Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Mo dun 31323335 BDTX tieu hoc nam 2016 2017

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.49 KB, 18 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>(MÃ MÔ ĐUN TH 31) TỔ CHỨC DẠY HỌC, DẠY HỌC CẢ NGÀY Khái niệm: Dạy học cả ngày ở trường tiểu học là tổ chức cho học sinh học tập và vui chơi cả ngày ở trường. Buổi thứ nhất thực hiện chương trình chính khóa, buổi thứ hai là thời gian dành để bổ sung chương trình và tổ chức ôn luyện kiến thức đã học, tăng cường nội dung các môn nghệ thuật, thể dục nhằm phát triển năng khiếu cho học sinh, tổ chức dạy học các môn tự chọn và các hoạt động tập thể . - Giáo viên có thời gian và điều kiện gần gũi, gắn bó với học sinh hơn, thông qua đó để phát hiện năng khiếu cũng như giúp học sinh bổ sung những kiến thức cơ bản cần thiết. - Giảm áp lực học tập cho học sinh, các em có điều kiện hoàn thành bài ngay tại lớp mà không phải mang bài về nhà. - Học sinh học đủ môn và có chất lượng đối với các môn học bắt buộc , đồng thời được tiếp xúc với các môn tự chọn (ngoại ngữ , tin học…) , các môn học được phân bổ hợp lý trong ngày, trong tuần. Nội dung dạy học gồm toàn bộ nội dung của dạy học 1 buổi/ngày và thêm một số nội dung: thực hành kiến thức đã học; phụ đạo học sinh yếu, bồi dưỡng học sinh năng khiếu; dạy học các môn tự chọn; tổ chức các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp;… * Mục tiêu: Thực hiện tốt mục tiêu GD nâng cao CLGD toàndiện. Giảm sức ép, tránh quá tải. Xây dựng môi trường giáo dục thân thiện. Phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí trẻ em. Góp phần hình thành nhân cách : tự tin, năng động, sáng tạo, giàu lòng nhân ái, có khả năng hợp tác và hội nhập. Thực hiện dạy học phân hóa, HS có nhiều cơ hội để phát huy các khả năng và sở thích cá nhân; nhu cầu của cá nhân người học được đáp ứng tốt hơn; HS yếu có nhiều cơ hội được quan tâm giúp đỡ hơn để đạt chuẩn của chương trình. Mang lại cơ hội được học tập, góp phần tạo sự bình đẳng về quyền lợi học tập cho trẻ em ở những vùng, miền khác nhau . Việc dạy học cả ngày nhằm thực hiện tốt mục tiêu giáo dục tiểu học, đó là : nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học THCS (Luật giáo dục 2005) Cụ thể, việc dạy học cả ngày nhằm: - Thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. - Giảm sức ép, tránh quá tải, làm việc học tập của học sinh ở trường. Hình thành nhân cách học sinh tiểu học. - Học sinh có nhiều cơ hội để phát huy các khả năng và sở thích cá nhân. - Góp phần tạo sự bình đẳng về quyền lợi học tập cho trẻ em vùng khó khăn, vùng dân tộc thiểu số. 1. Nguyên tắc tổ chức dạy học cả ngày.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> a. Nguyên tắc tổ chức dạy học HS có nhu cầu, cha mẹ tự nguyện; Nhà trường đảm bảo CSVC, TTBDH; Đảm bảo GV; Công khai, minh bạch thu chi Đảm bảo cho sự phát triển hài hòa nhân cách học sinh. 2. Nội dung dạy học cả ngày Đảm bảo kế hoạch giáo dục và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông. Đảm bảo việc tổ chức dạy học sao cho nhẹ nhàng, tự nhiên, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh, lồng ghép các nội dung: Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục, Hoạt động tập thể thành hoạt động tổng hợp có định hướng theo chủ đề, tăng cường các hình thức học theo nhóm, như nhóm Vẽ, Hát-Múa, Thể thao, Tiếng Anh, Tin học,… Các nội dung khác: + Thực hành kiến thức đã học và tổ chức học sinh tham gia các hoạt động thực tế tại địa phương; + Giúp đỡ học sinh yếu kém vươn lên hoàn thành yêu cầu học tập, + Bồi dưỡng học sinh có năng khiếu môn Tiếng Việt, môn Toán, các môn năng khiếu; + Dạy học các môn học và nội dung tự chọn được quy định trong CT (Ngoại ngữ, Tin học, Tiếng dân tộc…); + Tổ chức các HĐ GD NGLL: các câu lạc bộ, hoạt động dã ngoại. a) Môn Tiếng Anh và Tin học: Dạy học theo tài liệu in sẵn của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Tiếng Anh dạy học theo chương trình mới 4 tiết/tuần; Tin học dạy học theo tài liệu của Bộ: Cùng học Tin học quyển 1, quyển 2, quyển 3). b) Môn Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục: Nên học theo các nhóm năng khiếu, tổ chức thành các hoạt động. Ví dụ: học hát, múa, trò chơi âm nhạc, nghe nói chuyện và giao lưu về nghệ thuật âm nhạc,…; thi vẽ tranh theo chủ đề, vẽ tranh tập thể, thi tìm hiểu về mĩ thuật, làm quen với màu sắc, xé dán, …; trò chơi vận động, các môn thể thao tự chọn. c) Môn Tiếng Việt và Toán: Trên cơ sở sách giáo khoa và các tài liệu dạy học 2 buổi/ngày, giáo viên căn cứ vào đối tượng học sinh, lựa chọn bài tập phù hợp để thực hành những kiến thức buổi 1 chưa được luyện kĩ; dành nhiều thời lượng cho đối tượng học sinh yếu, chậm về đọc hiểu; biên soạn nội dung riêng và dành thời gian thích hợp cho đối tượng học sinh khá, giỏi. Kết hợp tổ chức các hoạt động học vui để học sinh bớt căng thẳng, chẳng hạn Tiếng Việt: thi đọc diễn cảm, đọc thơ, hùng biện, kể chuyện, viết chữ đẹp,…; môn Toán: thi giải toán nhanh, toán vui, ảo thuật toán học, trò chơi toán… d) Hoạt động GDNGLL: Căn cứ vào chủ đề năm học, chủ đề từng tháng, các nội dung giáo dục lồng ghép (giáo dục môi trường, giáo dục quyền và bổn phận trẻ em, giáo dục an toàn giao thông, giáo dục kĩ năng sống,…) và tài liệu hướng dẫn tổ chức hoạt động GDNGLL do Bộ Giáo dục và Đào tạo biên soạn, giáo viên lựa chọn những nội dung phù hợp chủ đề để tổ chức.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> các hoạt động GDNGLL cho học sinh (Hoạt động thư viện; Trò chơi dân gian; Hát, múa, đọc thơ, kể chuyện, diễn kịch; Vẽ tranh; Thể dục thể thao; Tổ chức các ngày Hội; Hoạt động kỉ niệm các ngày lễ lớn; Hoạt động tham quan du lịch; Hoạt động nhân đạo; Hoạt động giao lưu; Hoạt động môi trường; Hoạt động Đội, Sao; Hoạt động câu lạc bộ;…). 3. Hình thức dạy học cả ngày Thực hiện PPGD tích cực giúp HS nắm vững KT, phát triển tư duy sáng tạoKN làm việc hợp tác, giao tiếp, KN học tập, .... Thực hiện phân hóa trong DH, phát triển NLcá nhân Tổ chức đa dạng các hình thức, PPGD Dành thời gian cho việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ của GV. Khai thác, sử dụng có hiệu quả trang thiết bị, CSVC Huy động sự tham gia của CMHS, cộng đồng XD môi trường GDthân thiện, tạo hứng thú, hỗ trợ và thúc đẩy việc học tập của HS; phát huy tính tích cực, tự giác, vai trò làm chủ ở trường của HS. * Hình thức dạy học ND1 được dạy chủ yếu trong 1 buổi, ND 2 -trong buổi còn lại, nhưng cũng có thể bố trí linh hoạt. Tổ chức theo hướng các HĐGD phù hợp đối tượng, có thể chia học sinh ở cùng một khối lớp (hoặc khác khối lớp) theo các nhóm hoạt động trên cơ sở phù hợp khả năng và nhu cầu. Tổ chức các hoạt động giáo dục phù hợp đối tượng, theo các nhóm phù hợp khả năng và nhu cầu của học sinh, có thể là: - Nhóm củng cố kiến thức. - Nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích (giải toán nhanh, đọc thơ, kể chuyện...) - Nhóm phát triển thể chất (võ, cờ vua, cầu lông...) - Nhóm phát triển nghệ thuật (nhạc dân tộc, đàn oocgan, vẽ, nặn...) - Nhóm hoạt động xã hội (tìm hiểu, TNXH, lịch sử, địa lý...) 4. Tổ chức dạy học cả ngày trên cơ sở phù hợp đặc điểm địa phương d. Tổ chức dạy học cả ngày trên cơ sở Vùng khó khăn: trước mắt thực hiện chương trình khoảng 30 T/tuần Hiệu trưởng, GV chủ nhiệm căn cứ trình độ HS của lớp bố trí nội dung, yêu cầu và thời lượng hợp lí để đảm bảo mọi HS đạt chuẩn kiến thức, kĩ năng 2 môn Tiếng Việt, Toán và tổ chức một số HĐGD. Vùng thuận lợi: thực hiện chương trình khoảng 35 T/tuần Hiệu trưởng, GV căn cứ trình độ HS của lớp bố trí thời lượng hợp lí để đảm bảo mọi HS đạt chuẩn KT,KN các môn học; căn cứ ĐK của nhà trường, nhu cầu của CMHS để dạy ngoại ngữ, tin học và phát triển năng khiếu học sinh; tổ chức một số HĐ GD để HS thấy vui, thích học và học được các môn học. 5. Những yêu cầu sở vật chất, đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý trong dạy học cả ngày a. Về cơ sở vật chất:.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> + Đảm bảo khuôn viên :Cơ sở vật chất được xây dựng theo hướng kiên cố hóa, chuẩn hóa; sân chơi bãi tập, hệ thống công trình vệ sinh, nước sạch đầy đủ, cảnh quan môi trường sư phạm đảm bảo xanh - sạch- đẹp, an toàn. + Đủ phòng học( Mỗi lớp có một phòng học riêng theo đúng quy cách, Phòng phục vụ học tập )Phòng thư viện thiết bị, phòng truyền thống, phòng hỗ trợ học sinh khuyết tật... , phòng chức năng, sân chơi, sân tập, khu phục vụ học tập, vui chơi, chỗ ăn, nghỉ và các hoạt động văn hoá, thể thao: Phòng học đủ phục vụ cho việc học 2 buổi/ ngày. Các phòng làm việc, phòng hội đồng; phòng dạy hát nhạc, mỹ thuật, tin học, các phòng chức năng phục vụ đầy đủ cho dạy các môn văn hoá, các môn Tự chọn; +Trang thiết bị dạy học: Có máy vi tính, máy potôcopy, máy chiếu đa năng, ti vi, điện thoại, đài catset; các trang thiết bị khác, sân chơi, bãi tập, bồn hoa, thảm cỏ, bàn ghế, bảng chống loá đầy đủ, phục vụ tốt cho dạy - học 2 buổi/ngày và các hoạt động khác của nhà trường. b.Về đội ngũ :- Đội ngũ CBQL, GV: GV dạy hầu hết các môn. Ngoài ra có các GV chuyên biệt dạy thể dục, nghệ thuật, ngoại ngữ,…. 5/ Sự phối hợp gia đình, cộng đồng, nhà trường: Chú trọng đến sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng, coi đây là một tiêu chí quan trọng để đảm bảo chất lượng và hiệu quả của trường tiểu học. + CBQL: Có năng lực tổ chức, QL các HĐGD, HĐ bán trú... + GV: ĐM PPDH, QL và tổ chức HĐGD; có năng lực tổng hợp, có KN lồng ghép, tích hợp các ND GD... Trường có đủ tỉ lệ giáo viên 1,5/lớp, đủ giáo viên dạy các môn đặc thù, các môn Tự chọn ; Giáo viên đạt trình độ chuẩn, trên chuẩn Đội ngũ cán bộ quản lí, giáo viên, nhân viên nhà trường nhiệt tình, có trách nhiệm; nhiều cán bộ, giáo viên có trình độ chuyên môn nghiệp vụ, phương pháp dạy học tốt . + Cần có CT, KH bồi dưỡng GV, CBQL về tổ chức DHcả ngày (năng lực phân phối, SD thời gian ...) ************************** (MÃ MÔ ĐUN TH 32) DẠY HỌC PHÂN HÓA Ở TIỂU HỌC 1. Mục tiêu giáo dục phổ thông và mục tiêu giáo dục tiểu học a) Mục tiêu của giáo dục phổ thông: Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp học sinh (HS) phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. b) Mục tiêu của giáo dục tiểu học: Giáo dục tiểu học (GDTH) nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để tiếp tục học trung học cơ sở..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Nền tảng nhân cách, kĩ năng sống, kĩ năng học tập cơ bản (nghe, nói, đọc, viết và tính toán) của HS được hình thành ở tiểu học và được sử dụng trong suốt cuộc đời của mỗi con người. HS tiểu học được dạy từ những thói quen nhỏ nhất như cách cầm bút, tư thế ngồi viết, cách thưa gửi, đi đứng, ăn mặc cho đến các kĩ năng tự phục vụ, kĩ năng giao tiếp, các kĩ năng học tập và khả năng tự học, sáng tạo. Như vậy, GDTH có giá trị cơ bản, lâu dài, có tính quyết định. Vì thế, làm tốt GDTH là đảm bảo sự phát triển bền vững của đất nước. 2. Tầm quan trọng của việc dạy học phân hoá ở cấp tiểu học Quá trình dạy học gồm hai hoạt động có quan hệ hữu cơ: hoạt động dạy của giáo viên (GV) và hoạt động học của HS. Cả hai hoạt động này đều được tiến hành nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục. Trong quá trình dạy học, cần dựa trên nhu cầu, hứng thú, thói quen và năng lực của người học. Chính vì vậy, việc dạy học theo nhóm đối tượng sẽ giúp cho tất cả HS đều tích cực học tập. Từ đó đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài học, đồng thời phát triển năng lực học tập của từng HS. - Dạy học phân hóa sẽ giúp chúng ta khai thác tối đa năng lực của học sinh khá giỏi. - Dạy học phân hóa cũng sẽ giúp chúng ta phụ đạo, kèm cặp học sinh yếu kém tiến bộ trong học tập. - Tiến hành khảo sát, phân loại đối tượng học sinh ngay từ đầu năm học. - Lập kế hoạch kèm cặp giúp đỡ và bồi dưỡng các em. - Luôn quan tâm tới từng đối tượng học sinh, phát huy khả năng học tập của từng em. - Trong mỗi tiết học ( tiết chính ) giáo viên cần phải chú ý tới các đối tượng học sinh . Học sinh yếu đưa các câu hỏi dễ nhằm tạo hứng thú và giúp các em nắm dược các kiến thức cơ bản của môn học. Với học sinh khá giỏi đưa thêm câu hỏi mở rộng để phát huy khả năng sáng tạo của các em. - Tiết Bồi dưỡng – phụ đạo mà dạy nội dung toán cần được GV nghiên cứu kĩ từ khâu soạn bài. Bài soạn cần thể hiện rõ nội dung phân hoá đối tượng học sinh. 3. Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu học. Như chúng ta đã biết, đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) ở tiểu học tập trung theo những định hướng cơ bản: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của HS; hình thành và phát triển khả năng tự học cho HS; đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục và đặc điểm vùng, miền; đảm bảo tính trực quan; thực hiện dạy học tích hợp… nhằm khơi dậy hứng thú học tập cho HS. Ở tiểu học, đảm bảo tính phù hợp với đối tượng giáo dục là tôn trọng sự phát triển của mỗi cá nhân, tạo cơ hội phát triển tối đa khả năng cho mỗi người học qua dạy học phân hoá, bồi dưỡng HS có năng lực, phụ đạo HS yếu, HS có khó khăn trong học tập… Chấp nhận sự đa dạng trong giáo dục thể hiện tính nhân văn của GDTH. Tính phù hợp trong dạy.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> học ở tiểu học còn thể hiện ở sự phù hợp với đặc trưng môn học, hoạt động giáo dục; phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của lớp học, của nhà trường, của địa phương… Phương pháp thực hiện dạy học phân hoá đối tượng ở một số môn học ở tiểu học gắn liền với việc tổ chức dạy học. Tổ chức dạy học ở tiểu học linh hoạt, đa dạng phù hợp với mỗi đối tượng HS và điều kiện của nhà trường. Có thể tổ chức học theo cá nhân, theo nhóm, theo lớp; có thể học trong lớp hoặc ngoài lớp; có thể chuẩn bị bài ở nhà hay sinh hoạt theo các câu lạc bộ… giúp HS học tập hứng thú và đạt kết quả cao. Ví dụ, có thể tổ chức theo hướng các hoạt động giáo dục trên cơ sở phù hợp khả năng và nhu cầu của HS, chia HS theo các nhóm: Nhóm củng cố kiến thức; nhóm bồi dưỡng năng khiếu, sở thích; nhóm phát triển thể chất; nhóm phát triển nghệ thuật; nhóm hoạt động xã hội… Nên dành thời gian thích đáng cho việc tự học của HS với sự hướng dẫn, giúp đỡ thích hợp của GV. Tất cả hướng vào mục tiêu phát triển toàn diện cho HS. Như vậy, phương pháp, hình thức tổ chức dạy học ở tiểu học phải phù hợp với nội dung, đối tượng, điều kiện cụ thể của mỗi lớp học. GDTH thực hiện mục tiêu dạy chữ dạy người, hướng tới mục tiêu phát triển con người toàn diện. Với mục tiêu đó, GV cần có cách nhìn tổng thể, tích hợp các nội dung giáo dục của các môn học, giải quyết hài hoà các nhiệm vụ học tập, đó cũng chính là giải pháp tối ưu để đạt chất lượng, hiệu quả giáo dục ở tiểu học. 4. Các điều kiện để thực hiện hiệu quả việc dạy học phân hoá ở tiểu học Với ý nghĩa đảm bảo cho việc thực hiện tốt các mục đích dạy học đối với tất cả HS đồng thời khuyến khích phát triển tối đa và tối ưu những khả năng của cá nhân trong quá trình học tập, dạy học phân hóa (DHPH) đang được xem là một giải pháp phổ biến hiện nay. DHPH là phương pháp dạy học có tính đến sự khác biệt của người học (cá nhân) hoặc nhóm người học. Ở tiểu học, DHPH thường được thể hiện ở việc lấy chuẩn kiến thức, kĩ năng làm nền cơ bản. Ngoài kế hoạch dạy học, thông thường phân hóa để có những kế hoạch dạy học phù hợp, đưa HS yếu kém đạt chuẩn và giúp các đối tượng đã đạt chuẩn hoặc khá, giỏi phát triển ở mức cao hơn. Ngoài ra, ở một số nơi DHPH thể hiện ở việc tổ chức cho HS học theo chương trình tự chọn môn học. a. Sơ lược một số vấn đề về cơ sở lí luận Theo tác giả Nguyễn Bá Kim, DHPH có thể được thực hiện theo hai hướng: “DHPH trong” và “DHPH ngoài”. DHPH trong (hay còn gọi là phân hóa nội tại) là sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp với các đối tượng khác nhau trong cùng một lớp học, trong cùng khoảng thời gian, đảm bảo thống nhất một chương trình và kế hoạch dạy học. Nhìn bề ngoài “DHPH trong” không có gì khác biệt so với các lớp học thông thường. “ DHPH ngoài” là sử dụng những biện pháp phân hóa thích hợp để phân hóa rõ rệt về nội dung và cả hình thức tổ chức dạy học, tức là hình thành những nhóm ngoại khóa, lớp chọn, trường chuyên, sử dụng chương trình chuyên biệt, nội dung và kế hoạch dạy học không lệ thuộc chặt chẽ vào SGK..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Trong thực tiễn DH hiện nay, thường có hai hình thức DHPH gọi là “DHPH trung gian” và “DHPH bộ phận”. DHPH trung gian là DHPH dựa trên sự thống nhất của mục tiêu dạy học cho tất cá các đối tượng HS. HS có thể chọn một môn học hay lĩnh vực học tập mà mình ưa thích hoặc có sở trường để học chuyên sâu theo chương trình và tài liệu riêng. Hình thức này ở tiểu học được gọi là dạy học theo chương trình tự chọn. DHPH bộ phận là DHPH diễn ra ở cấp độ tổ chức hoạt động dạy học. Trong cùng một nội dung học tập, GV vận dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo cơ hội cho HS được học tập phù hợp với nhịp độ phát triển của cá nhân, nhằm đạt hiệu quả học tập cao nhất ở mỗi HS. Như vậy có thể coi DHPH trung gian là một cấp độ của DHPH ngoài và DHPH bộ phận là một cấp độ của DHPH trong. * Quy trình thực hiện DHPH ở tiểu học thường diễn ra như sau: Đánh giá, phân loại trình độ, năng lực học tập của HS. Xây dựng kế hoạch, nội dung và lựa chọn hình thức, phương pháp dạy học cho phù hợp với từng nhóm đối tượng hoặc từng đối tượng đặc biệt. Tổ chức triển khai thực hiện. Kiểm tra, đánh giá và điều chỉnh, hoàn thiện. b. Một số khó khăn trong thực tiễn hiện nay khi thực hiện DHPH Qua trực tiếp làm công tác giảng dạy và qua trao đổi với các đồng nghiệp, tôi đã tổng hợp được một số khó khăn khi tiến hành dạy học phân hóa như sau: - Sĩ số lớp học hiện nay khá đông (mỗi lớp thường trên dưới 30 HS), nên việc dạy học phù hợp với từng đối tượng HS rất khó. Chưa kể đến việc HS có thể học tốt môn này nhưng chưa tốt môn khác nên cần phải có nhiều cách chia nhóm, phân loại đối tượng HS phù hợp theo từng môn học. - Cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu chương trình, tài liệu tham khảo; thiếu phương tiện kĩ thuật, đồ dùng dạy học,... - Trình độ đào tạo và năng lực sư phạm của đội ngũ GV tiểu học hiện nay chưa đồng đều, chưa có nhiều GV có năng lực và kinh nghiệm trong việc DHPH. - GV tiểu học phải dạy nhiều môn nên khó khăn trong việc chuẩn bị kế hoạch bài dạy theo định hướng phân hóa. - Có thể xuất hiện những biểu lộ mất tự tin hay mặc cảm về tâm lí đối với HS đầu cấp khi bị xếp vào nhóm yếu, kém cũng như tâm lí lo lắng của phụ huynh HS. Để khắc phục những khó khăn trong thực tiễn nói trên, cần phải kết hợp nhiều giải pháp tổng thể như điều chỉnh sĩ số lớp học; tăng cường cơ sở vật chất, phương tiện dạy học; tổ chức biên soạn chương trình, nội dung; bồi dưỡng chuyên đề cho đội ngũ GV, tăng cường học liệu cho HS.... Trong đó cần ưu tiên cho việc nâng cao năng lực nghề nghiệp GV, hỗ trợ cho GV những nghiệp vụ sư phạm để DHPH có hiệu quả là cần thiết. c. Một số biện pháp về nghiệp vụ sư phạm để thực hiện dạy học phân hóa ở tiểu học đạt hiệu quả Trong từng công đoạn của tiến trình DHPH như đã trình bày ở trên, GV cần thực hiện những biện pháp về nghiệp vụ sư phạm như sau:.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> c.1. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra để đánh giá, chẩn đoán, phân loại đối tượng HS theo trình độ - Kết hợp kiểm tra định kì, kiểm tra thường xuyên và quan sát lớp học: GV cần thận trọng khi đưa ra kết luận một HS nào đó thuộc nhóm trình độ nào. Do vậy, cần phải kết hợp nhiều hình thức kiểm tra trong dạy học để có kết quả khách quan và chính xác. Ngoài việc kiểm tra định kì và kiểm tra thường xuyên, GV nên có sổ tay ghi chép kết quả quan sát, theo dõi hàng ngày, trong đó lưu ý đến những trường hợp đặc biệt, hoặc quá xuất sắc hoặc quá yếu để tiến hành DHPH phù hợp. - Kết hợp kiểm tra độ khó và độ nhanh, tăng cường cho HS tự đánh giá: Hiện nay, GV thường chỉ thiết kế đề kiểm tra theo độ khó. Để có thể phân loại sâu hơn, GV thiết kế đề kiểm tra kết hợp độ khó và độ nhanh, tức là tăng số lượng bài tập trong mỗi lần kiểm tra, kết quả đánh giá không theo thang điểm 10 mà là GV ghi nhận trong cùng một khoảng thời gian đó, HS làm đúng được bao nhiêu bài. Cách làm này khuyến khích HS phát huy hết khả năng của mình đồng thời có thể tự đánh giá khả năng của mình so với các bạn. c.2. Phân bậc nhiệm vụ trong thiết kế kế hoạch bài dạy Phân bậc nhiệm vụ học tập đối với nội dung mang tính lí thuyết: Kĩ thuật cơ bản cho việc thiết kế này là chia nhỏ nội dung học tập ra thành nhiều nhiệm vụ. HS khá, giỏi sẽ thực hiện nhiệm vụ khó hơn hoặc nhiều nhiệm vụ hơn hoặc thực hiện không có sự hướng dẫn. HS TB hoặc yếu sẽ thực hiện ít nhiệm vụ, đơn giản hơn hoặc ít hơn, hoặc được những chỉ dẫn, hỗ trợ nhiều hơn. Khi tổ chức DHPH nội dung thực hành luyện tập và sửa bài tập, thường yêu cầu cao về năng lực tổ chức và quản lý lớp học của người GV. Do đó GV cần dự kiến về thời gian và biện pháp sao cho phù hợp nhất để phát huy khả năng của từng HS. c.3. Linh hoạt trong tổ chức hoạt động nhóm khi DHPH Tùy theo mục tiêu dạy học, việc chia nhóm có thể theo nhiều cách: Nhóm đôi (nhóm đối ngẫu), nhóm ngẫu nhiên, nhóm hỗn hợp và nhóm phân theo trình độ. Trong DHPH, nhóm hỗn hợp được sử dụng khi nhiệm vụ của các nhóm là như nhau, với mục đích là HS giỏi sẽ giúp đỡ HS yếu hơn. Nhóm theo trình độ được sử dụng khi mức độ yêu cầu của nhiệm vụ từng nhóm khác nhau, như ví dụ nêu ở trên hoặc trong thực hành giải bài tập để mỗi nhóm được yêu cầu làm những bài tập với độ khó khác nhau. c.4. Giao tiếp trong dạy học phân hóa Đối với GV, lời nói của GV trong dạy học hoặc giao tiếp với HS rất có ý nghĩa vì đặc điểm tâm lí cơ bản của lứa tuổi này là vô tư và hồn nhiên, các em đặt rất nhiều niềm tin vào giáo viên. Do vậy, GV cần có kĩ thuật nói rõ ràng, tốc độ vừa phải, dễ nghe, thân thiện nhưng nghiêm túc và luôn khuyến khích. Không nên gay gắt hay nặng lời với những HS yếu kém. Với mỗi trường hợp, cần tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp hỗ trợ, giúp đỡ HS phù hợp. Đối với HS, GV nên khuyến khích HS nói lại bằng ngôn ngữ của mình khi hiểu một nội dung học tập nào đó. Ví dụ như mô tả lại cách hiểu các mối quan hệ trong một bài.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> toán, cách thực hiện các bước giải một bài toán, ... để giúp HS hiểu sâu sắc và ghi nhớ tốt hơn, đồng thời giúp GV có cơ sở để đánh giá HS trung thực hơn. ********************. (MÃ MÔ ĐUN TH 34) CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC ***Vị trí, vai trò của người GVCN : - GVCN là người được hiệu trưởng bổ nhiệm trong số những giáo viên có kinh nghiệm và có uy tín. Giáo viên chủ nhiệm lớp được thay mặt Hiệu trưởng quản lý và tổ chức học tập, rèn luyện đạt mục tiêu đào tạo. GVCN vừa đóng vai trò quản lý hành chính Nhà nước, vừa đóng vai trò người thầy giáo, đồng thời còn đóng vai trò người đại diện cho quyền lợi của tập thể lớp. - GVCN là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS lớp mình chủ nhiệm - GVCN là cầu nối giữa lớp với các GV bộ môn, Ban giám hiệu, Tổ CM, các tổ chức đoàn thể trong nhà trường (Công đoàn, Đoàn thanh niên, Nữ công…) và Cha mẹ học sinh - GVCN là người tổ chức các HĐGD trong lớp, các HĐTT và chịu trách nhiệm trước hiệu trưởng về công tác GD ĐT, lối sống và chuẩn KTKN cần đạt của lớp mình được quy định tại QĐ số 16/ QQD- BGD ĐT ngày 5/ 5/ 2006 của BGD và Đt về việc ban hành chương trình GDPT - GVCN lớp là người đại diện quyền lợi, nguyện vọng chính đáng của tập thể học sinh, là cầu nối giữa gia đình, nhà trường và xã hội. 1. Những vấn đề cơ bản về công tác chủ nhiệm trong giai đoạn hiện nay: 1.1. Nhiệm vụ , chức năng của người giáo viên chủ nhiệm trong trường tiểu học: a. Nhiệm vụ - Dựa vào tình hình thực tế, vạch kế hoạch giúp lớp tổ chức thực hiện chương trình đào tạo (học tập, rèn luyện) trong từng tuần, từng tháng, học kỳ và năm học. - Cùng cán bộ lớp theo dõi, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của lớp chủ nhiệm theo từng tháng, học kỳ và năm học; đồng thời báo cáo kết quả đó với nhà trường vào cuối mỗi tháng. - Liên hệ với gia đình HS để phối hợp giáo dục HS khi cần thiết. - Ghi nhận xét, xác nhận các vấn đề thuộc về quản lý hành chính Nhà nước trong phạm vị hoạt động của lớp (như các đơn từ của HS, các báo cáo của lớp …) - Kết thúc thời gian năm học, chủ nhiệm lớp phải bàn giao hồ sơ công tác chủ nhiệm lớp cho cán bộ văn phòng và bàn giao tình hình lớp cho giáo viên chủ nhiệm mới. b.Chức năng - Phát hiện, bồi dưỡng và cử đội ngũ cán bộ lớp và phân công nhiệm vụ nhằm giúp các em tổ chức thực hiện tốt mọi hoạt động của lớp, của trường. - Định hướng, tư vấn và giúp các em tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của lớp - Tổng hợp tình hình, đề xuất các giải pháp để tham mưu cho Trường về công tác giáo dục, rèn luyện của HS..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Nắm chắc tư tưởng, tinh thần thái độ và kết quả học tập, rèn luyện của HS; phối hợp với gia đình và đoàn thể để giúp đỡ, cảm hoá HS trong rèn luyện để trở thành người tốt cho xã hội. c. Quyền hạn - Được mời dự họp hoặc là thành viên hội đồng giải quyết các vấn đề về HS của lớp mình phụ trách. - Được liên hệ với các giáo viên bộ môn, Tổ trưởng tổ chuyên môn, BGH, ĐTN, Ban đại diện CMHS để phản ánh tình hình giảng dạy của giáo viên, tình hình học tập, rèn luyện của HS và bảo vệ quyền lợi chính đáng của HS lớp mình phụ trách. - Được quyền cho học sinh nghỉ học (khi HS có đơn với lý do chính đáng) một ngày trong phạm vi gần trường (25 km). - Được gọi HS cá biệt đến nơi làm việc để giáo dục HS. - Được mời phụ huynh HS đến trường để phối hợp giáo dục khi cần thiết.Giáo viên chủ nhiệm là người chủ chốt của nhà trường làm công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho HS.. Ngoài các nhiệm vụ như giáo viên bộ môn, giáo viên chủ nhiệm còn có những chức năng, nhiệm vụ sau đây: 1) Tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt để có biện pháp tổ chức giáo dục sát với đối tượng nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của từng học sinh và của cả lớp. 2) Xây dựng kế hoạch các hoạt động giáo dục thể hiện rõ mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục bảo đảm tính khả thi, phù hợp với đặc điểm HS, với hoàn cảnh và điều kiện thực tế nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của cả lớp và của từng học sinh; 3) Thực hiện các hoạt động giáo dục theo kế hoạch đã xây dựng; Tham gia hướng dẫn hoạt động tập thể, HĐGD và RLHS do nhà trường tổ chức. 4) Phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, với các giáo viên bộ môn, Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh, các tổ chức xã hội có liên quan trong việc hỗ trợ, giám sát việc học tập, rèn luyện, hướng nghiệp của học sinh lớp mình chủ nhiệm và góp phần huy động các nguồn lực trong cộng đồng phát triển nhà trường; 5) Nhận xét, đánh giá và xếp loại học sinh cuối kỳ và cuối năm học; đề nghị khen thưởng và kỷ luật học sinh; đề nghị danh sách học sinh được lên lớp thẳng, phải kiểm tra lại, phải rèn luyện thêm về hạnh kiểm trong kỳ nghỉ hè, phải ở lại lớp; hoàn chỉnh việc ghi sổ điểm và học bạ học sinh; 6) Báo cáo thường kỳ hoặc đột xuất về tình hình của lớp với Hiệu trưởng, hoặc phó hiệu trưởng khi được uỷ quyền. 7) Giáo viên chủ nhiệm là người trực tiếp, thường xuyên hướng dẫn học sinh tạo dựng môi trường thân thiện trong mỗi lớp học; là thành viên tích cực trong phong trào thi đua xây dựng “ Trường học thân thiện – Học sinh tích cực”. Giáo viên chủ nhiệm có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện các nhiệm vụ giáo dục của nhà trường.Vì vậy đề nghị các giáo viên chủ nhiệm nêu cao tinh thần trách nhiệm, với mục đích “ Tất cả vì học sinh thân yêu” tích cực tổ chức thực hiện các nhiệm vụ, góp phần giáo dục nhân cách học sinh có hiệu quả và nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 1.2.Yêu cầu đối với giáo viên chủ nhiệm trong công tác giáo dục địa phương trong giai đoạn hiện nay: - Về đạo đức nghề nghiệp. - GVCN cần quán triệt đường lối, chính sách, mục tiêu, nguyên lý giáo dục…. - Thu thập và xử lý thông tin đa dạng về lớp CN... - GVCN phải biết lập kế hoạch năm học và các kế hoạch giáo dục ngắn hạn… - Xây dựng tập thể HS lớp CN… - Tổ chức các hoạt động giáo dục và các hình thức giao lưu đa dạng… - Phát hiện kịp thời và ngăn ngừa những xung đột trong lớp. - Đánh giá kết quả tu dưỡng, học tập và sự tiến bộ của HS về các mặt giáo dục… - Phối hợp với các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường… - Cập nhật hồ sơ công tác GVCN và hồ sơ học sinh… Hiện có những thay đổi và tác động của môi trường kinh tế xã hội cũng như môi trường giáo dục đối với nhà trường phổ thông và các hoạt động GD trong nhà trường, trong đó có các hoạt động thuộc công tác GV chủ nhiệm lớp. Theo đó, cần thiết phải chú trọng hơn nữa đến công tác GV chủ nhiệm lớp và đề cao vai trò của GV chủ nhiệm lớp. Ngoài việc tực tiếp giảng dạy ở lớp chủ nhiệm, GV chủ nhiệm trước hết phải là nhà GD, là người tổ chức hoạt động GD, quan tâm tới từng học sinh, chăm lo đến việc rèn luyện đạo đức, hành vi, những biến động về tư tưởng, nhu cầu, nguyện vọng của các em. Đồng thời, người GV chủ nhiệm lớp bằng chính nhân cách của mình, là tấm gương tác động tích cực đến việc hình thành các phẩm chất đạo đức, nhân cách của HS. Mặt khác, họ còn là cầu nối giữa tập thể HS với các tổ chức – xã hội trong và ngoài trường, là người tổ chức phối hợp các lực lượng GD. Người GV chủ nhiệm lớp là người đại diện cho quyền lợi chính đáng của HS, bảo vệ HS về mọi mặt một cách hợp lý, phản ánh trung thành mọi nhu cầu, tâm tư, nguyện vọng của HS với Ban giám hiệu nhà trường, với các GV bộ môn, với gia đình HS, với cộng đồng và với các đoàn thể xã hội khác. Trên cơ sở xác định phẩm chất và năng lực của GV chủ nhiệm lớp, cần chú ý đến các điều kiện để người GV có thể làm công tác chủ nhiệm hiệu quả. Các điều kiện này rất đa dạng. Bên cạnh đó, trong quá trình lao động nghề nghiệp, GV phải được bồi dưỡng về công tác chủ nhiệm lớp với nội dung như: phương pháp xây dựng hồ sơ công tác chủ nhiệm, kỹ năng làm công tác chủ nhiệm, kỹ năng tổ chức các hoạt động xã hội… Kinh nghiệm của các GV chủ nhiệm lớp cũng chỉ rõ: Thành công của phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” ở mỗi nhà trường phụ thuộc rất nhiều vào người GV chủ nhiệm lớp. Điều này khẳng định, hơn những GV khác, người GV chủ nhiệm lớp không chỉ nắm vững mục tiêu, nội dung của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, HS tích cực” mà còn thuần thục trong phương pháp triển khai phong trào thi đua này, có kỹ năng tích hợp nội dung của phong trào thi đua với nội dung của công tác chủ nhiệm lớp. 1.3. Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH, Đồng nghiệp, phụ huynh, cha mẹ học sinh và cộng đồng: * Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với BGH:.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Mối quan hệ giữa GVCN lớp với BGH và HĐGD nhà trường là mối quan hệ của người bị quản lý đối với lãnh đạo, vì thể nó cần thiết phải thực hiện những công việc sau: Tiếp nhận chủ trương, kế hoạch và những định hướng cho từng hoạt động cụ thể của BGH và HĐGD nhà trường. Xây dựng kế hoạch và chỉ đạo triển khai thực hiện kế hoạch cho phù hợp với tình hình của lớp chủ nhiệm. Trong quá trình xây dựng và triển khai kế hoạch, nếu xuất hiện những khó khăn hoặc những tình huống đột biến không thể hoặc không thuộc quyền xử lý thì cần báo cáo kịp thời với BGH và HĐGD để lấy ý kiến chỉ đạo, bổ xung, điều chỉnh kế hoạch hoặc thay đổi phương pháp, hình thức tổ chức hoạt động tận dụng sự hỗ trợ về tinh thần và vật chất của cấp trên. Báo cáo kế hoạch hoạt động chủ nhiệm lớp theo định kỳ (cuối học kỳ, cuối năm học) hoặc đột xuất nếu có với BGH và HĐGD theo hướng dẫn chung của nhà trường (đánh giá, xếp loại học tập, rèn luyện đạo đức và các mặt hoạt động khác của từng học sinh và của cả lớp). Đề đạt nguyện vọng chính đáng của học sinh lớp chủ nhiệm với BGH và HĐGD nhà trường, đề xuất các phương án giải quyết với sự suy nghĩ thấu đáo, cẩn trọng. Phản ánh những ý kiến nguyện vọng của gia đình học sinh về sự đồng tình hay phản bác đối với những chủ trương, quy định của trường trong các mặt hoạt động giáo dục để cấp trên có sự xem xét, giải đáp hoặc sửa đổi cho phù hợp với thực tế. * Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Đồng nghiệp: - Trong nhà trường các em được học tốt tất cả các môn theo qui định. Ngoài công tác chủ nhiệm, GVCN còn phải phụ trách các bộ môn chuyên môn vì thế viếc phối hợp với giáo viên bộ môn là hết sức quan trọng và cần thiết. - Phối hợp với các lực lượng khác như: bảo vệ, thư viện, y tế, đặc biệt là các tổ chức đoàn thể và bộ phận giám thị… để giáo dục học sinh. GVCN cần phản ánh nguyện vọng của học sinh, đề xuất yêu cầu và đề nghị các lực lượng này cùng phối hợp tác động tới học sinh, hỗ trợ các hoạt động của lớp khi cần thiết. * Quan hệ giữa giáo viên chủ nhiệm đối với Phụ huynh, cha mẹ học sinh và cộng đồng: Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên liên lạc, trao đổi với phụ huynh về tình hình học tập của các em trong nhà trường (qua số điện thoại, liên lạc trực tiếp…). Vậy khi đặt mình vào vị trí của người phụ huynh, thì hãy suy nghĩ họ mong muốn điều gì ở người giáo viên chủ nhiệm? Chính vì thế giáo viên chủ nhiệm phải thật sự quan tâm phối hợp chặt chẽ với phụ huynh để cùng nhau tìm ra phương pháp hiệu quả nhất nhằm hạn chế những tiêu cực làm sa sút về nhân cách đạo đức con người mà trong đó có con em chúng ta. Hãy đến nhà của các em thường xuyên vi phạm để có thể nắm tình hình một cách chính xác nhất, đừng ngồi chờ PHHS đến rồi mới phản ánh ý kiến, khi thấy sự việc là cần thiết! 2. Hồ sơ về công tác chủ nhiệm lớp: - Sổ chủ nhiệm lớp. - Kế hoạch công tác chủ nhiệm hàng tháng. - Sổ ghi các nội dung thu chi quỹ lớp và các khoản thu khác..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> - Sổ liên lạc với gia đình học sinh. - Nội quy của học sinh. - Sổ thi đua của lớp. - Các văn bản liên quan đến công tác chủ nhiệm. + Sổ theo dõi kết quả học tập của HS để phối hợp với GV dạy lớp lên kế hoạch nâng HS kém hoặc bồi dưỡng HS giỏi, Sổ điểm. + Giáo án lên lớp tiết chủ nhiệm và sinh hoạt dưới cờ: dùng thuật ngữ giáo án để thể hiện tính nghiêm túc về mặt trách nhiệm chứ thật ra sự cần thiết ở đây chính là phải chắt lọc thông tin rõ ràng khúc chiết và tuyệt đối không được cháy giáo án. + Các bài kiểm tra chuyên môn. + Các bài báo cáo, bài tập về nhà để kiểm tra. + Sổ cập nhật những thông tin khẩn cấp. + Sổ họp phụ huynh học sinh, Biên bản các cuộc họp phụ huynh học sinh. + Sổ theo dõi những các hoạt động ngoài giờ lên lớp, chương trình phụ đạo và bồi dưỡng HS giỏi... ***KẾT LUẬN: Khác với trung học, giáo viên (GV) dạy các môn học ở tiểu học cũng là GV chủ nhiệm. Chính vì tập trung đầu tư công sức vào bài dạy của nhiều môn mà đa số thầy cô ở tiểu học gần như chỉ thực hiện công tác chủ nhiệm trên sổ chủ nhiệm và sổ liên lạc theo quy định. Thực tế, công tác chủ nhiệm ở tiểu học rất quan trọng, nếu làm tốt, nó sẽ hỗ trợ rất nhiều cho thầy cô trong việc giảng dạy, giáo dục học sinh (HS). GV tiểu học thường có thời gian gần gũi các em rất nhiều, một số trường hợp thầy cô tiếp xúc với HS còn nhiều hơn cha mẹ. Vì vậy, thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Làm tốt công tác chủ nhiệm, GV có thể ngăn chặn được trẻ bỏ học, trẻ chán học, trẻ trầm uất vì gia đình, trẻ bỏ nhà đi hoang, trẻ giải quyết bất đồng bằng bạo lực… đồng thời phát huy được những năng khiếu tiềm ẩn ở các em, từ đó các em cũng thích đi học và thích học hơn. Thầy cô chủ nhiệm không chỉ là người dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư, tình cảm của trẻ nhiều nhất. Để làm tốt công tác chủ nhiệm, việc đầu tiên khi nhận lớp, GV phải nắm được thông tin cá nhân từng em. Lưu ý các trường hợp HS mồ côi, cha mẹ ly hôn, cha mẹ làm ăn xa (hoặc lý do khác) phải ở với người thân, gia đình quá khó khăn về kinh tế, bản thân các em bị bệnh mãn tính, bệnh phải điều trị dài hạn… Kế tiếp là các em được phụ huynh quá cưng chiều, các em học yếu, các em thường nghịch phá chọc ghẹo bạn bè. Các trường hợp này thường nảy sinh nhiều vấn đề trong năm học, bởi ở tuổi tiểu học, trẻ rất nhạy cảm, hành động theo bản năng, dễ bi quan trước những điều không tốt đẹp từ gia đình hay từ bạn bè trường lớp…. Từ những thông tin này, GV nên gần gũi trò chuyện tiếp xúc các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó, thầy cô hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai lầm, các hành vi không hay… hướng các em vào điều tốt đẹp, lạc quan hơn. Quan hệ mật thiết với phụ huynh HS cũng là điều hết sức quan trọng trong công tác chủ.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> nhiệm. Đừng đợi đến các kì họp phụ huynh hay khi các em vi phạm nội quy trường lớp mới mời phụ huynh lên để trao đổi. GV có thể thăm hỏi chuyện gia đình, trao đổi cách dạy dỗ con em khi có dịp gặp mặt nhau như lúc phụ huynh đưa đón con em. Thầy cô cũng đừng để các cuộc họp phụ huynh là lúc phê phán, chê bai việc học tập, hạnh kiểm của HS. Hãy làm cho cuộc họp trở thành buổi trao đổi thân mật giữa người giáo dục trẻ em được đào tạo bài bản ở trường sư phạm và những người giáo dục trẻ theo bản năng, theo vốn hiểu biết của bản thân. Cả hai bên đều học hỏi, trao đổi kinh nghiệm cho nhau. Làm được như thế, chắc chắn các thầy cô sẽ được sự tin yêu ở phụ huynh và họ sẵn sàng hỗ trợ cho GV trong mọi hoạt động học tập, sinh hoạt mà GV đề ra, cũng như dễ dàng cung cấp mọi thông tin về trẻ ở gia đình. Ngoài ra, công tác chủ nhiệm còn phải làm cho lớp học đoàn kết, yêu thương nhau, luôn quan tâm gắn bó với nhau. Để tạo được một lớp học như thế, người GV cần phải tạo điều kiện cho HS thể hiện sự quan tâm của mỗi thành viên trong lớp, chẳng hạn như cho các em tự làm thiệp chúc mừng bạn trong lớp nhân ngày sinh nhật, bạn trai làm thiệp chúc mừng bạn gái nhân ngày 8-3, thăm các bạn bị bệnh, viết nhật ký lớp (mỗi HS viết 1 ngày, nêu tất cả những vui buồn của lớp trong ngày mà mình cảm nhận được), động viên các em tham gia tất cả các phong trào của trường, của đội, nhất là các phong trào đòi hỏi sự tham gia tập thể… Có thể nói để vừa phải đảm bảo tốt việc truyền thụ kiến thức văn hóa ở nhiều môn học cho HS, vừa phải làm tốt công tác chủ nhiệm, đó là việc không dễ dàng nhưng “Chính sự quan tâm, lòng yêu thương và sự chia sẻ của người thầy đã giúp những đứa trẻ phát huy hết khả năng của chúng” – theo John O’brien. Mong rằng các thầy cô giáo tiểu học đừng quên điều đó. *********************. (MÃ MÔ ĐUN TH 35) GIÁO VIÊN CHỦ NHIỆM TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC 1. Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh trong các giờ học chính khóa: Như chúng ta đã biết, bản chất của quá trình giáo dục là quá trình tổ chức cuộc sống, hoạt động và giao lưu cho học sinh. Như vậy, để giáo dục học sinh, giáo viên chủ nhiệm lớp cần tổ chức tốt các hoạt động và thu hút các em tham gia một cách tích cực nhất. Trong trường tiểu học cần tổ chức tốt các hoạt động sau đây: Học tập là hoạt động quan trọng nhất của học sinh, để giúp cho lớp học tập tốt, giáo viên chủ nhiệm lớp phải chú ý: Rèn cho học sinh thói quen đi học đầy đủ, đùng giờ, bằng các biện pháp cụ thể sau: - Giáo viên chủ nhiệm có mặt thường xuyên tại lớp 10 phút trước giờ học mỗi ngày, đặc biệt là những ngày đầu tuần. - Tổ chức 10 phút “ Ôn bài” đầu giờ học mỗi ngày. Ôn bài là biện pháp giúp nhau ôn tập nhanh, chuẩn bị sẵn sàng cho ngày học mới. Truy bài đầu giờ còn là biện pháp khắc phục tình trạng đi học muộn, cho nên cần được tổ chức tốt và duy trì lâu dài..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> - Thành lập đội “Sao đỏ” của lớp để theo dõi thi đua giữa các tổ và tham gia trực tuần với các lớp trong trường. Rèn cho học sinh thói quen tích cực tham gia học tập bằng các biện pháp sau: - Tổ chức thi đua giữa các tổ trong lớp, ghi lại số lần tham gia phát biểu ý kiến trong các giờ học. - Tổ chức cho học sinh chuẩn bị trước các bài học trong ngày. - Tổ chức cho học sinh trao đổi về phương pháp đọc sách, ghi chép và sử dụng tài liệu và thảo luận trên lớp. - Nêu gương những học sinh có phương pháp học tập tốt, đặc biệt những học sinh nghèo học giỏi. - Tổ chức cho học sinh học nhóm, đôi bạn cùng học để hỗ trợ nhau học tập. 2. Giáo viên chủ nhiệm với các hoạt động ngoài giờ lên lớp: Tiết cháo cờ, hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM. a. Với Tiết chào cờ đầu tuần: sau tiết sinh hoạt dưới cờ (tiết đầu tuần), các giáo viên chủ nhiệm (GVCN) nắm danh sách các học sinh (HS) vắng có phép, không phép, đi trễ, hoặc vi phạm nội quy như mang dép lê, áo không có phù hiệu, tóc tai xịt keo hay nhuộm màu… để GVCN làm việc với các em, quán triệt nội quy hoath động của lớp…. Bởi vì trong giờ này, ngoài những vấn đề “thời sự” liên quan đến nhà trường và học sinh, thầy cô còn cung cấp cho học sinh những bài học đạo đức . Khi trong lớp có học sinh nào gặp hoàn cảnh khó khăn là thầy cô gợi ý cho lớp thể hiện tinh thần tương thân tương ái, giúp một bạn vượt khó, với tinh thần “lá lành đùm lá rách”, chuyện kỷ luật trong lớp, việc thi đua nội bộ lớp, việc đánh giá học sinh cũng được giáo viên hướng dẫn thực hiện một cách nhẹ nhàng và chân tình. b. Với hoạt động của sao nhi đồng và Đội TNTPHCM: Phối hợp với Tổng phụ trách trong hoạt động Đội – Sao: - Mỗi tiết học hiệu quả hơn nếu nề nếp lớp học tốt. Bởi vậy, cần phối hợp với ban thi đua yêu cầu chấm điểm về nề nếp lớp học và trao đổi các hoạt động ngoài giờ lên lớp phù hợp. - Trong sinh hoạt 15 phút, GVCN định hướng cho các em phụ trách sao (HS lớp 45) đến giao lưu chi đội các lớp bằng một số hoạt động giao tiếp hàng ngày đơn giản; hay kiểm tra bảng cửu chương, kỹ năng tính toán, thi vẽ tranh. Vậy là chỉ 15 phút sinh hoạt Sao đầu buổi học các em được rèn rất nhiều kỹ năng nhờ vào anh chị phụ trách Sao. Giáo viên chủ nhiệm với công tác quản lý và giáo dục học sinh 2 buổi/ ngày Dạy học cả ngày, giáo viên chủ nhiệm(GVCN) có cơ hội tốt nhất để thực hiện việc dạy phân hoá HS, có thời gian bù đắp lỗ hổng kiến thức cho HS yếu, có điều kiện tốt nhất để phát triển năng lực tư duy cho HS khá giỏi. Ngoài ra, dạy học cả ngày, GV có thể tạo những sân chơi thật bổ ích cho việc phát triển toàn diện nhân cách học sinh. Lâu nay, trong dạy học GV đã thực sự đổi mới từ việc chọn nội dung, hình thức, thời lượng, đồ dùng dạy học, cách đánh giá,… cho phù hợp với đối tượng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục (GD)..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Trong giai đoạn hiện nay, công tác chủ nhiệm lớp ngày càng đòi hỏi sự dày công của người giáo viên hơn nữa; bởi trong một xã hội đang phát triển, mặt trái của kinh tế thị trường có tác động đến việc hình thành nhân cách của học sinh, bên cạnh đó để mưu sinh nên không ít phụ huynh đã giao phó việc giáo dục con cái cho nhà trường. Vì vậy, thầy cô giáo chủ nhiệm giống như người cha, người mẹ thứ hai của các em. Chính vì thế mà công tác chủ nhiệm đòi hỏi ở các thầy, cô phải có nhiều kinh nghiệm và sự hy sinh cao cả. * Công tác chủ nhiệm lớp là hệ thống những kế hoạch, những biện pháp mà người giáo viên đã đưa ra nhằm tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện tốt những nhiệm vụ của mình do nhà trường, Đoàn, Đội đưa ra. Bao gồm: - Khảo sát đối tượng học sinh để đưa ra những phương pháp giáo dục phù hợp. + Học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn. + Học sinh khuyết tật. + Học sinh cá biệt về đạo đức. + Học sinh yếu. + Học sinh có những năng lực đặc biệt. - Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp giỏi quản lý, tổ chức, kiểm tra. - Phối kết hợp thường xuyên với phụ huynh. - Đầu tư, tổ chức các phong trào trong nhà trường. - Nêu gương và khen thưởng. 3. Vấn đề phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm với Ban đại diện cha mẹ học sinh - Giáo viên chủ nhiệm là người nắm rõ mọi chủ trương, nhiệm vụ giáo dục của nhà trường, do đó trở thành “nhịp cầu” trung gian trao đổi thông tin giữa nhà trường với Ban đại diện cha mẹ học sinh. Mặt khác, thu nhận thông tin, ý kiến, nguyện vọng của cha mẹ học sinh để báo lại với lãnh đạo nhà trường. Từ đó gắn kết được trách nhiệm giữa nhà trường và gia đình trong việc giáo dục học sinh. Sự phối hợp giữa Ban đại diện cha mẹ học sinh với giáo viên chủ nhiệm được thực hiện có tổ chức theo kế hoạch chung của nhà trường bằng những cuộc họp định kỳ. Thông qua những cuộc họp này, giáo viên chủ nhiệm ngoài việc truyền đạt chủ trương, thông báo của nhà trường, còn trực tiếp báo cáo với cha mẹ học sinh về thực trạng của lớp, tình hình học tập, tư cách đạo đức của từng học sinh. Muốn vậy, giáo viên chủ nhiệm cần phải bám sát, gần gũi, có trách nhiệm và tình thương để có những nhận xét, đánh giá phân minh nhất đối với từng đối tượng - điều này sẽ giúp phụ huynh học sinh tin tưởng đối với việc giáo dục của nhà trường và kịp thời chấn chỉnh việc học và tác phong đạo đức học sinh. - Ngoài ra, giáo viên chủ nhiệm còn chủ động liên hệ mời phụ huynh đến trường hoặc giáo viên chủ nhiệm đến nhà trao đổi riêng, bàn bạc giải pháp giáo dục và khắc phục những sai phạm của học sinh. - Mỗi lớp đều có ban chấp hành chi hội, giáo viên chủ nhiệm tham vấn với ban chấp hành chi hội nhằm có những hành động thiết thực để động viên, quan tâm đúng mức với mọi hoạt động của lớp, của trường. Mặt khác, để nắm bắt những hành động sát thực của học sinh ở trường, lớp, giáo viên chủ nhiệm mời đại diện chi hội cùng tham gia sinh hoạt.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> lớp, tiếng nói động viên, căn dặn của phụ huynh học sinh cũng có tác dụng tích cực trong việc giáo dục đạo đức học sinh, đây cũng là cơ hội gặp gỡ để phụ huynh học sinh trao đổi những suy nghĩ, mong muốn của gia đình trong việc giáo dục. Sự phối hợp chặt chẽ đó sẽ giúp giáo viên chủ nhiệm hiểu cặn kẽ hơn từng đối tượng học sinh và có phương pháp phù hợp cho từng đối tượng (đặc biệt là những học sinh cá biệt, có hành vi, lối sống lệch chuẩn). - Gia đình là nơi đầu tiên và có trách nhiệm cao hơn cả trong việc hình thành nhân cách học sinh. Song có những gia đình thiếu kiến thức sư phạm nên đi ngược lại với mục tiêu giáo dục của nhà trường. Do đó, giáo viên chủ nhiệm có liên hệ, trao đổi với phụ huynh học sinh thì mới thống nhất được phương pháp giáo dục hiệu quả. 4. Giáo viên chủ nhiệm với công tác giáo dục học sinh cá biệt **Thưc trạng vấn đề Từ thực tiễn của nhà trường, hiện nay học sinh cá biệt, chưa ngoan không phải là phổ biến nhưng ở trường nào cũng chịu ảnh hưởng bởi đối tượng học sinh này đối với phong trào chung của lớp, chúng gây ảnh hưởng thường xuyên đến kết quả thi đua của bạn bè toàn lớp. Nhìn chung những biểu hiện của các em là chưa có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình – nhà trường – xã hội. Bên cạnh còn có nhiều nguyên nhân khác gây ra: *Nguyên nhân dẫn đến học sinh cá biệt: - Các em đi học do gia đình ép buộc. - Do tác động của xã hội, bị bè bạn không tốt lôi kéo. - Sự kích động của phim ảnh, các trò trơi bạo lực từ game. - Chưa có sự quan tâm của cha mẹ đến việc học của con cái. - Do gia đình khá giả, chỉ biết cung cấp tiền cho con mà không quan tâm đến kết quả học tập của con mình, dẫn đến tính ỷ lại. - Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, phải làm thêm giúp gia đình nên thường xuyên bỏ học, học lực sa sút. - Do cho mẹ ly hôn, dẫn đến buồn chán. - Do lớp học có quá nhiều học sinh yếu, kém… Bên cạnh cũng có thể một số nguyên nhân xuất phát từ giáo viên như: *Đối với giáo viên bộ môn: - Do học yếu kém nên giáo viên bộ môn phân biệt trong cư xử. - Thường xuyên gọi trả bài. - Cho nhiều điểm kém. - So sánh giữa học sinh này với học sinh khác. - Hâm dọa sẽ ở lại lớp … làm cho học sinh mất đi niềm tin dẫn đến bi oan, chán chường, không muốn học những môn đó… *Đối với giáo viên chủ nhiệm: -Trong quá trình giáo dục học sinh cá biệt còn sử dụng tùy tiện các phương pháp không phù hợp và chưa khoa học. - Xử lý học sinh trong lớp không công bằng.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Không xây dựng được quy định riêng cho lớp. - Xử lý không đến nơi, đến chốn. - Chỉ nhắc nhỡ mà không có biện pháp cưỡng chế. - Học sinh vi phạm lỗi nhẹ cũng mời phụ huynh. - Chưa kết hợp với phụ huynh, chưa thông báo kịp thời với phụ huynh. - Có thái độ kỳ thị đối với học sinh yếu, kém (cá biệt). - Không thường xuyên theo dõi lớp mà chỉ giao cho lớp trưởng quản lý. - Bầu Ban cán sự lớp không đủ năng lực. - Phạt học sinh vi phạm quá nặng. - Chỉ nói mà không thực hiện… *Đối với học sinh cá biệt thường có các biểu hiện sau: - Bỏ học, cúp tiết, thường đi học trễ. - Không đồng phục, phù hiệu. - Đầu tóc, tác phong. - Mất trật tự trong giờ học. - Không chú ý nghe thầy cô giảng dạy. - Thiếu văn hóa (nói tục, chưỡi thề). - Đùa giỡn, chọc gẹo người khác quá mức. - Sách vỡ không đầy đủ, thường xuyên không chép bài. - Mê chơi game, lôi kéo, rủ rê bè bạn. - Đia học về nhà không đúng giờ. - Thường nói dối. - Không giữ vệ sinh trường lớp … **************************.

<span class='text_page_counter'>(19)</span>

×