Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tiểu luận phạm vi ảnh hưởng của thuế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (676.25 KB, 29 trang )

z
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 i
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM
Đề tài: PHẠM VI ẢNH
HƯỞNG CỦA THUẾ
GV: PGS.TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Nhóm thực hiện:
1. Nguyễn Thị Thúy Nga
2. Hà Thị Kim Ngân
3. Nguyễn Tuấn Ngọc
4. Vũ Bảo Vân
Tháng 03 năm 2012
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
MỤC LỤC
i
MỤC LỤC ii
LỜI MỞ ĐẦU iii
1.Nguyên tắc 1: Trách nhiệm pháp lý của thuế không phân định rõ ai là người gánh chịu thuế
thực sự 1
2.Nguyên tắc 2: Khía cạnh thị trường mà thuế đánh vào không phản ảnh thích hợp sự phân phối
gánh nặng thuế 4
3.Nguyên tắc 3: Những đối tượng có cung hoặc cầu không co dãn thì gánh chịu thuế hoàn toàn. 5
3.1.Cầu hoàn toàn không co dãn 6
3.2.Cầu co dãn hoàn toàn 6
3.3.Mức co dãn của cung 7
III – CÂN BẰNG TỔNG THỂ 17
1.Xác định ?nh tương đương của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể: 17
2.Mô hình cân bằng tổng thể của Harberger: 18
3.Phân ?ch sự tác động các loại thuế khác nhau: 19
4.Một vài đặc ?nh khác cần xem xét 22


5.Ví dụ về ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể: 23
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 ii
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
LỜI MỞ ĐẦU
Thuế tác động như thế nào đến phân phối thu nhập? Đây là chủ đề trọng tâm thường được
luận bàn trong các chính sách thuế. Để phân tích tác động của thuế đến thu nhập, các nhà kinh
tế thường xuất phát từ ý tưởng nghiên cứu tác động của thuế đến giá cả thị trường, từ đó thiết
lập mối quan hệ giữa giá cả và phân phối thu nhập.
Khi một sắc thuế được ấn định, chắc chắn sẽ có sự dịch chuyển một phần thu nhập từ người
chịu thuế về phía chính phủ. Trong các sắc thuế như thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc
biệt hay thuế thu nhập doanh nghiệp, đối tượng nộp thuế được qui định là cơ sở kinh doanh.
Nhưng có thực sự chủ cơ sở kinh doanh gánh chịu thuế hay họ chỉ là người nộp thuế thay cho
người khác? Ai thực sự chịu thuế hoặc gánh nặng thuế dồn lên vai ai là câu hỏi của các nhà
kinh tế.
Để hiểu rõ hơn về phạm vi ảnh hưởng của thuế, bài làm của nhóm sẽ trình bày các nguyên tắc
xác định phạm vi ảnh hưởng của thuế, các trường hợp cụ thể và mô hình cân bằng tổng thể
của thuế.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 iii
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
I – NGUYÊN TẮC XÁC ĐỊNH PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ
1. Nguyên tắc 1: Trách nhiệm pháp lý của thuế không phân định rõ ai là người gánh
chịu thuế thực sự
Khi đưa một sắc thuế vào vận hành cần xác định rõ phạm vi ảnh hưởng của thuế. Để xác định
phạm vi tác động của thuế cần phân biệt các khái niệm:
- Phạm vi ảnh hưởng do luật pháp quy định
Xác định chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý về nghĩa vụ nộp thuế. Đặc biệt đối với thuế gián
thu và thuế trực thu, chủ thể chịu thuế và chủ thể chịu trách nhiệm pháp lý có sự khác nhau.
 Thuế trực thu (direct tax) là loại thuế thu trực tiếp vào khoản thu nhập, lợi ích thu

được của các tổ chức kinh tế hoặc cá nhân. Thuế trực thu là loại thuế mà người, hoạt
động, tài sản chịu thuế và nộp thuế là một.
 Các loại thuế trực thu: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử
dụng đất nông nghiệp, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế chuyển quyền sử
dụng đất, thuế tài nguyên, thuế nhà đất.
 Đặc điểm của thuế trực thu:
- Thuế trực thu có tính công bằng hơn thuế gián thu, vì phần đóng góp về thuế thường
phù hợp đối với khả năng của từng đối tượng, có tính phân loại đối tượng nộp.
- Thuế trực thu có nhược điểm là hạn chế phần nào sự cố gắng tăng thu nhập của các
đối tượng, vì thu nhập và lợi nhuận càng cao thì phải nộp thuế càng nhiều.
- Thuế trực thu do người có thu nhập phải trả một cách trực tiếp và có ý thức cho nhà
nước, nên họ cảm nhận ngay được gánh nặng về thuế và có thể dẫn tới những phản
ứng từ chối hoặc trốn thuế.
- Việc quản lý thu thuế này phức tạp và chi phí thường cao so với thuế gián thu.
VD: Anh A bán 5.000 cổ phiếu X cho anh B với giá bán là 28.500 VND/ cổ phiếu, số tiền anh
A thu được là 142.500.000 VND, việc bán cổ phiếu này đã phát sinh thuế thu nhập cá nhân
đối với chuyển nhượng vốn, anh A phải nộp thuế với cách tính như sau:
Thuế TNCN phải nộp: 142.500.000 x 0.1% = 142.500
 Thuế gián thu (indirect tax) là loại thuế được cộng vào giá, là một bộ phận cấu thành
giá cả của hàng hóa. Thuế gián thu là hình thức thuế gián tiếp qua một đơn vị trung
gian (thường là các doanh nghiệp) để đánh vào người tiêu dùng. Thuế gián thu là thuế
mà người chịu thuế và người nộp thuế không cùng là một. Chẳng hạn, chính phủ đánh
thuế vào công ty (công ty nộp thuế) và công ty lại chuyển thuế này vào chi phí tính
vào giá hàng hóa và dịch vụ, do vậy đối tượng chịu thuế là người tiêu dùng cuối cùng.
 Các loại thuế gián thu: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập
khẩu, thuế bảo vệ môi trường.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 1
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
 Đặc điểm của thuế gián thu:
- Thuế này dễ thu hơn thuế trực thu vì tránh quan hệ trực tiếp giữa người chịu thuế

(người tiêu dùng) với cơ quan thu thuế.
- Thuế này dễ điều chỉnh hơn thuế trực thu vì những người chịu thuế thường không cảm
nhận đầy đủ gánh nặng của loại thuế này.
VD: Anh B mua quyển sách giá chưa thuế 50.000 đồng, thuế VAT 10%. Vậy tổng số tiền
anh B phải thanh toán là 55.000 đồng, trong đó anh B phải gánh chịu 5.000 đồng tiền thuế
VAT và số tiền này người bán có trách nhiệm đi nộp hay người bán có trách nhiệm pháp lý
nộp thuế.
- Phạm vi ảnh hưởng kinh tế
Thể hiện mức thay đổi phân phối thu nhập thực của các chủ thể do thuế gây ra. Sự khác nhau
giữa phạm vi ảnh hưởng do luật định và phạm vi ảnh hưởng kinh tế phản ánh cơ chế dịch
chuyển thuế. Liên quan đến phạm vi ảnh hưởng kinh tế, theo quan điểm của các nhà kinh tế
học, cho dù phạm vi ảnh hưởng của các loại thuế có khác nhau, suy cho cùng chỉ có con
người mới thực sự gánh chịu thuế. Xác định người gánh chịu thuế phục vụ cho mục đích phân
tích sự tác động của thuế, đặc biệt là phân tích sự tác động của thuế đến mức độ phân phối thu
nhập của xã hội.
Khi thuế đánh vào người sản xuất trong một thị trường cạnh tranh, thì họ sẽ gia tăng giá cả ở
chừng mực nhất định để bù đắp gánh nặng thuế và thu nhập của người sản xuất sẽ không giảm
xuống bằng đúng số tiền thuế
Gánh nặng thuế NSX = (Giá trước thuế - giá sau thuế) + Thuế nộp bởi NSX
Khi thuế đánh vào người tiêu dùng trong thị trường cạnh tranh thì họ sẽ không sẵn lòng mua
nhiều hàng hóa bị đánh thuế vì thế giá cả sẽ giảm xuống.
Gánh nặng thuế NTD = (Giá sau thuế - giá trước thuế) + Thuế nộp bởi NTD
Ta xét thuế đánh vào thị trường dầu lửa với phương trình đường cung và đường cầu lần lượt
như sau: Cung: Q
S
= 50P
S
+ 25
Cầu: Q
D

= -100/3P
D
+ 150
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 2
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Ban đầu thị trường dầu lửa cân bằng tại điểm A với giá P
1
= 1,5 đôla tại mức sản lượng Q
1
=
100 gallons. Khi chính phủ đánh thuế 50 cent vào người sản xuất dầu lửa. Đối với người sản
xuất dầu lửa, điều này tương đương gia tăng 50 cent/gallon chi phí biên. Do người sản xuất
phải thanh toán chi phí biên ban đầu và chi phí thuế nên mức giá họ đưa ra cao hơn so với
mức ban đầu P = 1,5 + 0,5 = 2 đôla. Đây là mức giá người sản xuất đưa ra để cung cấp 100 tỷ
gallon dầu như ban đầu. Khi đó đường cung S
1
dịch chuyển sang S
2
với đường cung S
2
: Q
S
=
50P
S
Tại mức giá cân bằng ban đầu P
1
= 1,5 thì dầu lửa hiện đang ở tình trạng cầu vượt quá cung
dẫn đến thiếu hụt dầu lửa, người tiêu dùng sẵn lòng mua 100 gallon với giá 1,5 đôla trong khi
đó tại mức giá này thì người sản xuất chỉ sẵn lòng bán với số lượng là 80 gallon, ở đây có sự

thiếu hụt 20 gallon dầu lửa. Vì thế, người tiêu dùng phải chấp nhận tăng giá để có được số
lượng cao hơn. Giá cả tiếp tục gia tăng đến khi thị trường đạt được điểm cân bằng mới (điểm
D) với giá thị trường P
2
= 1,8 đôla và số lượng là 90 tỷ gallon. Giá cả thị trường bây giờ cao
hơn 30 cent so với trước khi đánh thuế.
Đánh thuế có hai ảnh hưởng đến những người tham gia thị trường dầu lửa:
- Thứ nhất: làm thay đổi giá cả thị trường (giá tăng 30 cent từ 1,5 lên 1,8)
- Thứ hai: người sản xuất phải nộp thuế cho chính phủ 50 cent/gallon được bán trên thị
trường.
Từ góc độ của người tiêu dùng, họ phải trả thêm 30 cent/gallon mặc dù người tiêu dùng
không chịu trách nhiệm pháp lý nộp thuế cho chính phủ mà là người sản xuất có trách nhiệm
nộp thuế 50 cent so với người sản xuất đến người tiêu dùng.
Gánh nặng của người tiêu dùng = (1,8 – 1,5) + 0 = 0,3
Gánh nặng của người sản xuất = (1,5 – 1,8) + 0,5 = 0,2
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 3
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
 Tổng số gánh nặng là 0,5 đô la, đây còn gọi là góc thuế: chênh lệch giữa số tiền người
tiêu dùng trả 1,8 đôla và người sản xuất nhận được 1,3 đôla.
2. Nguyên tắc 2: Khía cạnh thị trường mà thuế đánh vào không phản ảnh thích hợp
sự phân phối gánh nặng thuế
Hay gánh nặng thuế là giống nhau cho dù đánh thuế vào người sản xuất hay người tiêu dùng.
Bây giờ chúng ta xét trường hợp người tiêu dùng là người chịu trách nhiệm pháp lý nộp thuế
chứ không phải là người sản xuất như được trình bày trong nguyên tắc 1.
Với việc phải trả thêm 0,5 đôla tiền thuế cho mỗi đơn vị sản phẩm tiêu dùng, đường cầu D
1
dịch chuyển sang D
2
: Q
D

= -100/3P
D
+ 400/3

. Trước khi đánh thuế, người tiêu dùng sẵn lòng
trả P
1
= 1,5 đôla để có được Q
1
= 100 tỷ gallon tại điểm cân bằng A. Khi đánh thuế vào người
tiêu dùng thì họ phải trả thêm 0,5 đôla trên mỗi gallon nên để có được 100 tỷ gallon họ chỉ trả
mức giá P = 1 đôla.
Tại mức 1,5 đôla, người sản xuất sẵn lòng bán 100 gallon trong khi người tiêu dùng chỉ sẵn
lòng mua 80 gallon, cung lớn hơn cầu vì thế người sản xuất hạ thấp giá bán để bán được phần
sản lượng vượt quá. Quá trình hạ giá bán được thực hiện cho đến khi mức giá đạt P
2
= 1,3
đôla với Q
2
= 90
Tương tự như ví dụ trước, thuế có hai ảnh hưởng đối với người tham gia trong thị trường dầu
lửa.
- Thứ nhất: làm thay đổi giá cả thị trường (giá giảm từ 1,5 xuống 1,3)
- Thứ hai: người tiêu dùng là người chịu trách nhiệm nộp thuế cho chính phủ.
Từ góc độ của người tiêu dùng, thuế 0,5 đôla được bù lại bởi sự giảm đi 0,2 đôla giá cả thị
trường.
Từ góc độ của người sản xuất, với mức thuế 0,5 đôla, họ nhận ít hơn 0,2 đôla trên mỗi đơn vị
dầu lửa được bán.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 4
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng

Mặc dù người sản xuất không có trách nhiệm pháp lý nộp thuế nhưng cả người tiêu dùng lẫn
người sản xuất đều gánh chịu gánh nặng thuế vì giá cả giảm đã chuyển gánh nặng thuế từ
người tiêu dùng sang người sản xuất.
Gánh nặng của người tiêu dùng = (1,3 – 1,5) +0,5 = 0,3
Gánh nặng của người sản xuất = (1,5 – 1,3) + 0 = 0,2
Ta thấy dù người sản xuất hay người tiêu dùng nộp thuế thì gánh nặng chịu thế của hai đối
tượng này không thay đổi.
 Trước khi đánh thuế, chỉ có duy nhất một giá thị trường
 Nhưng khi đánh thuế, có 2 loại giá:
 Tổng giá cả: giá phải trả hoặc nhận được bởi chủ thể không phải nộp thuế
 Giá sau thuế: = tổng giá cả trừ (-) tiền thuế (NSX nộp)
hoặc = tổng giá cả cộng (+) tiền thuế (NTD nộp)
3. Nguyên tắc 3: Những đối tượng có cung hoặc cầu không co dãn thì gánh chịu
thuế hoàn toàn
Trong ví dụ trước, chúng ta miêu tả trường hợp mà trong đó người tiêu dùng gánh chịu gánh
nặng thuế cao hơn người sản xuất. Tuy nhiên, nó chỉ là một trong nhiều kết quả có thể xảy ra.
Phạm vi ảnh hưởng của đánh thuế đối với người sản xuất và người tiêu dùng cùng được quyết
định bởi độ co giãn của cung và cầu.
Ta có thể tính được độ co giãn của cung cầu trong ví dụ trước như sau:
E
S
= d(P
1
/Q
1
) = 50 (1,5/100) = 0,75
E
D
= b(P
1

/Q
1
) = -100/3 (1,5/100) = - 0,5
Từ đó ta có:
Gánh nặng của người sản xuất: -E
D
/(E
S
– E
D
) = 0,5/(0,75 + 0,5) = 0,4
Gánh nặng của người tiêu dùng: E
S
/(E
S
– E
S
) = 0,75/(0,75 + 0,5) = 0,6
Và gánh nặng thuế mà người sản xuất và người tiêu dùng phải chịu là:
Người sản xuất: 0,5 x 0,4 = 0,2
Người tiêu dùng : 0,5 x 0,6 = 0,3
Sau đây, chúng ta sẽ các trường hợp cung cầu co giãn và không co giãn hoàn toàn để hiểu
thêm về đặc điểm này.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 5
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
3.1. Cầu hoàn toàn không co dãn
Một lần nữa chúng ta xem xét trường hợp mà trong đó đánh thuế 50 cent/gallon dầu lửa vào
người sản xuất nhưng ở đây đường cầu dầu lửa không co giãn hoàn toàn. Phương trình đường
cầu và đường cung như sau: Q
S

= 50P
s
+25
Q
D
= 100
Ở điểm cân bằng ban đầu, ta có số lượng Q
1
= 100 tỷ gallon ở mức giá P
1
= 1,5 đôla.
Ta có độ co giãn của cung cầu trong trường hợp này là:
Độ co giãn của cung: E
S
= 50 (1,5/100) = 0,75
Độ co giãn của cầu: E
D
= 0 (1,5/100) = 0
Khi thuế đánh vào người sản xuất, điều này làm gia tăng chi phí biên lên 0,5 đôla. Giá cả tăng
kéo theo cung giảm xuống, khi đó đường cung dịch chuyển từ S
1
sang S
2
, điểm cân bằng bây
giờ tại P
2
= 2 đôla cao hơn P
1
= 1,5 đôla.
Lúc này, gánh nặng chịu thuế được xác định như sau:

Gánh nặng thuế của người sản xuất: 0,5 x 0 / (0,75 + 0) = 0
Gánh nặng thuế của người tiêu dùng : 0,5 x 0,75 (0,75 + 0) = 0,5
Như vậy, khi đường cầu không co dãn thì người sản xuất không chịu gánh nặng thuế trong khi
đó người tiêu dùng lại chịu hoàn toàn, đây là sự dịch chuyển hoàn toàn thuế vào người tiêu
dùng.
3.2. Cầu co dãn hoàn toàn
Ta cũng xét tương tự trong thị trường dầu lửa, nhưng trong trường hợp này cầu co dãn hoàn
toàn, ta có phương trình đường cung cầu trong trường hợp này như sau:
(S
1
) : Q
S
= 50P
S
+ 25
(D
1
) : P
D
= 1,5
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 6
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Ban đầu thị trường cân bằng ở mức P
1
= 1,5 đôla và Q
1
= 100 tỷ đôla dầu lửa.
Ta xác định được độ co giãn của cung cầu trong trường hợp này như sau:
Độ co giãn của cung: E
S

= 0 (1,5/100) = 0
Độ co giãn của cầu: E
D
= -100/3 (1,5/100) = 0,5
Khi đánh thuế 50 cent/đôla, đường cung dịch chuyển từ S
1
đến S
2
. Giá cả cân bằng vẫn ở mức
P
1
= 1,5 đôla, nhưng số lượng giảm xuống Q
2
= 90 tỷ gallon.
Lúc này, gánh nặng thuế được xác định như sau:
Gánh nặng thuế của người sản xuất : 0,5 x 0,5 / (0 + 0,5) = 0,5
Gánh nặng thuế của người tiêu dung : 0,5 x 0 / (0 + 0,5) = 0
Như vậy, trong trường hợp này thì người sản xuất lại là đối tượng gánh chịu thuế hoàn toàn.
3.3. Mức co dãn của cung
Mức co dãn của cung cũng ảnh hưởng đến mức độ phân phối của gánh nặng thuế. Đường
cung co dãn hơn khi người sản xuất có thể sử dụng các nguồn lực đầu vào thay thế hơn.
VD: trong ngắn hạn, nhà máy thép có cung không co dãn, nhà máy không thể dễ dàng chuyển
công nghệ luyện thép sang công nghệ chế tạo nhựa hoặc chế biến gỗ do chí phí bỏ ra rất cao.
Ngược lại, đường cung của người bán dạo trên đường phố lại rất co dãn bởi cá nhân người
bán dạo có mức đầu tư thấp, nếu như chính phủ đánh thuế họ dễ dàng chuyển sang đầu tư lĩnh
vực khác.
So sánh phạm vi ảnh hưởng thuế đánh vào nhà máy thép và thuế đánh vào người bán dạo biểu
thị qua 2 biểu đồ sau:
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 7
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng

Trường hợp 1: Cung ít co giãn hơn cầu - thuế đánh vào nhà máy thép
Với đường cung cầu thị trường thép được cho như sau:
(S
1
) : Q
S
= 2,5P
S
+ 55
(D
1
) : Q
D
= -10P
D
+ 280
Thị trường đang cân bằng tại Q
1
= 100 tấn thép, P
1
= 18triệu/1tấn thép. Và ta có độ co giãn
của cung cầu trong trường hợp này là:
Độ co giãn của cung: E
S
= 2,5 (18/100) = 0,45
Độ co giãn của cầu: E
D
= -10 (18/100) = -1,8
Khi chính phủ đánh thuế 1triệu đồng/1 tấn thép, do vốn đầu tư cố định không thay đổi, nhà
máy vẫn sản xuất số lượng thép gần bằng với lượng ban đầu, nếu tăng giá thép, thì người tiêu

dùng sẽ tiêu dùng ít thép đi, dẫn đến thép dư thừa. Vì vậy, nhà sản xuất không thể tăng giá
quá cao.
Khi có thuế, đường cung S
1
sẽ dịch chuyển đến S
2
với đường cung S
2
: Q
2
= 2,5P
2
+ 52,5, giá
cả tăng nhẹ từ P
1
lên P
2
= 18,2 triệu/1tấn thép, và số lượng thép giảm không đáng kể từ Q
1
xuống Q
2
= 98 tấn thép.
Ta tính được gánh nặng thuế mà người sản xuất và người tiêu dùng chịu trong trường hợp này
như sau:
Gánh nặng thuế của người sản xuất: 1 x 1,8 / (0,45 + 1,8) = 0,8
Gánh nặng thuế của người tiêu dùng: 1 x 0,45 / (0,45 + 1,8) = 0,2
Bởi giá cả tăng rất nhỏ nên không đủ bù đắp số thuế mà nhà máy thép phải nộp. Vì thế trong
trường hợp này nhà máy gần như gánh chịu thuế hoàn toàn.
Trường hợp 2: Cung co giãn hơn cầu - thuế đánh vào người bán dạo
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 8

Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Đặc điểm của những người bán dạo là rất nhạy cảm với chi phí sản xuất trong quyết định đầu
tư của họ, dẫn đến đường cung rất co dãn. Ta có đường cung cầu của thị trường bán hàng dạo
kẹo như sau:
(S
1
) : Q
S
= 50/3P
S
-100
(D
1
) : Q
D
= -25/6P
D
+ 150
Ban đầu, họ sẵn lòng cung cấp số lượng Q
1
= 100 (cây kẹo) với giá P
1
= 12 ngàn đồng. Với độ
co giãn của cung và cầu trong trường hợp này như sau:
Độ co giãn của cung: E
S
= 50/3 (12/100) = 2
Độ co giãn của cầu: E
D
= -25/6 (12/100) = 0,5

Nếu chính phủ đánh thuế 2 ngàn đồng thì những người bán dạo này sẽ di chuyển sang lĩnh
vực kinh doanh khác, khi đó đường cung S
1
dịch chuyển sang S
2
: Q
S
= 50/3P
S
+ 400/3 với giá
tăng lên P
2
= 13,6 ngàn đồng và số lượng lại giảm từ Q
1
xuống Q
2
= 93 cây kẹo.
Ta có thể tính được gánh nặng chịu thuế của người sản xuất và người tiêu dùng như sau:
Gánh nặng chịu thuế của người tiêu dùng: 13,6 – 12 = 1,6 ngàn đồng
Gánh nặng chịu thuế của người sản xuất: 2 – 1,6 = 0,4 ngàn đồng
Sự gia tăng giá cao trong thị trường bán dạo gần như bù lại số tiền thuế mà họ phải nộp, vì
vậy họ ít gánh chịu thuế hơn trong khi người tiêu dùng mặt hàng này đa phần chịu thuế.
Do vậy, phạm vi ảnh hưởng của thuế được quyết định bởi độ co dãn của cung, những đối
tượng có cung không co dãn thì những đối tượng này sẽ chịu thuế hoàn toàn.
Từ những phần ở trên, chúng ta có một kết luận tổng quát, đó là những đối tượng có cung
hoặc cầu không co dãn thì những đối tượng này sẽ chịu thuế hoàn toàn.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 9
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
II – MỞ RỘNG PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA THUẾ
1. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường các yếu tố sản xuất:

Sự phân tích phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường các yếu tố sản xuất giống như
trong thị trường hàng hóa tiêu dùng. Chỉ có điểm khác đó là người tiêu dùng các yếu tố sản
xuất là các doanh nghiệp và người cung cấp các yếu tố sản xuất là các cá nhân (lao động).
Ví dụ, hãy xem xét thị trường lao động với phương trình đường cung cầu như sau:
(D
1
): H = -2W + 13,3
(S
1
): H = 2W – 7,3
Thị trường cân bằng ban đầu, trước thuế, với tiền lương W
1
= 5,15 đôla/giờ lao động và H
1
=
3 giờ lao động tại điểm A.
Bây giờ giả sử chính phủ đánh thuế tiền lương: 1 đôla/giờ trên tất cả người lao động. Thuế
làm giảm thấp thu nhập lao động 1 đôla. Kết quả là, người lao động yêu cầu phải gia tăng
thêm 1 đôla tiền lương bù vào tiền thuế để sẵn lòng làm việc.
Khi đó, cung lao động từ S
1
sẽ đến với S
2
: H
2
= 2W
2
– 9,3. Với đường cầu vẫn còn ở vị trí
gốc, sự dịch chuyển này dẫn đến tiền lương cân bằng ở vị trí cao hơn: W
2

= 5,65 đôla tại điểm
B. Phạm vi ảnh hưởng của thuế được chia sẻ bởi người lao động và công ty phù hợp với độ co
giãn của đường cung và đường cầu.
Ta có độ co giãn của đường cung E
S
= d(W
1
/H
1
) = 2 (5,15 / 3) = 3,43
Và độ co giãn của đường cầu E
D
= b(W
1
/H
1
) = (-2) (5,15 / 3) = -3,43
Vì độ co giãn của cung và cầu là bằng nhau cho nên gánh nặng được chia sẻ như nhau: tiền
lương gia tăng lên 5,65 đôla/1 giờ và những người lao động sẽ nhận được 4,65 đôla/1 giờ sau
khi nộp thuế 1 đôla. Công ty và người lao động mỗi người gánh chịu 50 cent của 1 đôla thuế,
được tách đôi như được biểu thị trên trục tung. Công ty trả tiền lương cao hơn 50 cent (5,65
đôla), nhưng bởi vì phải nộp thuế 1 đôla, nên họ nhận ít hơn 50 cent tiền lương sau thuế (4,65
đôla). Tổng tiền lương trong thị trường gia tăng đến 5,65 đôla, nhưng tiền lương sau thuế
giảm xuống còn 4,65 đôla.
Tiếp theo ta xét ảnh hưởng đến thị trường lao động khi đánh thuế tiền lương, công ty chịu
trách nhiệm nộp thuế thay vì người lao động nộp thuế. Trong trường hợp này, đường cung lao
động vẫn ở tại S
1
và bởi vì thuế đánh vào người tiêu dùng (công ty), đường cầu lao động giảm
xuống và dịch chuyển từ D

1
đến D
2
: H
2
= -2W
2
+ 11,3
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 10
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Tiền lương thị trường giảm xuống 1 đôla từ 5,65 đôla đến 4,65 đôla, cân bằng mới (điểm C)
và gánh nặng thuế không thay đổi. Công ty gánh chịu gánh nặng 50 cent như trước đó; tuy
nhiên không phải trả tiền lương cao hơn 50 cent, bây giờ họ trả tiền lương (4,65 đôla) thấp
hơn 50 cent tiền lương cân bằng ban đầu 5,15 đôla. Thêm vào đó, công ty phải nộp 1 đôla tiền
thuế cho chính phủ, vì thế thực tế họ phải trả tiền lương 5,65 đôla.
Những người lao động gánh chịu gánh nặng thuế 50 cent; tuy nhiên không phải nhận tiền
lương cao hơn 50 cent và nộp thuế cho chính phủ 1 đôla, người lao động bây giờ nhận tiền
lương thấp hơn 50 cent (4,65 đôla). Tổng tiền lương trong thị trường giảm xuống đến 4,65
đôla, tiền lương sau thuế được công ty thanh toán là 5,65 đôla.
Phân tích phạm vi ảnh hưởng của thuế đánh vào tiền lương cho thấy không có sự khác biệt:
thuế tiền lương (để tài trợ cho an sinh xã hội) đánh ½ vào người lao động và ½ vào công ty,
không đánh 100% vào người lao động hoặc công ty. Nguyên tắc thứ hai của phạm vi ảnh
hưởng thuế nói lên rằng dù quyết định gánh nặng của thuế tiền lương là tổng quy mô thuế
(tổng góc thuế), nhưng không nói lên thuế được phân phối như thế nào giữa người lao động
(cung) và công ty (cầu).
Những trở ngại đối với điều chỉnh tiền lương: Một trong trở ngại là tiền lương tối thiểu –
mức tiền lương tối thiểu bắt buộc mà tất cả người lao động được thanh toán cho mỗi giờ lao
động. Giả sử mức tiền lương tối thiểu là 5,15 đôla.
Xét trường hợp tiền lương đánh vào người lao động. Trong trường hợp này, tiền lương tối
thiểu không có ảnh hưởng đến phân tích phạm vi ảnh hưởng: khi đánh thuế, tiền lương gia

tăng đến 5,65 đôla tại điểm B (công ty thanh toán thêm 50 cent tiền lương), người lao động
nộp 1 đôla tiền thuế cho chính phủ và họ nhận được mức lương sau thuế là 4,65 đôla.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 11
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Xét trường hợp thuế tiền lương đánh vào công ty. Trong trường hợp này, đường cung vẫn
còn ở tại S
1
và đường cầu dịch chuyển đến D
2
. Tuy nhiên, công ty không thể hạ thấp tiền
lương đến mức 4,65 đôla (điểm C), bởi vì thấp hơn mức tiền lương pháp lý. Tiền lương phải
duy trì ở mức 5,15 đôla; công ty phải gánh chịu toàn gánh nặng thuế và nộp thuế cho chính
phủ. Mức tiền lương công ty phải trả là 6,15 đôla. Số giờ lao động trong thị trường giảm còn 2
giờ, ở đó đường cầu mới D
2
cắt đường tiền lương tối thiểu (điểm C’)
2. Phạm vi ảnh hưởng của thuế trong thị trường cạnh tranh không hoàn hảo - Thị
trường độc quyền:
Trong phần này chúng ta nghiên cứu thị trường độc quyền - một thị trường chỉ có một người
cung cấp hàng hóa.
- Cân bằng thị trường độc quyền
Những nhà độc quyền tối đa hóa lợi nhuận như các công ty cạnh tranh đã làm: họ sản xuất
hàng hóa mãi đến khi chi phí biên bằng thu nhập biên kiếm được. Trong thị trường cạnh
tranh, thu nhập biên là giá cả thị trường, vì vậy các công ty cạnh tranh thiết lập chi phí biên
bằng giá. Tuy nhiên, bởi vì nhà độc quyền là người “làm giá cả” (price makers) chứ không
phải là người “chấp nhận giá cả” (price takers) nên thu nhập biên không phải là giá cả được
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 12
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
quyết trong thị trường mà là giá cả được chọn lựa bởi nhà độc quyền (nhà độc quyền áp đặt
giá cả lên tất cả người tiêu dùng).


Hình trên cho thấy sự quyết định cân bằng trong thị trường độc quyền. Nhà độc quyền có
đường chi phí biên dốc đi lên và đường cầu dốc đi xuống. Với đường cầu đi xuống, nhà độc
quyền phải hạ thấp giá cả. Nói khác đi, người tiêu dùng chỉ mua thêm một đơn vị sản phẩm
nếu như giá cả thị trường thấp hơn mức giá của đơn vị trước đó. Như vậy, nhà độc quyền phải
đánh đổi: doanh thu tăng thêm ở một mức giá nhất định sẽ làm gia tăng thu nhập, nhưng buộc
phải hạ thấp mức giá đối với các đơn vị sản phẩm để đạt được cân bằng mới với mức sản
lượng cao hơn được sản xuất; điều này làm giảm thấp thu nhập.
Thu nhập biên của nhà độc quyền là đường MR
1
, nằm dưới đường cầu D
1
. Thu nhập biên mà
nhà độc quyền nhận được từ bán sản phẩm thêm là nằm dưới tính sẵn lòng thanh toán của
người tiêu dùng để mua một đơn vị sản phẩm. Ở hình vẽ trên, nhà độc quyền chọn sản xuất ở
số lượng Q
1
, ở đó thu nhập biên bằng chi phí biên (điểm A). Trên đường cầu D
1,
người tiêu
dùng sẵn lòng thanh toán ở mức giá P
1
để lấy Q
1
. Chú ý rằng, mặc dù nhà độc quyền có quyền
lực giá cả, nhưng vẫn cần quan tâm đến đường cầu. Nhà độc quyền không thể sản xuất số
lượng Q
1
và tính giá bán ở mức P
2

bởi vì ở mức giá đó người tiêu dùng lại có nhu cầu ở mức
Q
2
lớn hơn Q
1
.
- Thị trường nhóm độc quyền:
Cấu trúc thị trường nhóm độc quyền ở giữa hai thái cực độc quyền và cạnh tranh hoàn hảo,
trong đó chỉ có vài nhà cung cấp. Hiện tại vẫn chưa có một lý thuyết nào khẳng định rõ ràng
về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong trường hợp có nhóm độc quyền. Đối với các nhóm độc
quyền, họ thường có những mưu lược liên kết lại với nhau để sản xuất sản lượng sao cho đạt
được tối đa hóa lợi nhuận của ngành (chẳng hạn, nhóm cácten dầu mỏ). Các nhóm độc quyền
thường yêu cầu các hãng trong nhóm cắt giảm sản lượng để gây sức ép tăng giá, thế nhưng
giải pháp đó khó mà đạt được. Bởi vì, sau khi đạt được thỏa thuận về giới hạn sản lượng mà
mỗi một hãng được phép sản xuất, thì các hãng lại có động cơ không cam kết thực hiện thỏa
thuận đó. Lợi dụng giá cao, họ sản xuất mức sản lượng cao hơn hạn ngạch cho phép nhằm tối
đa hóa lợi nhuận. Kết quả là, sản lượng trên thị trường có nhóm độc quyền thường cao hơn so
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 13
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
với mức giới hạn mà cácten đã thiết lập. Khi có thuế, các hãng sẽ bị thiệt, vì họ phải nộp thuế.
Tuy nhiên, khi ký hợp đồng về sản lượng, họ sẽ tiến sát gần hơn các giải pháp của cácten, vì
thế lợi nhuận trước thuế của họ gia tăng. Về mặt lý thuyết, có thể lợi nhuận trước thuế tăng
lên nhiều hơn so với mức sau khi nộp thuế, nên các hãng không bị thiệt.
- Đánh thuế vào thị trường độc quyền
Giả sử chính phủ đánh thuế vào người tiêu dùng trong thị trường độc quyền như miêu tả
trong hình. Ta có phương trình đường cầu trong thị trường: P
1
= 40 – Q
1


Và đường chi phí sản xuất là: C = 50 + Q
2
Từ đó ta xác định được: MR
1
= 40 – 2Q và MC
1
= 2Q
Để tối đa hóa lợi nhuận, nhà độc quyền sẽ sản xuất sản lượng tại điều kiện MR
1
= MC
2
, ta có
giá và sản lượng cân bằng là : P
1
= 30 và Q
1
= 10.
Khi chính phủ đánh thuế t = 10 làm cho người tiêu dùng mua ít sản phẩm của nhà độc quyền,
làm dịch chuyển đường cầu đến D
2
: P
2
= 30 – Q
2
. Sự giảm này kéo theo đường thu nhập biên
dịch chuyển đến MR
2
= 30 – 2Q
2
. Cân bằng mới ở mức Q

2
= 32,5 và P
2
= 7,5.
Số thuế mà người tiêu dùng gánh chịu là: 32,5 – 30 = 2,5
Số thuế mà nhà độc quyền gánh chịu là: 10 – 2,5 = 7,5
Nhà độc quyền gánh chịu một phần thuế như trong trường hợp thị trường cạnh tranh.
Tiếp theo ta xét khi chính phủ đánh thuế vào nhà độc quyền, mới mức thuế t = 10, nó làm
đường MC
1
dịch chuyển MC
2
với đường MC
2
= 2Q + 10. Tương tự trường hợp trên, ta tính
được giá và sản lượng cân bằng là P
2
= 32,5 và Q = 7,5. Và số thuế nhà độc quyền chịu là 7,5
và người tiêu dùng chịu là 2,5.
Như vậy, ba nguyên tắc ảnh hưởng thuế vẫn có giá trị trong thị độc quyền.
Tuy nhiên, tác động của thuế đánh vào sản lượng đối với độc quyền khác với cạnh tranh.
Trong khi ta đánh thuế ứng với ngành cạnh tranh, thì giá thị trường tăng lên 1 lượng ít hơn
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 14
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
thuế, và cả nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng đều phải chịu thuế. Với độc quyền giá có thể tăng
lên một lượng lớn hơn mức thuế.
Ta xét thị trường độc quyền có đường cầu và chi phí biên MC = 40. Từ đó ta có
đường doanh thu biên . Thị trường cân bằng tại Q = 6,25 và P = 80.
Giả sử với mức thuế cụ thể là t = 10 đôla trên 1 đơn vị sản phẩm, nhà độc quyền phải nộp lại t
đôla cho Chính phủ với mỗi đơn vị sản phẩm được bán ra. Do đó chi phí biên của hãng tăng

lên một lượng bằng mức thuế t. Quyết định sản xuất tối ưu bây giờ là đẳng thức: MR = MC +
t. Ta xác định được giá và sản lượng cân bằng mới P = 100 và Q = 4.
Dịch chuyển đường chi phí biên lên trên dẫn đến giá cao hơn và sản lượng thấp hơn. Đôi khi
giá tăng lên ít hơn thuế, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Trong trường hợp đang xét giá
tăng lên nhiều hơn thuế.
Ta có thể thấy, giá tăng lên cao hơn thuế ∆P = 100 – 80 = 20 lớn hơn t = 10.
Điều này không thể xảy ra trong thị trường cạnh tranh, nhưng có thể xảy ra trong trường hợp
độc quyền bởi vì mối quan hệ giữa giá cả và chi phí biên phụ thuộc vào độ co giãn của cầu.
Ví dụ, giả sử một nhà độc quyền có đường cầu với độ co giãn không đổi bằng -2. Phương
trình định giá tối ưu của hãng độc quyền:
khi đó chỉ ra rằng giá cả sẽ bằng hai lần chi phí biên. Với mức thuế t, chi phí biên tăng lên
MC + t. Do đó giá cả tăng lên 2(MC + t) = 2MC + 2t. Tức là, nó tăng hai lần so với sự gia
tăng của thuế.
3. Phạm vi ảnh hưởng của thuế và vấn đề vốn hóa:
Trong phần này, chúng ta phân tích sự tác động của thuế đánh vào đất đai. Đặc tính nổi bật
của đất là cung cố định và loại hàng hóa có tính bền lâu. Giả sử tiền cho thuê đất năm đầu tiên
là R
0
, các năm kế tiếp là R
1
, R
2
…, thì người thuê đất sẽ phải trả tiền thuê là bao nhiêu. Nếu
như thị trường bất động sản là cạnh tranh, thì giá cả của đất bằng với giá trị chiết khấu hiện tại
của dòng thời gian thuê (T). Gọi tỷ suất sinh lợi là r, thì giá cả của đất (P
R
) sẽ là:
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 15
MC + t
Số lượng MC

Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Số thuế thu vào năm đầu tiên là u
0
và các năm tiếp theo lần lượt là u
1
, u
2
… Bởi vì đất đai là
hàng hóa có mức cung cố định, nên số tiền cho thuê đất hàng năm mà người sở hữu nhận
được giảm xuống đúng bằng toàn bộ số tiền thuế. Điều này cũng có nghĩa là thu nhập của chủ
đất đầu tiên giảm (R
0
– u
0
) đô la, (R
1
– u
1
) đôla vào năm tiếp theo và (R
2
– u
2
) đôla vào năm
tiếp sau đó … Những người mua đất về sau chỉ quan tâm đến thực tế: nếu như đất, họ sẽ mua
dòng tương lai của khoản nợ thuế cũng như dòng tương lai của thu nhập. Vậy thì, mức tối đa
mà người sẵn lòng chi trả tiền đất sau thuế là (P’
R
):

Trừ hai phương trình trên (P

R
– P’
R
), ta thấy do thuế mà giá đất giảm xuống bằng:
Như vậy, tại thời gian đầu tiên mà chính phủ đánh thuế đất, giá cả của đất giảm xuống bằng
giá trị hiện tại của tất cả tiền thuế thanh toán trong tương lai. Tiến trình mà chuỗi tiền thuế
được hợp nhất vào trong giá cả tài sản còn gọi là vốn hóa. Do vốn hóa, nên người chủ đất tại
thời gian thuế được đánh phải gánh chịu gánh nặng của thuế mãi mãi. Còn người chủ đất về
sau, khi mua họ phải thanh toán giá đất trong đó có tiền thuế, nhưng tiền thuế này không tạo
ra “gánh nặng”, bởi vì nó chỉ làm cân bằng mức giá thấp hơn khi mua. Vốn hóa làm phức tạp
nỗ lực đánh giá phạm vi ảnh hưởng của thuế đối với hàng hóa có mức cung cố định. Bởi vì
chúng ta không đủ thông tin để nhận biết ai là người chủ đất đầu tiên tại thời gian thuế được
đánh.
4. Phạm vi ảnh hưởng của thuế đến sự cân bằng ngân sách:
Thu thuế là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của chính phủ. Vì thế, phạm vi ảnh hưởng của thuế
không chỉ xem xét ai gánh chịu thuế mà còn quan tâm ai nhận lợi ích từ các khoản chi tiêu
được tài trợ bởi nguồn thu thuế.
Giả sử chính phủ đánh thuế vào nhà hàng bán thức ăn nhanh, có đường cầu co giãn. Sau
đó, chính phủ tài trợ nguồn thu thuế trở lại cho các nhà hàng bán thức ăn nhanh. Trong trường
hợp, thật là sai để cho rằng nhà hàng gánh chịu hoàn toàn gánh nặng thuế: họ nộp thuế, nhưng
rồi họ lại nhận được tiền đầu tư từ chính phủ. Quan tâm cả gánh nặng của thuế và lợi ích mà
thuế mang lại gọi là phạm vi ảnh hưởng cân bằng ngân sách.
Thật rất khó để truy nguồn gốc chi tiêu liên quan đến nguồn thu thuế. Vì thế, chúng ta
thường bỏ qua khía cạnh chi tiêu trong khi phân tích phạm vi ảnh hưởng thuế. Tuy nhiên,
trong thực tế gánh nặng thuế tùy thuộc vào sự phân phối cả thuế và chi tiêu được tài trợ từ
nguồn thu thuế.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 16
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
III – CÂN BẰNG TỔNG THỂ
Trong phần này chúng ta tập trung vào nghiên cứu ảnh hưởng của đánh thuế vào một thị

trường đến các thị trường khác có liên quan. Các nhà kinh tế gọi mô hình này là cân bằng
tổng thể.
1. Xác định tính tương đương của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể:
Từ ví dụ thuế đánh vào nhà hàng, chúng ta khái quát tính tương đương của thuế. Để chỉ ra các
mối quan hệ tương đương của thuế, chúng ta có thể xét mô hình thị trường đơn giản chỉ có 2
loại hàng hóa: F (lương thực) và M (chế biến) với 2 yếu tố sản xuất: K (vốn) và L (lao động).
Có thể liệt kê 9 loại thuế tỷ lệ như: (1) t
KF
: thuế đánh vào số vốn dùng để sản xuất hàng lương
thực; (2) t
KM
: thuế đánh vào số vốn dùng để sản xuất hàng chế biến; (3) t
LF
: thuế đánh vào lao
động tham gia sản xuất hàng lương thực; (4) t
KM
: thuế đánh vào lao động tham gia sản xuất
hàng chế biến; (5) t
F
: thuế đánh vào tiêu dùng hàng lương thực; (6) t
M
: thuế đánh vào vốn
dùng hàng chế biến; (7) t
K
: thuế đánh vào vốn dùng cho cả hai khu vực; (8) t
L
: thuế đánh vào
lao động dùng cho cả hai khu vực; (9) t: thuế đánh vào tổng thu nhập.
Bốn loại thuế đầu tiên đánh vào các nhân tố sản xuất mà chỉ có một vài doanh nghiệp sử
dụng, nên có thể gọi đây là thuế đánh vào yếu tố sản xuất có tính cục bộ. Các loại thuế này kết

hợp chặt chẽ với nhau sẽ tương đương với các loại thuế khác. Tính tương đương này trước hết
xuất phát từ lý thuyết người tiêu dùng. Thuế đánh vào hàng lương thực (t
F
) và hàng chế biến
(t
M
) với thuế suất giống nhau là tương đương đối với thuế đánh vào thu nhập (t). Giải thích chi
tiết hơn, thuế có cùng tỷ lệ đánh vào tất cả các loại hàng hóa đều có ảnh hưởng như nhau đến
giới hạn ngân sách của người tiêu dùng và tính chất này cũng giống như thuế thu nhập tỷ lệ.
Cả hai loại thuế này tạo ra sự tịnh tiến song song hướng vào nhau. Tương tự, xem xét thuế
đánh vào các yếu tố sản xuất, bằng sự tính toán số học, có thể thấy đánh thuế vào các yếu tố
vốn (t
K
) và lao động (t
L
) với thuế suất giống nhau tương đương như thuế đánh vào thu nhập
(t).
Nói một cách tổng quát, bất kỳ hai loại thuế nào mà tạo ra những thay đổi giống nhau về giá
cả đều có phạm vi ảnh hưởng tương đương. Tất cả những quan hệ tương đương có thể tóm tắt
ở bảng dưới đây:
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 17
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
t
KF
và t
LF
Tương đương với t
F
Và và Và
t

KM
và t
LM
Tương đương với t
M
Tương đương với Tương đương với Tương đương với
t
K
và t
L
Tương đương với T
Các mối quan hệ tương đương của thuế
2. Mô hình cân bằng tổng thể của Harberger:
Harberger sinh năm 1924, nhà kinh tế học người Mỹ, đã từng giảng dạy tại các trường đại
học nổi tiếng của Mỹ: Harvard University, Princeton University, University of Chicago… là
người tiên phong nghiên cứu áp dụng mô hình cân bằng tổng quát về phạm vi ảnh hưởng của
thuế. Sau đây liệt kê các giả định có tính nguyên tắc trong mô hình phân tích của Harberger:
- Về yếu tố kỹ thuật:
Để tiến hành sản xuất sản phẩm các hãng trong mỗi ngành đều sử dụng vốn và lao động. Theo
mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa các yếu tố đầu vào và sản lượng, trong mỗi ngành, nếu gấp đôi
đồng thời hai yếu tố đầu vào thì đầu ra cũng gấp đôi, nhưng mức sinh lời không đổi so với
quy mô. Yếu tố kỹ thuật sản xuất có thể khác nhau giữa các ngành và tác động đến sự thay thế
giữa vốn và lao động (độ co giãn thay thế) cũng như tỷ lệ giữa vốn với lao động. Những
ngành có tỷ lệ vốn – lao động cao gọi là ngành cần nhiều vốn và ngược lại, gọi là ngành cần
nhiều lao động.
- Hành vi của các nhà cung cấp các yếu tố sản xuất
Các nhà cung cấp vốn và lao động đều nhằm vào mục đích tối đa hóa tỷ suất lợi nhuận. Trong
điều kiện thị trường cạnh tranh, họ có thể di chuyển tiền vốn và lao động vào các ngành có tỷ
suất lợi nhuận cao. Kết quả là lợi nhuận biên ròng trên vốn (hay lao động) có khuynh hướng
bình quân hóa giữa các ngành.

- Cấu trúc thị trường
Trong môi trường cạnh tranh, giá cả các loại hàng hóa (bao gồm các yếu tố sản xuất: tiền
lương, vốn) đều có thể di chuyển hoàn hảo và các hãng tăng cường cạnh tranh nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Vì vậy, các yếu tố sản xuất đều được khai thác toàn dụng và số tiền chi trả cho
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 18
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
mỗi yếu tố sản xuất là giá trị sản xuất biên của nó, giá trị đầu ra được sản xuất bằng đơn vị
đầu vào cuối cùng.
- Tính chất cố định của tổng các yếu tố sản xuất
Trong một nền kinh tế, tổng số vốn và lao động sẵn có là cố định và chúng có thể tự do di
chuyển giữa các ngành.
- Sở thích của người tiêu dùng
Nếu tất cả người tiêu dùng đều có cùng sở thích, thì thuế không thể gây ra bất kỳ ảnh hưởng
phân phối nào thông qua tác động đến việc sử dụng thu nhập của công chúng. Giả thuyết này
cho phép chúng ta chú trọng đến sự tác động của thuế đến thu nhập.
- Khuôn khổ phạm vi ảnh hưởng của thuế
Khuôn khổ phân tích tập trung nghiên cứu phạm vi ảnh hưởng khác nhau của thuế bằng việc
xem xét sự thay thế một loại thuế này bằng một loại thuế khác. Vì thế số lượng thu nhập hiện
hữu trước và sau thuế xấp xỉ như nhau, nên không cần thiết phải xem xét những thay đổi
trong tổng thu nhập làm thay đổi nhu cầu và giá cả ra sao.
Ở một chừng mực nào đó, có thể nói các giả thiết trên làm đơn giản hóa vấn đề phân tích một
cách đáng kể.
3. Phân tích sự tác động các loại thuế khác nhau:
- Thuế gián thu (t
F
)
Khi thuế đánh vào nhà hàng lương thực, giá cả của hàng hóa này sẽ gia tăng, nhưng không
nhất thiết tăng đúng bằng số thuế. Giá cả tăng khiến cho người tiêu dùng có khuynh hướng
thay thế hàng lương thực bằng hàng chế biến. Kết quả là, thị trường sản xuất hàng lương thực
càng ít đi, nhưng hàng chế biến càng nhiều hơn. Một khi sản xuất hàng lương thực giảm, thì

lượng vốn và lao động trước đây sử dụng cho ngành lương thực buộc phải chuyển sang ngành
chế biến. Do tỷ lệ vốn – lao động có khác nhau giữa hai ngành nên giá cả của các yếu tố sản
xuất phải thay đổi nhất định để sao cho khu vực chế biến sẵn sàng hấp thụ các yếu tố vốn và
lao động mà vốn dĩ không được sử dụng ở ngành lương thực. Giả sử lương thực là ngành
thâm dụng vốn. Vì thế, một số lượng vốn phải được hấp thụ trong ngành chế biến. Vốn
chuyển sang ngành chế biến làm cho giá cả của vốn giảm xuống, bao gồm lượng vốn đang
được sử dụng trong ngành chế biến. Như vậy, ở mức cân bằng mới, toàn bộ vốn của xã hội
đều bị thiệt hại tương đối, chứ không chỉ riêng số vốn trong ngành lương thực. Nói tổng quát
hơn, thuế đánh vào đầu ra của một ngành nào đó làm sút giảm giá cả đầu vào được tập trung
sử dụng cho ngành đó.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 19
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Có thể rút ra một số kết luận như sau: Độ co giãn của cầu lương thực càng lớn, thì sự thay đổi
tiêu thụ từ hàng lương thực sang hàng chế biến càng lớn, và cuối cùng kéo theo một sự tụt
giảm lớn mức tỷ suất sinh lợi trên vốn. Sự chênh lêch về tỷ suất các yếu tố sản xuất giữa
ngành lương thực và ngành chế biến càng lớn, thì giá cả của vốn càng giảm mạnh vì nó được
hấp thụ vào ngành chế biến. Cuối cùng, sự thay thế vốn cho yếu tố lao động trong ngành chế
biến càng khó, thì sự sụt giảm càng lớn tỷ suất lợi nhuận trên vốn cần thiết để hấp thu vốn
tăng thêm. Vì thế, xét ở khía cạnh ngân sách, thuế đánh vào hàng lương thực có xu hướng làm
tổn hại cho những người có nguồn thu nhập chủ yếu từ vốn. Các cá nhân có sở thích giống
nhau (giả định 5) thì không có những tác động đáng kể trên phương diện sử dụng thu nhập.
Tuy nhiên, nếu bỏ qua giả định này, thì rõ ràng những người tiêu dùng nhiều lương thực sẽ
phải gánh chịu gánh nặng thuế lớn hơn. Như vậy, tác động của thuế đánh vào nhà hàng lương
thực phụ thuộc vào hai phương diện: (1) nguồn thu nhập và (2) sử dụng thu nhập. Một nhà tư
bản sử dụng nhiều hàng lương thực sẽ bị thiệt hại trên cả hai phương diện. Nói khác đi, một
người lao động dùng nhiều hàng lương thực có lợi hơn xét trên phương diện nguồn thu nhập,
nhưng trở nên bị thiệt trên phương diện sử dụng thu nhập.
- Thuế thu nhập (t)
Thuế thu nhập tương đương với nhóm thuế đánh vào vốn và lao động với mức thuế suất như
nhau. Theo giả thiết 4, vì mức cung các yếu tố sản xuất hoàn toàn cố định nên thuế thu nhập

không thể dịch chuyển. Thuế này chiếm một tỷ lệ trong phần thu nhập đầu tiên của người lao
động. Hàm ý rút ra đằng sau kết quả này tương tự như trong mô hình cân bằng cục bộ. Khi
tham gia vào quá trình sản xuất, các yếu tố sản xuất phải gánh chịu toàn bộ gánh nặng thuế.
- Thuế chung đánh vào lao động (t
L
)
Thuế chung đánh vào lao động là loại thuế đánh vào toàn bộ lao động được sử dụng trong
ngành lương thực và ngành hàng chế biến. Dưới sự tác động của thuế, các nhà đầu tư không
có động cơ để dịch chuyển sử dụng lao động giữa các ngành. Hơn nữa, với giả thiết mức cung
các yếu tố sản xuất cố định, thì yếu tố lao động phải gánh chịu toàn bộ gánh nặng thuế.
- Thuế đánh vào các yếu tố sản xuất cục bộ (t
KM
)
Khi thuế chỉ đánh vào vốn được sử dụng trong ngành chế biến, có thể nhận ra hai tác động
đầu tiên:
• Hiệu ứng đầu ra: Thể hiện giá cả hàng chế biến có khuynh hướng gia tăng, kéo theo sự
giảm sút lượng cầu của người tiêu dùng.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 20
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
• Hiệu ứng thay thế các yếu tố sản xuất: Trong ngành chế biến, do vốn trở nên đắt đỏ
nên các nhà sản xuất hàng chế biến có khuynh hướng sử dụng vốn ít hơn và nhiều lao
động hơn.
Xét phía bên trái sơ đồ ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể, có thể nhận thấy
hiệu ứng đầu ra bắt nguồn từ sự thu hẹp sản xuất các hàng chế biến. Khi giá cả hàng chế biến
gia tăng kéo theo sự giảm sút nhu cầu, thì vốn và lao động dần dần di chuyển từ ngành chế
biến sang ngành lương thực. Nếu như ngành chế biến sử dụng nhiều lao động, khi đó một số
lượng lớn lao động được dịch chuyển vào ngành lương thực và giá cả của vốn gia tăng. Nói
cách khác, nếu như ngành chế biến sử dụng nhiều vốn, thì giá cả của vốn giảm xuống. Như
vậy, có thể thấy hiệu ứng đầu ra tác động không rõ nét đến hiệu ứng cuối cùng đối với sự thay
đổi giá cả tương đối của vốn và lao động. Phía bên phải của sơ đồ … cho thấy hiệu ứng thay

thế các yếu tố sản xuất diễn ra cũng không rõ nét. Chừng nào sự thay thế giữa vốn và lao động
còn diễn ra, thì sự gia tăng giá cả của vốn sẽ khiến cho nhà sản xuất hàng chế biến sử dụng ít
vốn hơn nhưng nhiều lao động hơn.
Gắn kết hai hiệu ứng này cùng với nhau, ta thấy nếu ngành chế biến sử dụng nhiều vốn, thì cả
hai hiệu ứng diễn ra cùng chiều và giá cả tương đối của vốn đều giảm. Tuy vậy, nếu ngành
này sử dụng nhiều lao động thì kết quả cuối cùng về lý thuyết là khá mơ hồ. Thuế đánh vào
vốn, nhưng cuối cùng cũng làm cho người lao động trở nên bị thiệt đi. Đến đây có thể kết
luận, chừng nào các yếu tố sản xuất có thể di chuyển giữa các ngành, thuế đánh vào một
ngành nào đó, thì hiệu ứng cuối cùng cũng gây ảnh hưởng đến mức sinh lợi đối với các yếu tố
sản xuất của cả hai ngành. Trong khi, điều này lại không thể diễn ra trong mô hình cân bằng
cục bộ.
Có nhiều công trình nghiên cứu về phạm vi ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng
quát đã tập trung phân tích sự tác động của thuế thu nhập công ty. Các công trình đó giả định
nền kinh tế có hai khu vực: (i) công ty và (ii) các tổ chức còn lại; thuế thu nhập công ty là loại
thuế tỷ lệ tính trên vốn chỉ sử dụng trong khu vực công ty. Về mặt lý thuyết, do sự tác động
không rõ nét của thuế đánh vào vốn, nên cần thiết phải có các công trình thực nghiệm để tìm
ra câu trả lời về hiệu ứng của thuế. Mặc dù đưa ra các kết luận khác nhau, nhưng điểm chung
của các công trình nghiên cứu đều cho rằng sự tác động của thuế có khuynh hướng dịch
chuyển đến những người sở hữu.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 21
Phạm vi ảnh hưởng của thuế GV: PGS. TS. Nguyễn Ngọc Hùng
Ảnh hưởng của thuế trong mô hình cân bằng tổng thể
4. Một vài đặc tính khác cần xem xét
Những thay đổi về các giả định cơ bản trong mô hình cân bằng tổng quát có thể bổ sung thêm
một vài khía cạnh về phạm vi ảnh hưởng của thuế theo các cách thức dưới đây:
- Sự khác biệt về sở thích của người tiêu dùng
Giả thiết 5, đặt điều kiện tất cả người tiêu dùng có cùng chung sở thích về hai loại hàng hóa.
Tuy nhiên, khi người tiêu dùng không có cùng chung sở thích thì những thay đổi do thuế gây
ra trong phân phối thu nhập sẽ làm thay đổi quyết định tổng mức chi tiêu, và kéo theo làm
thay đổi giá cả cũng như thu nhập. Có thể xem xét thuế vốn đánh vào khu vực công ty. Hầu

hết các công trình nghiên cứu đều cho rằng, thực thi một chính sách thuế như vậy thì cuối
cùng gánh nặng của thuế cũng dịch chuyển đến tất cả người sở hữu vốn. Vả lại, do vốn có
khuynh hướng là một nguồn thu nhập quan trọng đối với các cá nhân có thu nhập cao, nên
dường như thuế có tính lũy tiến.
Nhóm 1 – TCDN Đêm 2 – K20 22
Thuế làm gia tăng chi phí vốn trong ngành chế biến
Hiệu ứng đầu ra Hiệu ứng thay thế các yếu tố sản xuất
Giá cả của hàng chế biến gia tăng
Nếu như ngành chế
biến là khu vực thâm
dụng lao động, thì giá
cả của vốn gia tăng
Nếu như ngành chế
biến là khu vực thâm
dụng vốn, thì giá cả
của vốn giảm xuống
Nếu như sự thay thế
có khả năng xảy ra,
thì giá cả của vốn
giảm xuống
Giá cả của vốn
giảm xuống
Sự thay thế về giá cả
của vốn về lý thuyết là
khá mơ hồ

×