hệ thống đồn lũy (Hố Chuối, Khám Nghè,
Ho, Vòng Đông, Hang Sọ, Bãi Mét…) cùng một hệ thống làng chiến đấu kiên
8

Đinh Xuân Lâm, Trịnh Nhu, “Cuộc khởi nghĩa Yên Thế-Một điển hình sáng ngời trong phong trào đấu tranh
giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 năm 1984.



cường (Sặt, Luộc Hạ, Cao Thượng, Phú Khê, Khê Hạ,…). Thế chân vạc bảo vệ,
nương tựa nhau hoàn chỉnh với ba trung tâm: Yên Thế do Bá Phức-Đề Năm-Đề
Thám chỉ huy, đồng thời là trung tâm đầu não của phong trào; Tam Đảo do
Thống Luận, Thống Ngò, Thượng Lẫm, Đề Cơng, Đề Ngun chỉ đạo, là hậu cứ
an tồn cho cuộc khởi nghĩa; Bảo Lộc do Cai Biều, Tổng Bưởi đóng giữ với vai
trị vỏ bọc và mối dân liên hệ với cuộc khởi nghĩa của Cai Kinh ở Hữu Lúng và
Lưu Kì ở Lục Ngạn”9.
Hồng Hoa Thám sinh năm 1936, tên thật là Trương Văn Nghĩa nguyên quán Dị Chế,
huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, sinh trưởng ở nông thơn nhưng gia đình đã mấy đời thốt lý
nơng nghiệp. Ngun gốc ơng họ Đồn, do phụ thân là Đồn Danh Lại khởi nghĩa chống lại
triều đình nơi gia đình phải ly tán, thay tên đổi họ. Hoàng Hoa Thám sớm mất cha mẹ, sống
cùng người chú ruột, sống cuộc sống nghèo khó trong vùng đất đơng dân, đất hẹp, đời sống
cần kiệm. Lớn lên trong cảnh nhiễu nhương, đời sống nhân dân khổ cực, nghe lời xướng
nghĩa của các thủ lĩnh, Hoàng Hoa Thám đã tham gia nhiều cuộc khởi nghĩa của Quận Tường,
Đại Trận. Về sau trước họa Thanh phỉ ơng đã gia nhập tốn qn của Trần Xuân Soạn chống
Thanh phỉ.

Một đặc điểm hết sức quan trọng của những thủ lĩnh đầu tiên của phong
trào họ đa phần là những chánh phó lý, chánh phó tổng, hào mục và những
người có cơng trong việc dẹp giặc Thanh phỉ Ngô Côn-Lý Dương Tài. Khởi
đầu họ chỉ là những người nơng dân nghèo khó nhưng với sự nhạy bén cùng
thời cuộc, lại đảm nhận rõ vai trò và sứ mệnh của mình trong sự nghiệp đánh
quân xâm lược, biết cách tự vũ trang và tổ chức phong trào. Họ là một lớp
người tiêu biểu của Yên Thế đã đứng ra gánh vác trọng trách, niềm vinh quang
và thử thách khắc nghiệt. Tước vị của họ như Đề Nắm, Đề Sặt, Đề Dương,
Thống Luận, Bá Phức…là do quen gọi hoặc tự phong, nhiều thuyết bảo là do
thành tích trong quá trình chống Thanh phỉ. Khí chất thượng võ của núi rừng
Yên Thế đã chảy vào trong huyết quản của họ.
Yên Thế từ lâu đã là nơi quy tụ những anh hùng mã thượng, không chịu

quy phục sự áp bức của triều đình phong kiến. Nơi đây đã là mối lo, bận tâm
của các triều đình phong kiến. Tiếng thơm “trai Cầu Vồng” đã nổi tiếng trong sử
sách như ba anh em Dương Quốc Minh, Dương Hồng Lượng, Dương Hồng
Lương thời Nam Bắc triều, Dương Văn Cán chống lại nhà Lê năm 1597. Nổi
bất có thể kể đến các cuộc khởi nghĩa của Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Đến đầu
thời Nguyễn, Vân Cầu trở thành nơi tụ nghĩa đế dấy quân tấn cơng lị sở n
Thế đặt tại Hữu Mục. Khí chất đã hun đúc cho người Yên Thế một tinh thần
thượng võ, bất khuất không chịu cúi đầu trước cường quyền. Tuy nhiên, như
trên đã đề cập, các thủ lĩnh đầu tiên của cuộc khởi nghĩa Yên Thế là những
9

Khổng Đức Thiêm (2014), sđd, tr.632.


người đã từng theo các tướng lĩnh triều đình chiến đấu chống Thanh phỉ. Điều
này phản ánh, họ không chịu khuất phục trước cường quyền áp bức nhưng cũng
cũng sẵn sàng đấu tranh để bảo vệ độc lập của đất nước, bình yên của nhân dân.
Đặc điểm này của giới lãnh đạo phong trào nơng dân n Thế góp phần cho
việc chuyển hướng tính chất của phong trào trong giai đoạn về sau.
Nhìn chung, đa phần lãnh tụ phong trào n Thế đều có xuất thân từ
nơng dân nghèo khổ. Tuy nhiên, với sự nhạy cảm của mình, họ đã vươn lên,
vượt qua những rào cản của tính chất “tiểu nơng” để trở thành lãnh tụ phong
trào. Vì thế cho nên trong thời kì đầu, phong trào n Thế cịn mang tính chất
nơng dân tự phát. Bản thân họ cũng đã tham gia nhiều phong trào đấu tranh
chống Thanh phỉ để bảo vệ sự độc lập, tự chủ của đất nước sự bình n của xóm
làng. Do đó, khi có điều kiện họ sẵn sàng vượt qua những giá trị truyền thống
của đất và người Yên Thế mà hòa vào phong trào giải phóng dân tộc. Sự lãnh
đạo của họ đã mang tính định hướng xác định tính chất của phong trào. Yên
Thế đã hình thành một lực lượng những người quen với trận mạc; giỏi đánh
phòng ngự; vận động, vây thành, diệt viện, phục kích tấn cơng. “Hầu hết mọi

người ở đây đều đã chống lại kẻ xâm lược Tàu hoặc Pháp đơi khi khơng phải là
khơng có thắng lợi. Trong rất nhiều thôn làng vẫn tồn tại những kẻ già nua,
những kẻ thốt khỏi vịng chiến, thường làm quân sư khuyên bảo dân chúng
điều rắc rối…hễ có dịp, lại sẵn sàng lấy khẩu súng bắn nhanh giấu trên xà nhà,
trong một ống tre. Cho nên, một cái trái ngược đập vào mắt ta là so với thái độ
của người An Nam ở vùng đồng bằng thì người An Nam ở vùng Yên Thế rất
kiêu hãnh dưới cái vỏ lễ phép có suy tính mà ta thấy được dưới những dấu hiệu
của sự kính cẩn khoa trương kia có cái bản năng không sợ đánh nhau mà ta cần
kể đến”10. Phẩm chất của con người Yên Thế vốn được tôi luyện trong các
phong trào đấu tranh đã trở nên cứng rắn, anh hùng. Họ đã để lại ấn tượng đặc
biệt trong mắt người Pháp “họ khơng có đầu óc cuồng tín, tính quả cảm đến
điên cuồng của người dân xứ Kabyle hoặc Soudane nhưng lại thông minh sắc
sảo hơn, có một khả năng đặc biệt tiếp thu những phương thức hoạt động của
chúng taa (quân đội Pháp) và tỏ ra có một nghệ thuật cao cường trong việc lựa
chọn những vị trí phịng thủ, trong phương pháp xây dựng các cơng trình phịng
ngự và tỏ ra coi thường cái chết khơng khác gì nhữn người xứ Kabyle và
Soudane”11

10

Theo Khổng Đức Thiêm (2014), sđd, tr.150.

11

Theo Khổng Đức Thiêm (2014), sđd, tr.151.


Thứ ba, về động lực của phong trào. Như trên đã có đề cập, thành phần
xuất thân của nghĩa quân Yên Thế là nông dân tự do từ các khu vực miền xuôi
lên Yên Thế lập nghiệp. Khu vực Yên Thế lúc bấy giờ là một khu vực “thoát ly”

khỏi sự kiểm sốt của triều đình phong kiến nhà Nguyễn. Đa phần dân cư ở đâu
nghèo khổ, sự phân hóa xã hội chưa sâu sắc. Giai cấp địa chủ bốc lột nơng dân
chưa có điều kiện xuất hiện. Hai yếu tố bốc lột nông dân là địa chủ phong kiến
và sưu thuế của chính quyền phong kiến các cấp chưa phải là mối đe dọa cho
nông dân Yên Thế. Tuy nhiên do sự độc lập tương đối của Yên Thế trong một
nền quân chủ trung ương tập quyền được xem là cái gai của chính quyền phong
kiến trung ương. Nhiều cuộc đàn áp đã được mở ra để đưa Yên Thế về dưới sự
kiểm soát của nhà nước phong kiến. Đồng thời sự xuất hiện của các toán giặc
phỉ Thái Bình Thiên Quốc đã đe dọa đến cuộc sống bình yên, tự do của họ Do
đó nhu cầu vũ trang đấu tranh để bảo vệ quyền tự do, thành quả kinh tế của
mình đã trở thành động lực chính của phong trào nơng dân n Thế. “Có thể
nói, vào những năm này, nông dân Yên Thế như ở trong trạng thái khởi nghĩa
thường trực chống chính quyền phong kiến để bảo vệ cuộc sống đặc biệt mà
cộng đồng cư dân ở đây đã tạo dựng nên được-đó lả một cuộc sống đang còn
nghèo về kinh tế, phải thường xuyên lo chống giặc cướp, nhưng khá dễ thở về
chính trị, và họ sẵn sàng bảo vệ cuộc sống đó bằng bất kì giá nào”12. Hình tượng
người nơng dân n Thế đã hóa thành một chiến sĩ quả cảm, anh hùng. Một
tượng đài đẹp của người nơng dân Việt Nam.
Nhưng cũng có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, phong trào Yên Thế bắt
nguồn từ việc chống việc cướp ruộng đất của Pháp13. Khởi nghĩa Yên Thế bắt
đầu từ năm 1884 khi thực dân Pháp đã xác lập được quyền bảo hộ trong tồn cõi
Việt Nam. Đã có nhiều cuộc trạm chán lớn giữa nghĩa quân Yên Thế với thực
dân Pháp trong suốt thời kì đầu tiên cho mãi đến cuộc giảng hịa lần thứ nhất
của Đề Thám năm 1895. Vì thế cho nên, thực dân Pháp chưa kiểm soát được
vùng này nên việc Pháp chiếm ruộng đất khiến nông dân phải vùng dậy khởi
nghĩa là không thể. Chỉ sau năm 1895 và nhất là từ sau năm 1897, Đề Thám
giảng hòa lần thứ hai thì việc kiểm sốt ruộng đất của Pháp ở Yên Thế mới diễn
ra ồ ạt.
Các tài liệu lưu trữ của người Pháp để lại cho biết đến những năm 1894
đồn điền đầu tiên của người Pháp là Thomé mới được thành lập. Liên tiếp sau

12

13

Nguyễn Văn Kiệm (2001), sđd, tr.53.

Xem thêm Đinh Xuân Lâm-Nguyễn Văn Sự-Trần Hồng Việt (1958), Hồng Hoa Thám và phong trào nơng
dân n Thế, NXB Văn hóa, Hà Nội và Nguyễn Cơng Bình, sđd.


đó là đồn điền của Tartarin, Chesnay, Gillard chỉ được hình thành từ sau năm
1897. Tararin có 2 đồn điền, một cái được nhà nước cơng nhận chính thức vào
ngày 10/12/1903 và cái khác là 18/5/1909. Còn các đồn điền của Chesnay và
của Gillard đều được nhà nước chính thức công nhận vào năm 1911. Ngày mà
các đồn điền được chính thức thừa nhận cùng là ngày các đồn điền phải đóng
thuế cho nhà nước sau 3 đến 5 năm khai thác 14. Tuy về sau, cũng có hiện tượng
các tá điền đồn điền của Pháp kết hợp với nông dân mất đất tham gia vào các
phong trào đấu tranh chống Pháp nhưng không thể xem việc Pháp cướp đất là
nguyên nhân trực tiếp của cuội khởi nghĩa Yên Thế. Vì chuyện lập đồn điền của
Pháp xảy ra gần chục năm từ ngày Đề Nắm phất cờ khởi nghĩa.
Vì thế có thể xác nhận động lực đấu tranh chính của nghĩa quân Yên Thế
không phải là vấn đề ruộng đất mà là việc bảo vệ tính tự do của Yên Thế như
trong lịch sử đấu tranh của mảnh đất này. Tuy nhiên cũng phải nhận thức một
thực tế rằng, việc chống Pháp khơng thể như việc chống lại triều đình phong
kiến nhà Nguyễn. Không thể tách biệt vấn đề dân tộc ra khỏi vấn đề giai cấp của
cuộc khởi nghĩa này trong khi các thủ lĩnh phong trào đều là những người từng
tham gia vào phong trào đấu tranh chống Thanh phỉ trước đây. Khởi nghĩa Yên
Thế không thể là phong trào nơng dân đơn thuần khi đã có nhiều dấu hiệu thoát
khỏi phạm trù phong kiến dưới sự tác động của nhiều phong trào yêu nước theo
khuynh hướng dân chủ tư sản bấy giờ. Tuy yếu tố chuyển biến cịn rất chậm.

Qua q trình phân tích các tiêu chí trên của phong trào đấu tranh Yên
Thế chúng ta có thể rút ra được tính chất của cuộc khởi nghĩa này như sau:
Thứ nhất, khởi thủy phong trào này mang tính chất nơng dân tự phát .
Phong trào n Thế khởi đầu năm 1884 nhưng nó đã thừa hưởng những đặc
tính của các phong trào đấu tranh của Yên Thế có từ trước đó. Trước năm 1884,
ở Yên Thế đã hình thành nhiều tốn vũ trang độ lập đứng ra đấu tranh bảo vệ
quyền tự do của mình. Yên Thế là một mảnh đất tự do thoát khỏi tầm kiểm sốt
của chính quyền phong kiến. Việc khơng có sự bốc lột của địa chủ địa phương
và chính quyền trung ương đã biến Yên Thế thành “thiên đường” của nông dân
tự do, phiêu tán, bị áp bức bốc lột từ miền xi. Điều này đã vấp phải sự đàn áp
của chính quyền phong kiến đương thời. Đồng thời sự xuất hiện các toán giặc
phỉ người Thanh đã đe dọa đến trật tự vốn có của Yên Thế, đe dọa đến truyền
thống tự do có từ lâu đời của n Thế. Vì thế người nơng dân n Thế buộc
lịng phải đứng lên tự vũ trang chống lại sự đàn áp của các thế lực muốn đe dọa
đến tính tự do của Yên Thế. Đến năm 1884, Đề Nắm phất cờ khởi nghĩa là một
14

Nguyễn Văn Kiệm (2001), sđd, tr.183.


bước hợp nhất các lực lượng vũ trang ở khu vực Yên Thế. Do đó, phong trào
Yên Thế lúc ban đầu cịn mang tính chất nơng dân tự phát.
Thứ hai, trong quá trình phát triển của mình, phong trào Yên Thế đã
mang tính chất dân tộc giải phóng. Từ một phong trào nơng dân mang tính tự
phát, Đề Nắm đã củng cố xóm làng thành những cụm chiến đấu mạnh, những
đồn lũy phịng thủ kiên cố nhắm mau chóng chuyển hóa cuộc khởi nghĩa nơng
dân do mình lãnh đạo thành một phong trào yêu nước, được sự hưởng ứng của
đông đảo quần chúng và thu hút được nhiều phong trào và khunh hướng yêu
nước khác tham gia. Đến Đề Thám thì mọi thứ trở nên hồn thiện hơn. Ơng là
một nhà quân sự có tài, có nhãn quan sáng suốt, phù hợp với điều kiện lịch sử

đương thời. Đề Thám đã làm cho cuộc khởi nghĩa Yên Thế có một sức sống
mãnh liệt, vươn tới chân lý của thời đại, xứng đáng với sự nghiệp của Đề Nắm
để lại. Ngọn cờ yêu nước của Hoàng Hoa Thám đã cùng các phong trào u
nước của sĩ phu, binh lính, nơng dân như cuộc nổi dậy của Gia Bình của nơng
dân Tuần Xô-Đội Văn lãnh đạo, các phong trào Bãi Sậy, Duy Tân. Và chúng at
thấy cuộc khởi nghĩa Yên Thế do Hồng Hoa Thám lãnh đạo đã bước đầu có sự
liên kết với các phong trào yêu nước mang tính chất dân chủ tư sản đương thời
như phong trào chống thuế Trung kì, Đơng Du, Đơng Kinh nghĩa thục, đặc biệt
là vụ Hà thành đầu độc năm 1908. Tuy nhiên cũng khơng thể nói rằng cuộc khởi
nghĩa n Thế đã mang tính chất tư sản như nhiều nghiên cứu đã nhận định. Sự
tồn tại của một Đảng Nghĩa Hưng hiện nay vẫn là một nghi vấn khi chưa có đủ
cứ liệu để xác minh. Sự liên kết của Hoàng Hoa Thám và Phan Bội Châu cũng
chỉ dừng lại ở điểm tương đồng là “phong trào yêu nước” chứ chưa đạt đến
phạm trù “tư sản”.
Đồng thời cũng có nhiều quan điểm cho rằng cuộc khởi nghĩa này vẫn
còn nằm trong phạm trù phong kiến, còn mạng nặng cốt cách phong kiến. Trong
gần 11 năm thủ huề với Pháp, Đề Thám đã trở thành một địa chủ mới, tự thỏa
mãn với vị thế đó của mình. Những nhận định như vậy là hồn toàn phiến diện
khi dùng nhãn quan của người đời nay để nhận định chuyện của người đời
trước. Chính Hồng Hoa Thám đã xác nhận với Phan Bội Châu về kế hoạch hịa
hỗn tạm thời của mình “kẻ giặc hịa khơng phải thực bụng. Thế của tôi bị cô
không thể không hòa. Chậm vài năm nữa, hết hạn hòa là chiến sự lại mở màn
thơi”15. Chính bọn Pháp cũng biết rằng “khơng thể nói chuyện với ơng bằng

15

Theo Khổng Đức Thiêm (2014), sđd, tr.645.


súng đạn vì chúng ta thường trúng đạn nhiều hơn (Vergriere) và sự biến đổi Đề

Thám thành một nhà điền chủ chỉ là hình thức”16.
3. Kết luận
Tóm lại, phong trào Yên Thế (1884-1913) ban đầu là một cuộc khởi
nghĩa nông dân tự phát kế thừa những truyền thống đấu tranh của địa phương.
Người nơng dân n Thế đa phần có xuất thân từ nơng dân tự do, nghèo khó
phải bỏ quê hương lên Yên Thế. Từ lâu Yên Thế như một mảnh đất ngồi tầm
kiểm sốt của các chính quyền. Việc kiểm sốt n Thế ln vấp phải sự phản
kháng mạnh mẽ của người nơng dân. “Cuộc sống nhiều khó khăn đầy sóng gió
và một số nét riêng biệt ấy đã tạo nên cho người dân ở đây một tính cách đặc
biệt, được nhân dân ở các địa phương gọi là “nghịch”, tức là tính cách khơng
chịu khuất phục cường quyền hoặc bất cứ một sức mạnh đàn áp nào. Vế trên
của câu phong dao “Trai Cầu Vồng Yên Thế, gái Nội Duệ, Cầu Làm” là để chỉ
những người Yên Thế có cái tính cách “nghịch ấy”. ” 17. Tuy nhiên những người
nơng dân n Thế tuy có những đặc tính riêng biệt của mình vẫn là những
người Việt Nam yêu thế, sẵn sàng đứng lại đấu tranh chống ách ngoại xâm. Lịch
sử đấu tranh của đất và người Yên Thế đã cho thấy họ đã cùng với chính quyền
phong kiến đánh đuổi bọn gặp Thanh phỉ ra khỏi biên giới Việt Nam. Vì thế cho
nên việc họ tham gia vào phong trào yêu nước chống Pháp cũng là một khuynh
hướng tất yếu. Lãnh đạo phong trào từ Đề Nắm đến Hồng Hoa Thám đã khơng
ngừng xây dựng n Thế thành một căn cứ chống Pháp kiên cố, là nơi quy tụ
các lực lượng, khuynh hướng chống Pháp khác nhau cùng mưu việc lớn.
“Phong trào Yên Thế mặc dù vẫn giữ được tính độc lập của nó trước bao sự
biến đổi về tư tưởng chính trị và phương pháp đấu tranh của các xu hướng yeu
nước ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, nhưng nó khơng phải
là một phong trào biệt lập, càng khơng phải là cô lập. Phong trào Yên Thế đã
đặt quan hệ với nhiều phong trào yêu nước và nhiều tầng lớp xã hội, một phần
do nghĩa quân nhanh chóng kiến lập, một phần do các tổ chức và các phong trào
yêu nước tìm đến với nghĩa quân. Vào cuối thế kỷ XIX, trong lúc nhiều cuộc
khởi nghĩa nông dân nhanh chóng hịa nhập với phong trào Cần Vương chống
Pháp, thì trái lại phong trào Yên Thế lại là nơi tiếp nhận nhiều cánh quân Cần

Vương từ nhiều nơi kéo về, tiêu biểu là cánh quân Bãi Sậy của Cả Tuyển (con
trai của Nguyễn Thiện Thuật) và cánh quân của Đội Văn. Đồng thời nghĩa quân
Yên Thế cũng đi nhiều địa phương để xây dựng lực lượng và địa bàn hoạt động
16

Theo Khổng Đức Thiêm (2014), sđd, tr.646.

17

Nguyễn Văn Kiệm (2001), sđd, tr.52.


như Vĩnh n, Phúc n”18. Vì thế chúng ta có thể kết luận cuộc khởi nghĩa
Yên Thế là một cuộc khởi nghĩa nơng dân đã chuyển mình thành một phong
trào yêu nước theo giải phóng dân tộc. Dù phong trào này còn mang nhiều hạn
chế về vấn đề ý thức hệ, địa bàn khởi nghĩa co hẹp trong vùng rừng núi Yên
Thế…nhưng dẫu sao Yên Thế đã trở thành bản hùng ca của nông dân khởi
nghĩa chống Pháp suốt 30 năm dài (1884-1913), một cuộc khởi nghĩa chống
Pháp kéo dài nhất trong lịch sử cận đại Việt Nam. Mặc dù cuối cùng thất bại,
phong trào khởi nghĩa của nông dân Yên Thế đã giữ một vị trí đặc biệt quan
trọng trong sự phát triển không ngừng đi lên của phong trào yêu nước cách
mạng của nhân dân ta. Đó là vị trí chuyển tiếp, bản lề từ một cặp phạm trù cũ
sang một phạm trù mới, khẳng định truyền thống yêu nước của dân tộc, đồng
thời cũng khẳng định tính nhạy bén, khả năng hội nhập, tiếp nhận cái mới, cái
tiến bộ của nhân dân ta trong quá trình dựng nước và giữ nước.

18

Theo Trịnh Nhu-Đinh Xuân Lâm, sđd, tr.32.



Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Cơng Bình, “Tính chất cuộc khởi nghĩa Yên Thế”, tạp chí Văn sử
địa số 48.
2. Đinh Xuân Lâm, “Xung quanh cái chết của Đề Thám”, tạp chí Nghiên
cứu lịch sử số 2/1983
3. Đinh Xuân Lâm, “Thêm một số tư liệu mới về khởi nghĩa Yên Thế”, tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, 3/1984.
4. Đinh Xuân Lâm, “Bức thư Đề Thám gửi Tồn quyền Đơng Dương năm
1897”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 năm 1986.
5. Đinh Xuân Lâm, “Bàn thêm về tính chất và vai trò lãnh đạo phong trào
đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược vào cuối thế kỷ 19”, tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 6/1986.
6. Đinh Xuân Lâm, Trịnh Nhu, “Cuộc khởi nghĩa Yên Thế-Một điển hình
sáng ngời trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 năm 1984.
7. Đinh Xuân Lâm (01/05/2009), “Vai trò của phong trào Yên Thế đối với
lịch sử dân tộc”, website: cập
nhật ngày 20/3/2014.
8. Trần Huy Liệu, “Mấy vấn đề cần đi sâu vào cuộc khởi nghĩa Yên Thế”,
Văn sử địa, số 37.
9. Duy Minh, “Vai trò cũa khởi nghĩa nơng dân trong q trình phát triển
của dân tộc”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 78- 81, 1965.
10.Ngơ Văn Hòa, “Bàn về vai trò của Đề Thám trong cuộc khởi nghĩa ngày
27/6/1908”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3/1978.
11.Nguyễn Văn Kiệm (2001), Phong trào nông dân Yên Thế chống thực dân
Pháp xâm lược (1884-1913), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
12.Trần Kiên, “Trao đổi một số ý kiến về tính chất phong trào nghĩa quân
Yên Thế”, tạp chí Văn sử địa, số 42.



13.Trương Hữu Quýnh, “Về một số đặc điểm của cuộc đấu tranh giai cấp
của nông dân Việt Nam thời phong kiến”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử số
83, 2/1966.
14.Trương Hữu Quýnh, “Về khả năng cách mạng của người nông dân Việt
Nam thông qua đặc điểm không tôn giáo của cuộc đấu tranh giai cấp”,
tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 90, 9/1966.
15.Văn Tân, “Mấy ý kiến về vấn đề khởi nghĩa nơng dân Việt Nam trong
lịch sử”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 74, 5/1965.
16.Văn Tạo, “Nông dân Việt Nam một lực lượng cách mang hùng hậu”, tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 181, 7-8/1978.
17.Văn Tạo, “Một số suy nghĩ về việc nghiên cứu phong trào Yên Thế trong
tình hình hiện nay”, tạp chí Nghiên cứu lịch sử, 166, 1/1976.
18.Văn Tạo (1996), Phương thức sản xuất châu Á-Lý luận Marx-Lenin và
thực tiễn Việt Nam, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
19.Khổng Đức Thiêm (2014), Hoàng Hoa Thám, NXB Tri thức, Hà Nội.



×