Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SKKN một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho học sinh tiểu học thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 21 trang )

I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Như chúng ta đã biết giáo dục là hoạt động có ý nghĩa quan trọng hàng
đầu trong quá trình phát triển của đất nước. Đối tượng giáo dục là con người, mà
con người là chủ thể và là động lực phát triển của xã hội. Do đó, giáo dục phải
luôn đặt ra nhiệm vụ tác động rõ ràng, mạnh mẽ và liên tục lên quá trình hình
thành và phát triển nhân cách của người học, nhằm hình thành và củng cố những
đặc điểm, nhân cách cần thiết, phù hợp với các yêu cầu đời sống chính trị, kinh
tế của xã hội.
Từ sau cách mạng tháng 8 - 1945, Đảng và nhà nước ta luôn đặt sự nghiệp
giáo dục lên vị trí hàng đầu, với nhiệm vụ đào tạo con người phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã xác định: “Vì lợi
ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”. Trải
qua từng giai đoạn phát triển của cách mạng và sự nghiệp giáo dục, có thể nói
chúng ta đã có những mơ hình nhân cách được xác định phù hợp với u cầu,
nhiệm vụ của từng thời kì. Đó là mẫu hình con người “vừa hồng, vừa chuyên”
mà sinh thời, Hồ Chủ Tịch thường nhấn mạnh: “Con người phát triển toàn diện”.
Đó cũng chính là mục tiêu đào tạo của nền giáo dục XHCN.
Tại hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành TW Đảng khóa VIII có đề cập
đến vấn đề cần phải giáo dục toàn diện, giáo dục Đức - Trí - Thể - Mỹ trong nhà
trường. Để đạt được những điều đó phải bắt đầu từ GDTH. GDTH là bậc học đặt
cơ sở nền móng cho việc hình thành và phát triển toàn bộ nhân cách con người,
đặt nền tảng cho hệ thống giáo dục quốc dân. Ở trường TH, song song với
những môn học cung cấp, trang bị cho các em những kiến thức cơ bản về Toán,
Tiếng Việt, Tin học, Tiếng Anh, Khoa học… thì việc giáo dục KNS nhằm giúp
các em rèn luyện kĩ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống, thói quen và
kĩ năng làm việc theo nhóm, kĩ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh
thói quen rèn luyện sức khỏe, ý thức tự bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao
thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội là vơ cùng quan trọng, ảnh hưởng đến q
trình hình thành và phát triển nhân cách sau này của các em HS. Tuy nhiên trong
thực tế hiện nay, nội dung rèn KNS chưa được sắp xếp tiết học riêng biệt mà chủ
1




yếu được GV lồng ghép, tích hợp trong từng bộ môn như Đạo đức, Tiếng Việt…
Với thời lượng hạn hẹp và sự hạn chế về tài liệu tham khảo nên việc rèn KNS
cho các em chưa đạt được hiệu quả.
Là một GV - TPT được phân công phụ trách công tác Đội và hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp. Tơi rất băn khoăn khi thấy học sinh của mình thiếu kĩ
năng giao tiếp, chưa có thói quen tự giới thiệu mình với người khác. Thậm chí
có những em khơng dám nói hoặc khơng biết nói lời xin lỗi khi các em làm
sai… Chính vì vậy tơi ln đặt ra cho mình câu hỏi: làm sao để giúp các em có
những KNS tốt? Tơi đã khơng ngừng trao đổi với Ban giám hiệu nhà trường, với
các giáo viên chủ nhiệm, giáo viên phụ trách hoạt động ngoài giờ lên lớp của
trường bạn. Ngồi ra tơi làm phiếu khảo sát để nắm bắt được tình hình thực tế
của học sinh và tự rút ra kinh nghiệm, tiến hành thực hiện áp dụng một số biện
pháp để nâng cao chất lượng trong việc rèn KNS. Qua hai năm học 2014 - 2015
và 2015-2016 đã áp dụng tôi thấy thu được kết quả đáng khích lệ. Nên tơi mạnh
dạn viết sáng kiến kinh nghiệm về “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống cho
học sinh tiểu học thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp”.

2


II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Phần 1. Thực trạng của việc rèn kĩ năng sống trong hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp.
Trong những năm qua khi phong trào “Xây dựng trường học thân thiện,
học sinh tích cực” được triển khai và hưởng ứng mạnh mẽ trong các cấp học.
Ngoài việc nâng cao chất lượng giáo dục nhà trường còn chú trọng tới công tác
giáo dục đạo đức, KNS cho học sinh. Hình thành những cơ sở ban đầu cho sự
phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ

năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Chính vì vậy nội dung giáo dục KNS đã được tích hợp vào các mơn học
và hoạt động ngoài giờ lên lớp. Hàng năm giáo viên TPT được tham gia tập
huấn lớp KNS do Sở GD & ĐT tổ chức để triển khai tới học sinh trong tồn liên
đội. Trên thực tế thời gian tập huấn khơng nhiều, tài liệu tham khảo khơng có.
GV khơng được trải nghiệm qua thực tế, thụ động trong việc tiếp thu kiến thức
với hình thức giảng viên nói và GV lắng nghe. Do đó khi về trường học gặp rất
nhiều khó khăn như HS đông, thời gian để ngồi nghe dài, việc được thực hành
rất hạn chế chỉ tập trung vào một số em nhanh nhẹn, hoạt bát. Trong qua trình
triển khai, tôi quan sát thấy học sinh không hào hứng, một số em lớp bé tỏ ra
mệt mỏi, chán nản. Một bộ phận HS lớp lớn thiếu tập trung, không hợp tác do
đó hiệu quả giáo dục khơng cao. Bên cạnh đó là yếu tố gia đình. Đa số học sinh
được bao bọc bởi bố mẹ, các em thụ động ngay cả trong việc chuẩn bị quần áo,
sách vở, đồ dùng cá nhân cho bản thân. Một số HS bị ảnh hưởng bởi lối sống tự
do, say mê phim ảnh, điện tử thiếu lành mạnh nên có những cử chỉ, hành vi chưa
có thói quen nghe lời người lớn tuổi, phản ứng chưa tích cực khi bị thầy cơ nhắc
nhở. Với mong muốn của một GV - TPT yêu nghề, mến trẻ. Ngoài việc tổ chức
cho các em sân chơi bổ ích sau những giờ học căng thẳng, tơi cịn mong muốn
được cùng các môn học khác giáo dục KNS như nhóm kĩ năng giao tiếp, hịa
nhập cuộc sống, nhóm kĩ năng học tập, lao động, vui chơi giải trí. Vì vậy cuối
năm học 2013 - 2014 tơi đã tiến hành khảo sát về sự hứng thú đối với các nội
dung rèn KNS mà tơi đã triển khai trong tồn liên đội để tìm nguyên nhân
3


Kết quả thu được như sau:
Khối
1
2
3

4
5

Thích
Số lượng
32/93
25/75
30/74
33/98
23/76

Khơng thích
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
34,4%
61/93
65,6%
33,3%
50/75
66,7%
40,5%
44/74
59,5%
33,7%
65/98
66,3%
30,3%
53/76
69,7%

NĂM HỌC 2013 - 2014

Từ kết quả trên, tôi thấy số lượng HS u thích nội dung rèn KNS thơng
qua HĐGDNGLL cịn hạn chế, nên bản thân tơi tự kiểm điểm lại chính mình,
quan sát đồng nghiệp và trao đổi với họ, tôi thấy nguyên nhân cơ bản dẫn đến
kết quả cịn thấp đó là:
+ Về phía GV:
Chưa xây dựng được kế hoạch hoạt động ngoài giờ lên lớp gắn liền với
giáo dục KNS cho học sinh một cách cụ thể, sắc nét.
Phụ thuộc vào tài liệu, nội dung chương trình tập huấn, chưa thực sự linh
hoạt, sáng tạo trong q trình thực hiện, cịn tiết kiệm lời nói động viên khen
thưởng HS và sự hài hước trong khi truyền đạt.
Hình thức tổ chức chưa đa dạng, phong phú nên chưa kích thích được
hứng thú cho HS. GV chưa để HS hoạt động nhiều, chỉ một số HS được hoạt
động còn các HS khác buộc phải lắng nghe.
GV chưa khai thác có hiệu quả các thiết bị, đồ dùng có sẵn. Chưa tích cực
ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong q trình tổ chức HĐGDNGLL.
Chưa có sự phối kết hợp giữa phụ huynh với nhà trường và các lực lượng
xã hội trong q trình tổ chức các HĐGDNGLL
+ Về phía HS:
Thụ động tiếp thu kiến thức, không phát huy được tính chủ động sáng tạo
trong các hoạt động. Các em cịn e dè, khơng giám bày tỏ ý kiến của mình.
Đặc biệt học sinh khơng thích nghe GV thuyết trình trong thời gian dài
HS chưa tích cực trong việc trả lời câu hỏi tìm hiểu về nội dung giáo dục
KNS khi giáo viên triển khai.
4


Phần lớn các em không được hoạt động, ngồi nghe nhàm chán nên khơng
tập trung hoặc nói chuyện gây mất trật tự, ảnh hưởng khơng nhỏ đến q trình

tiếp thu kiến thức của những học sinh khác.
Những lí do trên khiến nội dung rèn KNS thông qua HĐGDNGLL chưa
đạt hiệu quả. Vậy làm thể nào để thu hút được học sinh hào hứng tham gia, phụ
huynh nhiệt tình ủng hộ, làm thế nào cho GV cảm thấy khơng khó khăn khi
truyền đạt đồng thời thực hiện được đúng vai trò của nó là cùng các mơn học
khác giúp các em có kĩ năng giao tiếp, học tập, vui chơi, lao động có hiệu quả và
lành mạnh, an tồn?
Qua thời gian làm công tác Đội, phụ trách HĐGDNGLL nhiều năm nay,
tôi nhận thấy hầu hết những nội dung kiến thức và các phong trào bề nổi nếu
được tổ chức thực hiện dưới hình thức sân khấu hóa, các hoạt động trải nghiệm,
thăm quan, dã ngoại sẽ thu hút được đại đa số HS tham gia, các em rất nhiệt
tình, mạnh dạn thể hiện khả năng của mình và thực sự đó là những sân chơi sôi
nổi, học vui - vui học rất bổ ích. Trong sân chơi này, các em được rèn luyện tính
tự tin, chủ động trước đơng người, tránh tâm lý rụt rè, e ngại, nhút nhát mà hầu
hết HS ở nông thôn đều vấp phải. Một số em có năng khiếu sẽ được thể hiện
mình khi phân cơng các bạn vào những vị trí mới, tổ chức, hướng dẫn các bạn
hồn thành nội dung cơng việc GV giao cho. HS được phát huy tính tập thể, tính
đồn kết và khả năng tư duy sáng tạo, linh hoạt trong các hoạt động. Bên cạnh
đó cũng thu hút được bộ phận học sinh chưa ngoan, còn ham chơi vào các hoạt
động lý thú và bổ ích.
Xuất phát từ những thực trạng trên, tơi nhận thấy mình cần nghiên cứu,
sáng tạo, áp dụng các biện pháp giúp cho học sinh có KNS tốt nhất. Vì vậy tơi
đã tìm ra cho mình: “Một số biện pháp rèn kĩ năng sống thông qua hoạt động
giáo dục ngoài giờ lên lớp”.

Phần 2. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề:

5



Biện pháp 1: Xây dựng kế hoạch hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
gắn liền với giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ chức
ngoài giờ học ở trên lớp. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là sự nối tiếp
hoạt động dạy - học ở trên lớp, là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo nên
sự thống nhất giữa nhận thức và hành động của HS. Góp phần thực hiện ngun
lí giáo dục “Học đi đơi với hành, lí thuyết gắn liền với thực tiễn, nhà trường gắn
liên với xã hội” nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng
khiếu thơng qua các hoạt động ngoại khóa, hoạt động vui chơi, thể thao, du lịch,
giao lưu văn hóa, lao động cơng ích và các hoạt động xã hội khác góp phần
khơng nhỏ vào sự phát triển tồn diện của thế hệ trẻ.
Xuất phát từ vai trò, tác dụng của hoạt động ngoài giờ lên lớp trong việc
rèn KNS cho học sinh nên ngay từ đầu năm học tôi đã tham mưu với Ban giám
hiệu nhà trường xây dựng kế hoạch lồng ghép cụ thể, chi tiết đồng thời xin ý
kiến phê duyệt của BGH nhà trường để triển khai tới toàn bộ GV chủ nhiệm. Từ
những kế hoach cụ thể, xác định rõ ràng việc lồng ghép giáo dục KNS thông qua
các chủ đề theo từng tháng trong năm học. Tôi đã thống nhất với giáo viên chủ
nhiệm triển khai ngay trong cuộc họp phụ huynh đầu năm học nhằm mục đích
thơng báo các kế hoạch hoạt động về nội dung, thời gian, địa điểm của từng
chương trình cụ thể để phụ huynh nắm bắt được lịch trình của các buổi hoạt
động ngoại khóa tránh tình trạng khơng biết con em mình đi đâu, làm gì. Đồng
thời tạo mối quan hệ gắn kết giữa gia đình và nhà trường.
Để xây dựng được một kế hoạch hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp
mang tính khả thi, phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường, đáp ứng nhiệm
vụ giáo dục trọng tâm của từng năm học. Đồng thời tạo được sự mới mẻ, hứng
khởi đối với HS trong từng hoạt động, thì việc nghiên cứu các nội dung theo chủ
điểm để lồng ghép với nội dung rèn KNS sao cho sát thực là rất quan trọng.
Dưới đây là ví dụ về kế hoạch hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp gắn
liền với việc rèn kĩ năng sống theo chủ điểm từng tháng của năm học:
Tháng


Chủ điểm

Nội dung rèn KNS
6


9

Mùa thu ngày khai trường

Rèn kĩ năng ngăn nắp, gọn gàng thông
qua cuộc thi “Ai nhanh, ai khéo”
Rèn kĩ năng tham gia giao thơng an

10
11
12
1

Trung thực, chăm ngoan

tồn
Rèn kĩ năng sống đối mặt với việc làm

Nhớ ơn thầy cô giáo

đúng, sai của bản thân
Rèn kĩ năng thuyết trình, kĩ năng viết


Uống nước nhớ nguồn

thông qua cuộc thi “Cô giáo của em”
Rèn kĩ năng sống có kỉ luật theo gương

Ngày tết quê em

anh bộ đội
Rèn KNS tích cực, thân thiện, biết duy
trì và phát triển những tinh hoa của dân

tộc Việt Nam.
Vì mơi trường xanh - sạch Rèn kĩ năng chăm sóc sức khỏe, bảo vệ

2

- đẹp

mơi trường bằng cách hướng dẫn các
em rửa tay bằng xà phịng đúng qui
trình. Vứt rác đúng nơi qui định, chăm

3

Cùng tiến bước lên Đồn

sóc bồn hoa cây cảnh.
Rèn kĩ năng hợp tác nhóm qua cuộc thi
“Phụ trách sao giỏi”, “Chỉ huy đội
giỏi”, “Nghi thức đội”, “VHVN -


4
5

Hịa bình và hữu nghị

TDTT”
Rèn kĩ năng nhanh, khéo qua cho trị

Bác hồ kính u

chơi “Bảo vệ cờ”
Rèn kĩ năng tự chủ, tự tin giám nói
giám làm qua cuộc thi văn nghệ, thi
“Kể chuyện Bác Hồ”

Có thể nói với kế hoạch rèn KNS thông qua HĐGDNGLL mà tôi đã trình
bày ở trên là rất cụ thể, áp dụng phù hợp với tất cả HS. Các em đều được tham
gia học tập, vui chơi, rèn luyện bản thân một cách nhẹ nhàng và hiệu quả. Đồng
thời nâng cao chất lượng rèn KNS thơng qua HĐGDNGLL một cách tồn diện,
đồng bộ.
7


Biện pháp 2: Làm tốt việc phối hợp với gia đình và các lực lượng xã
hội khác để tổ chức hiệu quả hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp.
Như chúng ta đã biết giáo dục là một hoạt động mang tính xã hội cao. Do
đó muốn thực hiện được sự nghiệp giáo dục toàn diện cho HS chúng ta phải coi
trọng cả giáo dục nhà trường và giáo dục gia đình. Chỉ riêng nhà trường, riêng
ngành giáo dục thì khơng thể làm tốt cơng tác giáo dục tồn diện được.

Từ bao đời nay, dân tộc ta có truyền thống coi trọng gia đình. Gia đình là
nơi sản sinh ni dưỡng và là trường học đầu tiên của mọi thành viên trong xã
hội. Ngay từ khi lọt lòng mẹ các em đã được sự chào đón, chăm sóc của gia
đình. Được quan tâm dạy dỗ và hình thành những kĩ năng ăn, nói, đi đứng, chạy
nhảy…Khi vào bậc học mầm non ngồi sự chăm sóc dạy bảo của gia đình thì
cịn có sự chăm lo dạy bảo của các cơ giáo và được duy trì ở các bậc học khác.
Như vậy, sự kết hợp giữa gia đình, nhà trường ln song hành, duy trì, hỗ trợ lẫn
nhau trong quá trình dạy kiến thức và KNS cho học sinh. Nếu trường học là nơi
tiếp thu kiến thức mới, là nơi các em được khám phá tìm tịi những tri thức
những KNS để phục vụ cho bản thân mình thì gia đình là nơi để các em luyện
tập, củng cố và khắc sâu những gì đã học được ở nhà trường và xã hội là nơi để
các em bộc lộ những kết quả đã đạt được. Chính vì lý do đó, tơi nhận thấy việc
phối kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội là vơ cùng quan trọng. Do đó
hàng năm tơi ln có kế hoạch huy động sự ủng hộ của các bậc phụ huynh cả về
vật chất và tinh thần trong các hoạt động dã ngoại cho con em họ ít nhất mỗi
năm tổ chức 2 lần thơng qua đó rèn kĩ năng sống cho học sinh. Để làm tốt những
buổi hoạt động ngoại khóa tơi đã chuẩn bị như sau:
Trình bày ý tưởng và xin ý kiến Ban giám hiệu nhà trường về việc tổ chức
hoạt động ngoại khóa.
Họp với ban đại diện cha mẹ học sinh.
Thống nhất với nhà trường và cha mẹ học sinh về nội dung chương trình,
kinh phí, thời gian và địa điểm cho buổi hoạt động ngoại khóa.
Ví dụ như năm học 2015 - 2016, sau khi thống nhất, tôi cùng nhà trường,
cha mẹ học sinh đã tổ chức cho học sinh tham gia một ngày vui chơi, tập mua
8


sắm tại siêu thị Big C. Nhờ có sự chuẩn bị kĩ lưỡng nên trong suốt buổi ngoại
khóa các em đều rất vui vẻ, sôi nổi, hào hứng khám phá những điều lí thú mà có
lẽ rất ít trường thực hiện được. Đặc biệt đối với các bậc cha mẹ học sinh. Họ thật

sự cảm thấy hài lòng khi thấy con em họ trưởng thành lên nhiều, khơng cịn sợ
đến nơi đơng người, bước đầu đã hình thành kĩ năng tìm mua được những sản
phẩm phù hợp với điều kiện, với khả năng của gia đình mình. Kĩ năng hợp tác
tích cực với thầy cơ, gia đình, bạn bè trong lớp và trong trường.
Ngay sau khi buổi trải nghiệm thành cơng thì những buổi ngoại khóa
hướng dẫn các em thực hành kĩ năng lao động vừa sức như: trồng rau, nhặt cỏ,
bắt sâu luôn được sự ủng hộ, tham gia của các phụ huynh một cách tích cực,
hiệu quả. Cũng từ những hoạt động này mà các em về nhà đã biết giúp đỡ bố mẹ
rất nhiều trong công việc nhà, các em khơng cịn dành thời gian cho những việc
làm khơng có ích.
Ngồi việc phối kết hợp giữa nhà trường với gia đình, tơi mong muốn
được giáo dục cho các em ý thức giữ gìn bản sắc dân tộc của q hương. Chính
vì vậy tơi xin ý kiến chỉ đạo Ban giám hiều nhà trường; Ban văn hóa phường
mời các nghệ nhân của quê hương đến hướng dẫn, luyện tập cho HS tham gia
diễn trò trong tiểu phẩm “Thầy đồ dạy học”. Các em được đánh giá rất cao trong
buổi giao lưu đó. Bên cạnh đó với mong muốn được rèn cho các em biết lao
động cơng ích, đồng thời các em có thái độ tơn nghiêm khi đến những nơi linh
thiêng thờ cúng những vị thần có cơng xây dựng bảo vệ quê hương. Tôi cũng đã
xin ý kiến chỉ đạo của BGH nhà trường liên hệ với Ban quản lý đền Tam Giang,
chùa Đại Bi để các em được học tập, trải nghiêm, rèn kĩ năng sống qua lao động.
Có thể nói trong nhà trường, việc giáo dục cho các em về kiến thức, đạo
đức nói chung và KNS nói riêng là nhiệm vụ hết sức quan trọng trong q trình
giáo dục tồn diện cho học sinh. Nó chịu sự tác động mạnh mẽ của gia đình và
các lực lượng giáo dục khác ngồi xã hội. Vì vậy, giáo dục KNS cho học sinh
phải bằng nhiều hình thức, nhiều con đường trong đó sự phối hợp giữa nhà
trường với gia đình và các lực lượng giáo dục của xã hội là con đường mang lại
hiệu quả rất thiết thực.
9



HỌC SINH CÙNG GIÁO VIÊN, PHỤ HUYNH THAM GIA
LAO ĐỘNG TRỒNG RAU
Biện pháp 3: Tổ chức các hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp đa
dạng và phong phú.
Khơng giống như những môn học trong lớp với số lượng học sinh ít,
khơng gian n tĩnh. HĐGDNGLL là hình thức tổ chức cho tồn liên đội với số
lượng học sinh đơng và không gian rộng. Nếu như chỉ tập trung để ngồi đẹp,
ngồi ngay ngắn nghe cơ giáo truyền đạt thì kết quả thu được là sự mệt mỏi, chán
nản, mất trật tự của học sinh. Do đó dựa vào các chủ diểm của năm học tôi đã
tạo ra được rất nhiều sân chơi bổ ích “học mà chơi – chơi mà học”.
Ví dụ: Tháng 9 là tháng mà học sinh bắt đầu bước vào năm học mới. Với
mục đích giúp các em rèn luyện kĩ năng ngăn nắp, gọn gàng, giữ vệ sinh sạch sẽ
và có ý thức tốt khi tham gia hoạt động tập thể, thông qua 15 phút đầu giờ các
em được tham gia cuộc thi “Ai ngoai, ai khéo”. Dưới sự hướng dẫn của giáo
viên chủ nhiệm, của Sao đỏ. Các bạn trong lớp đều được hoạt động luân phiên,
được kiểm tra xem tay bạn có sạch khơng? Sách vở có đầy đủ, gọn gàng, ngăn
nắp khơng? Và đặc biệt đã biết tự gấp quần áo cho mình chưa?...
10


Để cuộc thi đạt kết quả tốt thì khâu chuẩn bị là vơ cùng quan trọng. Vì
vậy tơi đã cùng học sinh chuẩn bị như sau:
1.

Đối với học sinh: Chuẩn bị đồ dùng, sách vở đầy đủ, luôn nhớ rửa

tay thật sạch trước khi đi học. Cử 1 bạn mang theo một chiếc áo sơ mi.
2. Đối với giáo viên: Có sự thống nhất với giáo viên chủ nhiệm để duy trì
cuộc thi thật tốt.
Với thời gian rất ngắn nên không chỉ một buổi mà các em thực hiện xong

cuộc thi. Do vậy cuộc thi được kéo dài hết tuần đầu của năm học. Cuộc thi diễn
ra hàng ngày, liên tục như vậy khiến các em hình thành thói quen ngay từ ban
đầu là phải sạch sẽ, gọn gàng, chuẩn bị đồ dùng trước khi đến lớp. Ngoài ra các
em còn biết giúp đỡ bố mẹ gấp quần áo cho mình và những người thân trong gia
đình. Để tạo được khơng khí thi đua sơi nổi, ngay khi kết thúc vòng thi tại chi
đội, lớp nhi đồng. Giáo viên chủ nhiệm sẽ cử một học sinh xuất sắc nhất tham
gia cấp liên đội vào ngày đầu của tuần 2. Chính vì vậy giờ sinh hoạt tập thể đầu
tuần khơng chỉ còn là đánh giá, nhận xét, xếp loại nề nếp học tập hay nghe GV TPT triển khai công việc tuần tiếp theo. Cùng với đó là sự sáng tạo, khéo léo, kĩ
năng sống tự tin, dám nghĩ dám làm của học sinh. Đặc biệt là thu hút được sự
tập trung của học sinh vào các hoạt động ngoại khóa từ đó rèn cho các em kĩ
năng hịa nhập, thân thiện trong giao tiếp và tính kỉ luật khi tham gia hoạt động
tập thể.
Hay với chủ đề của tháng 11: “Kính u thầy cơ giáo”. Ngồi việc phát
động thi đua học tập dành tặng thầy cô những bông hoa chăm ngoan thì việc tìm
kiếm học sinh có năng khiếu về ca hát, nhảy múa, kể chuyện là vô cùng quan
trọng. Chúng ta không chỉ phát hiện qua những giờ dạy Âm nhạc, Tiếng Việt mà
thông qua các buổi giao lưu đầu tuần, các buổi hoạt động giữa giờ làm cho nội
dung sinh hoạt khơng bị nhàm chán. Qua đó giáo dục cho học sinh sự tự tin thể
hiện bản thân trước tập thể.
Với thời gian không nhiều nhưng thông qua các chủ điểm của từng tháng.
HS đã được tham gia các cuộc thi, giao lưu sơi nổi và bổ ích. Qua những buổi
sinh hoạt đó các em được khắc sâu hơn, nhớ hơn ý nghĩa chủ đề của tiết hoạt
11


động ngoài giờ, HS hứng thú hơn với các hoạt động tập thể từ đó các em biết
đồn kết thân ái với các bạn cùng lớp, cùng trường. Thường xuyên được thể hiện
mình trước tập thể các em đã tự chủ, tự tin khẳng định chính mình từ đó hình
thành kĩ năng giao tiếp tốt với gia đình, thầy cơ, bạn bè và những người xung
quanh. Chính những tác dụng của nó mà HS trường tơi đã tham gia giao

lưu với trường bạn, tham gia các cuộc thi do PGD và Thành Đoàn phát động
như cuộc thi “Chúng em kể chuyện Bác Hồ”, “Thi hát dân ca”, “Chỉ huy Đội
giỏi”, “ Phụ trách sao giỏi”…và cùng cô giáo tham gia cuộc thi “Tổng phụ trách
giỏi”.

HỌC SINH TỰ TIN CÙNG THẦY, CÔ GIÁO BIỂU DIỄN VĂN NGHỆ
GIAO LƯU VỚI TRƯỜNG BẠN
Biện pháp 4: Khai thác triệt để các thiết bị, đồ dùng dạy học hiện có
và ứng dụng cơng nghệ thơng tin trong hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp.
Xuất phát từ đặc thù địa lí của nhà trường khu vực phương tiện giao thông
cũng tương đối phức tạp. Trường thuộc vùng nơng thơn có nhiều ao hồ kênh
mương và gần sông. Nên việc trang bị cho các em những kĩ năng tham gia giao
12


thơng, kĩ năng phịng tránh tại nạn thương tích, kĩ năng tự bảo vệ và thốt khỏi
nguy hiểm là vơ cùng quan trọng và cấp thiết. Vậy trang bị bằng cách nào để có
hiệu quả nhất? Nếu như chỉ tập trung học sinh tồn trường ngồi lắng nghe cơ nói
về luật giao thông, về cách đi sang đường sao cho an tồn. Nói về sự nguy hiểm
của đuối nước, điện giật, nhiễm khuẩn mà khơng có tranh ảnh, đồ dùng, thiết bị
minh họa thì chắc chắn thu được hiệu quả không cao và nguy cơ xảy ra tai nạn
luôn tiềm ẩn chưa được khắc phục giải quyết một cách triệt để.
Xác định rõ sự cần thiết phải bảo vệ sự an tồn cho HS nên giáo viên
trong nhà trường nói chung và giáo viên làm công tác Đội và hoạt động ngồi
giờ lên lớp nói riêng ln cố gắng tìm tịi, sử dụng một cách có hiệu quả các đồ
dùng, thiết bị có sẵn trong nhà trường sao cho lơi cuốn, thu hút học sinh vào các
hoạt động. Dựa vào các thiết bị như: ổ điện, dây điện, quạt điện tôi đã hướng
dẫn các em cách quan sát và thực hành để khi sử dụng các em an tồn nhất
khơng chỉ ở trường mà ngay khi sử dụng tại nhà. Với những buổi rèn kĩ năng

tham gia giao thông cho học sinh thì ngồi việc các em đã được cung cấp kiến
thức ở trên lớp, việc khắc sâu bằng hình ảnh và trị chơi giao thơng là rất hiệu
quả. Mỗi tuần tơi đều cho các em thực hành bằng trị chơi nên tuy trường ngay
gần đường nhưng học sinh đi sang đường rất an tồn theo đúng luật giao thơng,
chưa có một trường hợp tai nạn đáng tiếc nào xảy ra.
Để giáo dục kĩ năng giữ vệ sinh sạch sẽ khơng để nhiễm khuẩn cho bản
thân học sinh, gia đình và xã hội. Tôi đã phối hợp với nhân viên y tế triển khai
hướng dẫn các em rửa tay theo đúng các bước và thời điểm nào cần thiết. Bên
cạnh đó để khắc sâu cho HS về các bước rửa tay, tôi dạy cho HS bài dân vũ rất
vui nhộn “Rửa tay bằng xà phòng lifebuoy” vào các buổi hoạt động giữa giờ.

13


HÌNH ẢNH HS THAM GIA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC NGỒI GIỜ LÊN
LỚP RÈN KĨ NĂNG PHÒNG CHỐNG GIUN SÁN, NHIỄM KHUẨN.
Với thời buổi công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, việc sử dụng
các kênh hình, tiếng là khơng thể thiếu được. Do đó ngồi việc hướng dẫn các
em cách sơ cứu khi bị rắn cắn, đuối nước, tai nạn thì tơi cịn khắc sâu bằng hình
ảnh, bằng những câu chuyện được trình chiếu rất sinh động. Ngồi ra các em
cịn được hóa thân, đóng vai các nhân vật qua những mẩu chuyện nhỏ như “Em
làm y tá”, “Bác sỹ đến rồi”… Từ đó các em được trực tiếp thực hành sơ cứu
cho bạn của mình và như vậy sẽ giúp các em thêm một lần nữa khắc sâu những
kĩ năng sống đã được học.
Với việc sử dụng tối đa hiệu quả của các thiết bị, đồ dùng có sẵn. Sự tìm
tịi các nội dung phù hợp, hấp dẫn qua công nghệ thông tin mà tôi đã thực hiện.
Tôi thấy học sinh của mình đã có kĩ năng tốt trong việc phịng tránh tai nạn giao
thơng, tai nạn thương tích, đuối nước, điện giật, phịng tránh giun sán… Tơi sẽ
tiếp tục phát huy đồng thời khơng ngừng tìm tịi khám phá những điều mới lạ để
thu hút học sinh hơn nữa trong việc rèn kĩ năng sống cho các em.

14


HÌNH ẢNH SỬ DỤNG CƠNG NGHỆ THƠNG TIN TRONG VIỆC RÈN
KĨ NĂNG SỐNG
Biện pháp 5: Tích cực động viên, khen thưởng học sinh kịp thời.
Trong quá trình dạy học nhất là dạy học ở lứa tuổi TH thì khơng thể thiếu
được sự ân cần, quan tâm trong từng cử chỉ, những câu nói động viên khéo léo
nhẹ nhàng của GV. Xuất phát từ tâm lý đó, việc động viên, khen thưởng HS kịp
thời sẽ tạo khơng khí học tập sơi nổi, vui vẻ hơn trong từng buổi hoạt động
ngoài giờ lên lớp. Đặc biệt từ khi áp dụng thông tư 30/2014 và thông tư 22/
2016 của Bộ giáo dục và đào tạo càng nhấn mạnh việc động viên, khen thưởng
HS. Vì vậy GV cần vận dụng lời khen của mình để khích lệ HS khi tiến bộ cho
dù tiến bộ đó là rất nhỏ.
Ví dụ như: Trong q trình thể hiện vai diễn không phải học sinh nào
cũng thuộc lời thoại, cũng nhập vai diễn và thể hiện cử chỉ, cảm xúc tốt. Cũng
như khi đóng vai y tá khơng phải em nào cũng thực hành băng bó tốt. Lúc này
GV cần động viên, khuyến khích các em, để các em bình tĩnh và tự tin diễn tiếp.
Gv cũng có thể khuyến khích các bạn khác giúp bạn diễn động tác/ việc làm đó.
15


Việc cho học sinh theo dõi các video, clip mang thông điệp rõ ràng về chủ đề
đang dạy hoặc các bài học cuộc sống cũng là cách bồi dưỡng, bổ sung cho các
em nhiều kĩ năng như: nói, diễn xuất, … Song song với đó là rèn cho học sinh kĩ
năng đối diện với những việc làm đúng, sai của bản thân. Khi học sinh không
muốn lên biểu diễn. GV cần hiểu ra HS có em cịn ngại, ngập ngừng do nhút
nhát, tự tin. Trong tình hng này, cần rất nhiều sự khéo léo của GV, dùng lời
nói động viên, khuyến khích các em, để các em có tinh thần thoải mái và tự tin
thể hiện mình, GV khơng nên mời bạn khác diễn thay ngay làm giảm sự hứng

thú của học sinh, khơng phát huy tính chủ động, tích cực của em đó. Thay vào
đó, hãy cho em thời gian hoặc chọn một học sinh khác mạnh dạn để 2 em tham
gia cùng với nhau.
Giáo viên cũng cần hiểu học sinh TH rất dễ thay đổi tâm trạng: Vui vẻ,
nhiệt tình rồi lại “ỉu xìu” ln. Nên việc tạo hứng thú liên tục cho học sinh là rất
cần thiết. Để buổi HĐGDNGLL hấp dẫn thu hút học sinh thì giáo viên cịn cần
điều chỉnh giọng nói, đơi khi phải hài hước và không quên khen thưởng cho học
sinh trước tồn liên đội. Sự động viên kịp thời của cơ giáo cũng như của bạn là
phần thưởng lớn nhất giúp các em tự tin vào chính bản thân mình.
Ngồi việc sử dụng lời khen hợp lí ngay trong buổi hoạt động hay tun
dương trước cờ thì bản thân tơi đã tham mưu với Ban giám hiệu khen thưởng
cho học sinh với hình thức đã dạng và phong phú hơn như cho các em thăm
quan bảo tàng Hùng Vương, thăm lăng Bác Hồ… khi các em hoàn thành tốt
nhiệm vụ của người học sinh. Qua quan sát các buổi HS được đi thăm quan, tôi
thấy các em mạnh dạn, tự tin hơn rất nhiều như các em đã bày tỏ ý kiến với
người hướng dẫn viên về những gì em muốn được biết. Đặc biệt, các em đã thể
hiện được kĩ năng giao tiếp bằng Tiếng Anh với người nước ngoài trong dịp về
thăm lăng Bác cuối năm học vừa qua. Chính vì những hiệu quả đạt được khi sử
dụng biện pháp này trong học tập và giáo dục kĩ năng sống nên bản thân tôi tiếp
tục áp dụng và xin ý kiến nhà trường để được nhân rộng hơn nữa.
Như vậy, động viên, khen thưởng kịp thời, hợp lí của GV đối với HS là
không thể thiếu được trong mỗi tiết hoạt động ngồi giờ lên lớp. Nó góp phần
16


không nhỏ tạo nên sự hứng thú, hiệu quả trong quá trình tiếp thu nội dung rèn kĩ
năng sống cho học sinh.
Phần 3. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Khi nghiên cứu để làm sáng kiến kinh nghiệm này bản thân tơi nhận thấy
mình tự trang bị được vốn kiến thức chắc chắn và sâu hơn về HĐGDNGLL các

kiến thức về KNS, hiểu được tâm lí lứa tuổi HS tiểu học. Tôi đã áp dụng sáng
kiến kinh nghiệm này vào thực tế trong việc rèn KNS thơng qua HĐGDNGLL
cho tồn liên đội. Tôi nhận thấy các em rất hào hứng học tập, chủ động tiếp thu
kiến thức. Đặc biệt các em tự tin và yêu thích nội dung giáo dục kĩ năng sống
hơn rất nhiều.
Để kiểm chứng kết quả, tôi đã tiến hành khảo sát để đánh giá kết quả
nhận thức và mức độ hứng thú của học sinh đối với nội dung rèn kĩ năng sống
thông qua HĐGDNGLL trong 2 năm học 2014 - 2015; 2015 - 2016. Kết quả thu
được như sau:
Khối lớp
1
2
3
4
5

Khối lớp
1
2
3
4
5

Thích

Khơng thích
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ

71/83
85,5%
12/83
14,5%
76/92
82,6%
16/92
17,4%
60/71
84,5%
11/71
15,5%
62/74
83,8%
12/74
16,2%
82/97
84,5%
15/97
15,5%
NĂM HỌC 2014 – 2015

Thích

Khơng thích
Số lượng
Tỷ lệ
Số lượng
Tỷ lệ
89/95

93,7%
6/95
6,3%
74/80
92,5%
6/80
7,5%
80/87
92%
7/87
8,0%
64/70
91,4%
6/70
8,6%
70/74
94,6%
4/74
5,4%
NĂM HỌC 2015 - 2016

17


Từ 2 bảng số liệu trên cho thấy tỉ lệ HS yêu thích tiết học tăng đáng kể ở các
khối lớp từ 34,4% (khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) lên 84,2% (năm
học 2014 - 2015) và đạt 92,8% (năm học 2015 - 2016). Khơng có học sinh trả
lời giờ hoạt động căng thẳng, gị bó. Khơng khí thực sự sôi nổi, học sinh bị cuốn
hút vào các hoạt động dưới hình thức sân khấu hóa, các hoạt động thực hành,
các hoạt động trải nghiệm, thăm quan, dã ngoại.

Từ những nhận xét trên, tôi đã rút ra kết luận: Việc rèn KNS thông qua
HĐGDNGLL là rất phù hợp, đạt được hiệu quả đáng khích lệ. Từ đó cho thấy
kinh nghiệm này đã góp phần vào việc nâng cao chất lượng giáo dục KNS nói
riêng và chất lượng giáo dục tồn diện cho học sinh nói chung.
* Sự kiểm chứng của trường, tổ chuyên môn:
Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm bản thân tôi nhận thấy chất lượng
giáo dục KNS được nâng lên rõ rệt. Các hoạt động ngoài giờ lên lớp đã thu hút
được sự hào hứng, say mê học tập của HS. Đặc biệt các em đã yêu thích nội
dung rèn KNS hơn rất nhiều. Qua hoạt động, học sinh được rèn luyện, củng cố
về kiến thức đã học ở trên lớp, góp phần phát triển về nhân cách, giúp các em
hướng tới cái hay, cái đẹp, cái nhân văn, tạo trạng thái tâm lý tích cực để các em
tiếp thu môn học khác.
Từ khi áp dụng sáng kiến tôi đã được Ban giám hiệu nhà trường dự và
đánh giá rất cao. Tôi đã đem kinh nghiệm của mình chia sẻ cho các giáo viên
làm cơng tác Đội trong các trường bạn và đã nhận được sự phản hồi của đồng
nghiệp là rất hiệu quả. Điều đó đã làm cho tơi cảm thấy rất vui và có thêm động
lực trong công tác. Tuy sáng kiến kinh nghiệm của tôi áp dụng chưa được nhiều
năm song tôi nhận thấy nó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục KNS rõ rệt.
Chính vì vậy, trong thời gian tới tơi sẽ tiếp tục áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
và vừa làm, vừa rút kinh nghiệm để quá trình thực hiện ngày càng có hiệu quả
hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
18


Tìm ra một số biện pháp nâng cao chất lượng rèn KNS cho học sinh là
cách làm có hiệu quả, phát huy được tính chủ động, tích cực, mạnh dạn, tự tin;
tính tập thể và đồn kết đồng thời HS được rèn kĩ năng đối thoại, xử lý tình
huống, sáng tạo trong ngơn ngữ, động tác biểu đạt tình cảm, thái độ. Bên cạnh

đó cịn khơi dậy được hứng thú, niềm say mê, nhiệt tình của GV - TPT trong
cơng tác Đội. Với hình thức tổ chức đa dạng, phong phú như vậy giúp HS khơng
phải ghi nhớ máy móc từng câu chữ khi GV truyền đạt mà các em được vận
dụng, thực hành linh hoạt, được trải nghiêm, được thể hiện bản thân dám nói
dám làm trước tập thể, khuyến khích sự sáng tạo của HS trong q trình hoạt
động.
Để áp dụng sáng kiến có hiệu quả, bản thân tơi rút ra một số kinh nghiệm
sau:
GV phải nhiệt tình, tâm huyết, tích cực nghiên cứu, nắm vững nội dung
chương trình. Tích cực đổi mới đa dạng hóa các hình thức tổ chức. Khai thác tối
đa hiệu quả các thiết bị đồ dùng sẵn có. Sử dụng các kỹ thuật, phương pháp dạy
học tích cực để vận dụng linh hoạt sáng tạo cho giờ học nhẹ nhàng - tự nhiên có hiệu quả.
GV chuẩn bị chu đáo kế hoạch, nội dung, phối kết hợp chặt chẽ với giáo
viên chủ nhiệm, phụ huynh và các tổ chức giáo dục ngoài nhà trường trong
những hoạt động trải nghiệm, tham quan, dã ngoại.
GV ln nêu cao vai trị và phát huy tính tự quản, sáng tạo của học sinh
trong mỗi buổi hoạt động. Đa dạng, phong phú các hình thức khen thưởng tạo
động lực tích cực để học sinh rèn luyện và phấn đấu.
2. Những ý kiến đề xuất
* Đối với nhà trường:
Đề nghị nhà trường cần tạo điều kiện thêm về tài liệu, thiết bị đồ dùng
phục vụ cho hoạt động ngoài giờ lên lớp nói chung và rèn KNS nói riêng.
* Đối với Phòng GD & ĐT, Hội đồng đội Thành phố
Tạo điều kiên cho GV - TPT được giao lưu, trao đổi về các phương pháp
tích cực, có hiệu quả trong giáo dục kĩ năng sống.
19


Tiếp tục tổ chức cho GV - TPT được tham gia các lớp tập huấn về chuyên
môn nghiệp vụ.

Trên đây là một số biện pháp có tác dụng giải quyết một số hạn chế của
việc rèn KNS thông qua HĐGDNGLL ở trường TH . Trong q trình thực hiện,
tơi đã mạnh dạn ghi chép lại những kinh nghiệm này. Rất mong nhận được sự
góp ý của các cấp lãnh đạo và các đồng nghiệp để sáng kiến của tôi được hồn
thiện hơn.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!

ĐÁNH GIÁ
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRƯỜNG
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
…….........................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Ý KIẾN ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NGÀNH

20


……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………

2.

21



×