Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất
MỞ BÀI
Lịch sử phát triển của nền sản xuất xã hội là lịch sử phát triển của
những phương thức sản xuất kế tiếp nhau từ thấp đến cao. Mà lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng
tồn tại không tách rời nhau, tác động qua lại lẫn nhau một cách biện
chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất - quy luật cơ bản nhất của sự vận động
phát triển của xã hội. `Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến, tác động trong tồn
tiến trình lịch sử của nhân loại.
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung trước đây nước ta đã không
nhận thức đúng đắn về quy luật của sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và
lực lượng sản xuất. Cơ chế quan liêu, bao cấp đã bóp méo các yếu tố của
quan hệ sản xuất, kìm hãm lực lượng sản xuất, kết quả của sự không phù
hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất đã làm cho mâu thẫu
giữa chúng trở nên gay gắt. Điều đó khiến cho nền kinh tế Việt Nam phải
ở trong tình trạng khủng hoảng, trì trệ một thời gian dài. Chính vì vậy,
việc đưa nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ, tác động qua lại lẫn
nhau giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất có ý nghĩa vơ cùng to
lớn, đặc biệt là trong q trình xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần ở Việt Nam hiện nay.
I.
Lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với lực lượng sản xuất
1. Khái niệm lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự
nhiên trong q trình sản xuất, nó thể hiện năng lực thực tiễn của con
người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất.
Lực lượng sản xuất bao gồm hai bộ phận cơ bản: tư liệu sản xuất và
người lao động
Tư liệu sản xuất là những tư liệu để tiến hành sản xuất, bao gồm tư
liệu lao động và đối tượng lao động. Trong đó tư liệu lao động bao gồm
cơng cụ lao động( máy móc,…) và đối tượng lao động khác ( phương tiện
để vận chuyển, bảo quản, chứa đựng công cụ lao động và sản phẩm ).Còn
đối tượng lao động gồm hai bộ phận là những yếu tố nguyên nhiên vật
liệu có sẵn trong tự nhiên ( đất đai, than đá,…) và một bộ phận phải trải
qua sự cải tạo của con người (gọi là nhân tạo) ví dụ như nhựa, gỗ ép…
Trong tư liệu sản xuất thì cơng cụ lao động là yếu tố quan trọng
nhất.
Người lao động là yếu tố quan trọng nhất của lực lượng sản xuất
vì người lao động đóng vai trị là chủ thể của q trình sản xuất, là người
tạo ra tư liệu lao động và sử dụng tư liệu lao động vào đối tượng lao động
tạo ra sản phẩm, cịn tư liệu sản xuất chỉ đóng vai trị là khách thể chịu sự
tác động trong q trình sản xuất.
Ngày nay sự phát triển vượt bậc và khả năng ứng dụng nhanh
chóng các thành tựu khoa học cơng nghệ vào sản xuất đã khiến cho tri
thức khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Các yếu tố trong lực lượng sản xuất tác động lẫn nhau một cách
khách quan làm cho lực lượng sản xuất trở thành yếu tố hoạt động nhất,
cách mạng nhất trong một phương thức sản xuất.
Quan hệ sản xuất là mối quan hệ kinh tế giữa người với người
trong quá trình sản xuất.
Quan hệ sản xuất bao gồm : quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất và quan hệ trong
phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó.
Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất ( quan hệ sỡ hữu ) nói lên
ai chủ sỡ hữu đối với nhà máy, xí nghiệp, các thiết bị, các nguyên nhiên
vật liệu trong quá trình sản xuất.
Quan hệ trong tổ chức quản lý quá trình sản xuất (quan hệ quản
lý ) nói lên ai là người thực hiện quyền tổ chức, quản lí, điều hành, giám
sát q trình( đó chính là người sở hữu tư liệu sản xuất ).
Quan hệ trong phân phối kết quả của quá trình sản xuất đó (quan
hệ phân phối ) nói lên ai là người có quyền quyết định việc phân phối,
chia thành quả của quá trình sản xuất cho ai, bao nhiêu và như thế nào ?
Trong ba mặt trên của quan hệ sản xuất thì quan hệ về sở hữu tư
liệu sản xuất có vai trò quan trọng nhất, quyết định hai mặt kia, đồng thời
quan hệ quản lí và quan hệ phân phối có tác động trở lại, kìm hãm hoặc
thúc đẩy quan hệ sở hữu.
2. Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất có vai trị quyết định đối với sự hình thành,biến
đổi và phát triên của quan hệ sản xuất
Tương ứng với một trình độ nhất định của lực lượng sản xuất địi hỏi
phải có một quan hệ sản xuất phù hợp ở cả ba mặt của nó.
Do yêu cầu phát triển sản xuất vật chất lực lượng sản xuất khơng
ngừng phát triển lên ở trình độ cao hơn, đòi hỏi quan hệ sản xuất phải
biến đổi cho phù hợp tạo động lực cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
Song lực lượng sản xuất thường phát triển nhanh hơn trong khi quan
hệ sản xuất chậm thay đổi hơn. Do đó khi sự phát triển của lực lượng sản
xuất đạt đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn gay gắt với quan hệ sản
xuất hiện có và xuất hiện yêu cầu thay thế quan hệ sản xuất mới phù hợp
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất .
Quan hệ sản xuất có vai trị tác động trở lại đối với sự phát triển của
lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất quy định mục đích, cách thức của sản xuất, phân
phối. Do đó nó trực tiếp ảnh hưởng đến thái độ của người lao động, năng
suất, chất lượng, hiệu quả của quá trình sản xuất và cải tiến công cụ lao
động.
Sự tác động của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất diễn ra theo
hai hướng, hoặc là tích cực, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển khi nó
phù hợp hoặc là tiêu cực, kìm hãm lực lượng sản xuất khi nó khơng phù
hợp.
Sự kìm hãm của quan hệ sản xuất đối với sự phát triển của lực lượng
sản xuất có thể là do quan hệ sản xuất lạc hậu hơn, hoặc do quan hệ sản
xuất vượt trước trình độ của lực lượng sản xuất hiện có.
Như vậy, lực lượng sản xuất khơng ngừng phát triển phá vỡ sự phù
hợp về mặt trình độ của quan hệ sản xuất đối với nó địi hỏi phá bỏ quan
hệ sản xuất lỗi thời thay thế bằng một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn. Qúa
trình đó lặp đi lặp lại tác động cho xã hội loài người trải qua những
phương thức sản xuất từ thấp đến cao dẫn đến sự thay thế lẫn nhau của
các hình thái kinh tế-xã hội.
II.
Thực tiễn sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam
hiện nay
1. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất ở nước ta trước đổi mới (trước 1986)
Nước ta vốn là nước thuộc địa nửa phong kiến lại phải chịu nhiều
hậu quả nặng nề do hai cuộc chiến tranh kéo dài để lại nên trước thời kỳ
đổi mới nước ta là một nước nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, trình độ
quản lý thấp cùng với nền sản xuất tự cấp tự túc, thêm vào đó nước ta bị
đế quốc Mĩ bao vây cấm vận về nhiều mặt, nhất là về kinh tế. Do vậy, lực
lượng sản xuất của nước ta cịn thấp kém và chưa có điều kiện phát triển.
Trình độ người lao động rất thấp, hầu hết khơng có chun mơn tay
nghề, phần lớn phần lớn lao động chưa qua đào tạo nghề tạo. Lao động
Việt Nam phần lớn tập trung vào khu vực kinh tế nông nghiệp, họ lao
động sản xuất chủ yếu dựa trên kinh nghiệm sản xuất mà cha ơng để lại.
Tuy nhiên, trình độ người lao động có sự phân hóa giữa các vùng miền:
các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh… người lao động có
trình độ cao hơn các vùng khác trên cả nước.
Là một nước nông nghiệp lạc hậu nên tư liệu sản xuất mà nhất là
công cụ lao động ở nước ta thời kì này cịn thơ sơ, tụt hậu. Trong nông
nghiệp công cụ lao động chủ yếu là cái cày, cái cuốc, theo hình thức “
con trâu đi trước cái cày theo sau” ; trong công nghiệp máy móc thiết bị
cịn ít và rất lạc hậu. Hơn nữa phát triển của cơng cụ lao động cũng có sự
phân hóa giữa các vùng, miền khác nhau.
Như vậy, nhìn chung,trước đổi mới lực lượng sản xuất ở Việt Nam
rất thấp kém, lạc hậu, tụt hậu và phát triển không đồng đều.
Trong khi đó Đảng và Nhà nước ta chủ trương xây dựng quan hệ
sản xuất xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, “
thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có hai thành phần: thành
phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp
tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động”.( Điều 18 Hiến pháp
1980). Các thành phần kinh tế cá thể, kinh tế tư nhân dựa trên sở hữu tư
nhân không được Nhà nước thừa nhận.
Do chưa nhận thức đúng về quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với
lực lượng sản xuất, trong cuộc cải tạo quan hệ sản xuất cũ và xây dựng
quan hệ sản xuất mới, nước ta đã ra sức vận động thậm chí có nơi cưỡng
bức nơng dân đi vào hợp tác xã làm ăn. Đồng thời cùng với việc xây
dựng hợp tác xã có quy mơ từ thấp tới cao chúng ta đã mở rộng và phát
triển các nông trường quốc doanh, các nhà máy các xí nghiệp lớn mà
khơng tính đến trình độ của lực lượng sản xuất cịn đang thấp kém. Mặt
khác chúng ta đã ngộ nhận là khi xây dựng một quan hệ sản xuất mới,
tiến bộ sẽ thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất . Nước ta đã
nhầm lẫn khi nhấn mạnh quá mức sở hữu tư liệu sản xuất theo hướng tập
thể hóa cho đó là nhân tố hàng đầu của quan hệ sản xuất mới, bởi vậy đã
dẫn đến tình trạng biệt lập người lao động với đối tượng lao động chủ yếu
của họ. thực tế nhiều năm qua đã chứng minh quan điểm đó là sai lầm.
Sai lầm ở chỗ chúng ta đã đẩy một số mặt của quan hệ sản xuất lên quá
cao, quá xa làm cho nó tách rời lực lượng sản xuất.
Chúng ta đã ra sức xây dựng lực lượng sản xuất một cách khẩn
trương bằng cách đưa các thiết bị máy móc mới vào các xí nghiệp nơng
nghiệp cịn non yếu nhằm xây dựng lâu dài mơ hình cơng nơng nghiệp
trên địa bàn cấp huyện mà khơng tính đến khả năng quản lý và tổ chức sử
dụng của nông dân cũng như khả năng lãnh đạo của ban quản lý hợp tác
xã.
Trong lực lượng sản xuất chúng ta chỉ chú ý đến tư liệu sản xuất
một cách thuần túy mà không chú ý đến yếu tố người lao động cả về trình
độ và thái độ lao động. Bản thân con người là yếu tố quan trọng nhất, là
yếu tố mang tính quyết định đã trở thành thực thể thụ động trong cơ chế
tập trung quan liêu bao cấp.
Một sai lầm cơ bản nữa là nước ta đã xóa bỏ quá sớm quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa khi kinh tế xã hội chủ nghĩa ở nước ta chưa đủ sức
thay thế. Điều này ảnh hưởng không tốt đến lực lượng sản xuất và mất
một khả năng tạo ra sản phẩm dồi dào cho xã hội
Như vậy, trong khi lực lượng sản xuất rất thấp kém và khơng đồng
đều Nhà nước ta lại duy trì quan hệ sản xuất quá cao chứng tỏ Nhà nước
ta chưa nhận thức đúng và chưa vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất trong thực tiễn đất nước lúc
bấy giờ. Vì vậy nước ta đã phải “ trả giá”:trước đổi mới kinh tế đất nước
vơ cùng khó khăn, kiệt quệ, đời sống vật chất của người dân vơ cùng đói
kém
Từ 1977 đến 1979, việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV vấp váp và
tổn thất trên tất cả các mặt công nghiệp hố, cải tạo cơng thương nghiệp,
hợp tác hố nơng nghiệp, tổ chức lại sản xuất và cải tiến quản lý. Sản
xuất bị kìm hãm, đời sống nhân dân đi xuống nhanh chóng, nhất là ở phía
Nam. Đến cuối năm 1985 kinh tế nước ta ngày càng trở nên khó khăn
(tháng 12-1986, giá bán lẻ hàng hoá tăng 845,3%), . sản xuất phát triển
chậm (tốc độ tăng tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân dưới
1%/năm); năng suất lao động quá thấp. Nền kinh tế nước ta lâm vào
khủng hoảng trầm trọng. Chúng ta không thực hiện được mục tiêu đề ra
là cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân.
Số người bị thiếu đói tăng, bội chi lớn, đời sống nhân dân thiếu thốn,
nhiều hiện tượng trong xã hội có tính tiêu cực nghiêm trọng. Như vậy,
tình hình kinh tế - xã hội nước ta gặp những khó khăn gay gắt; sản xuất
tăng chậm; hiệu quả sản xuất và đầu tư thấp; phân phối lưu thơng có
nhiều rối ren; những mất cân đối lớn trong nền kinh tế chậm được thu
hẹp; quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa chậm được củng cố; đời sống
nhân dân lao động còn nhiều khó khăn…
Nhận thức được những sai lầm của mình trong việc áp dụng quy luật
quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất Đảng
và Nhà nước ta đã có những thay đổi trong việc xác định lại quan hệ sản
xuất ở nước ta.
2. Sự vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay
Từ sau khi đổi mới, lực lượng sản xuất ở Việt Nam khơng ngừng phát
triển.
Trình độ chun môn của người lao động ngày càng được nâng cao số
lao động đã qua đào tạo ngày càng tăng. Năm 2005, lực lượng lao động
cả nước đạt 44.385 nghìn người.Về chất lượng lao động, nếu như năm
1996, tỷ lệ lực lượng lao động đã qua đào tạo là 12,3% thì đến năm 2005
là 24,79%, như vậy số lao động đã qua đào tạo tăng 2,5 lần. … Hệ thống
trường dạy nghề ngày càng được mở rộng góp phần nâng cao trình độ
người lao động. Theo báo cáo của Tổng cục Dạy nghề (Bộ LĐTB&XH),hiện nay cả nước có gần 3.000 cơ sở đào tạo nghề gồm trường
cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề, cơ sở sản xuất, kinh doanh
dịch vụ, các hội nghề nghiệp, đoàn thể, làng nghề. Bên cạnh đó, ở Việt
Nam những năm gần đây đội ngũ trí thức tăng nhanh, chỉ tính riêng số
sinh viên cũng đã cho thấy sự tăng nhanh vượt bậc. Năm 2003-2004 tổng
số sinh viên đại học và cao đẳng là 1.131.030 sinh viên đến năm 20072008 tăng lên 1.603.484 sinh viên. Năm 2008 tổng số sinh viên ra trường
là 233.966 trong đó sinh viên tốt nghiệp đại học là 152.272; sinh viên tốt
nghiệp cao đẳng là 81.694. Số trí thức có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ cũng
tăng nhanh.Theo thống kê cả nuớc đến 2008 có hơn 14 nghìn tiến sĩ và
tiến sĩ khoa học và đang đặt mục tiêu trong 10 năm tới sẽ có 20000 tiến
sĩ. Năm 2008 nước ta có 275 trường Trung cấp chuyên nghiệp, 209
trường cao đẳng, 160 trường Đại học và có tới 27.900 trường phổ thơng,
226 trường dân tộc nội trú…
Nhìn vào những con số này cho thấy trình độ người lao động ở nước
ta ngày càng được nâng cao và đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển kinh tế đất nước. Nhìn chung, trong 5 năm trở lại đây, dạy nghề đã
từng bước đáp ứng được nhu cầu nhân lực qua đào tạo nghề cho các
doanh nghiệp và thị trường lao động. Người lao động có thể đảm nhận
được những công việc chủ chốt trong sản xuất, kể cả những ngành cơng
nghệ cao, góp phần tăng năng suất lao động và năng lực cạnh tranh của
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, vẫn có một thực tế là :"Kỹ năng nghề nghiệp cũng như học
vấn của người lao động trong các doanh nghiệp còn thấp. Khoảng 18%
chất lượng nguồn nhân lực (về tay nghề, kỹ năng mềm) là rất thấp.
Mặc dù chất lượng nguồn lao động ngày càng được nâng cao nhưng
vẫ chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của đất nước. Tâm lý
trọng đại học, lơ là trường nghề đã tạo ra sự mất cân đối trong đào tạo
nhân lực xã hội dẫn đến tình trạng thừa thầy thiếu thợ. Chỉ với gần 30%
số lao động đã qua đào tạo phản ánh một thực tế là nền kinh tế đang thiếu
trầm trọng LĐ có tay nghề; hệ thống giáo dục, định hướng nghề nghiệp
vẫn có nhiều vấn đề. Qua đó cho thấy, tâm lý coi trọng bằng cấp còn bám
rễ quá sâu trong đại bộ phận nhân dân. Việt Nam đang thiếu lực lượng
lao động có tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Chất lượng nguồn
nhân lực của Việt Nam thấp so với các nước vùng lân cận; chỉ đạt 3,79
điểm, xếp thứ 11/12 nước tham gia xếp hạng của Ngân hàng Thế giới.
Máy móc các trang thiết bị hiện đại ngày càng được sử dụng rộng rãi
trong tất cả các ngành kinh tế. Trong nông nghiệp các loại máy cấy, máy
cấy, máy gặt, máy tuốt lúa… đã xuất hiện và ngày càng được sử dụng
rộng rãi. Cùng với đó chất lượng các loại giống cây trồng vật nuôi ngày
càng được nâng cao. Trong công nghiệp, việc ứng dụng những công nghệ
mới cũng được đẩy mạnh như ứng dụng kỹ thuật hạt nhân… Đồng thời
hệ thống điện, đường, trường, trạm cũng từng bước được hoàn thiện.
Tuy nhiên tư liệu sản xuất ở nước ta còn thấp kém so với thế giới chất
lượng và hiệu quả chưa thật sự cao và cịn có sự phân hóa giữa các vùng
trong nước. Theo số liệu của Tổng cục Hải quan, có gần 75% doanh
nghiệp (DN) nước ta nhập khẩu máy móc, thiết bị từ Trung Quốc. Bên
cạnh những thiết bị mới, công nghệ hiện đại, do ham rẻ, nhiều DN đã
nhập thiết bị cũ, công nghệ lạc hậu, kém hiệu quả…
Như vậy,lực lượng sản xuất ở nước ta đã phát triển hơn nhưng vẫn
thấp kém, lạc hậu và khơng đều. Do đó sự sở hữu về tư liệu sản xuất của
mỗi người trong xã hội là không đều
Từ sau đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 Đảng và Nhà nước đã xác
định lại các quan hệ sản xuất ở nước ta. Bằng đường lối, chính sách pháp
luật bước đầu đúng đắn Nhà nước cho phép tồn tại nền kinh tế nhiều
thành phần “Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức
sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập
thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền
tảng”. ( Điều 15 Hiến pháp 1992)
Ở nước ta hiện nay, trình độ lực lượng sản xuất cịn thấp lại khơng
đồng đều giữa các ngành nghề, các vùng miền. Có những vùng người dân
vẫn sử dụng những công cụ lao động thô sơ như cái cuốc, con trâu… để
tiến hành sản xuất nhưng cũng có nơi lao động trong các phịng thí
nghiệm, các khu cơng nghệ cao. Vì vậy việc xác định tồn tại đồng thời
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế là một định hướng đúng
đắn của Đảng và Nhà nước ta phù hợp với quy luật quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
Nhờ bước đầu vận dụng đúng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự
phát triển của lực lượng sản xuất nên tình hình đất nước đã có nhiều khởi
sắc Trải qua chặng đường dài ¼ thế kỷ, cơng cuộc đổi mới ở nước ta đã
thu được những thành tựu mang ý nghĩa lịch sử, đưa nước ta thốt khỏi
nhóm nước có thu nhập thấp, hội nhập vào khối quốc gia có thu nhập
trung bình trên trế giới. Nhờ đó, thế và lực Việt Nam trên trường quốc tế
đang dâng cao chưa từng thấy. 1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm, 19911995: nền kinh tế khắc phục được tình trạng trình trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và tồn diện.GDP bình qn
năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu
đẩy mạnh CNH - HĐH đất nước. Từ năm 1996-2000 tốc độ tăng trưởng
tổng sản phẩm trong nước 7%/năm. Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt
được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%.
Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo giá hiện hành, đạt 838
nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng, tương đương
với 640 USD. Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1
triệu tấn lương thực, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên
thế giới. Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo,
thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
Công nghiệp và xây dựng liên tục tăng trưởng cao, có bước chuyển biến
tích cực về cơ cấu sản Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao
chất lượng và hiệu quả, tập trung hơn vào những ngành then chốt và
những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế., kinh tế hợp tác xã phát triển
ngày càng đa dạng, hoạt động ngày càng có hiệu quả, kinh tế tư nhân phát
triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và tiềm năng trong
nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và phát
triển kinh tế, kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi có tốc độ tăng trưởng
tương đối cao, trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh
tế quốc dân; là cầu nối quan trọng với thế giới về chuyển giao công nghệ,
giao thông quốc tế
Công tác giải quyết việc làm, xố đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000
đến năm 2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất
nghiệp ở thành thị giảm xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở
nông thôn đạt 80%. Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200
USD năm 1990 lên khoảng 640 USD năm 2005. Theo chuẩn quốc gia, tỷ
lệ hộ đói nghèo đã giảm từ 30% năm 1992 xuống dưới 7% năm 2005.
Theo chuẩn quốc tế (1 USD/người/ngày) thì tỷ lệ đói nghèo của Việt
Nam đã giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 28,9% năm 2002.Cơng tác
chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ. Chỉ số
phát triển con người được nâng lên, từ mức dưới trung bình (0,498) năm
1990, tăng lên mức trên trung bình (0,688) năm 2002; năm 2005 Việt
Nam xếp thứ 112 trên 177 nước được điều tra.
3.Phương hướng để tiếp tục vận dụng tốt quy luật quan hệ sản
xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở nước
ta.
Thứ nhất, việc xây dựng QHSX ở nước ta phải xuất phát từ thực
trạng kinh tế - xã hội của đất nước, từ nhận thức tính quy luật từ nền sản
xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn và những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên
CNXH ở nước ta. Vì vậy cần phải phát triển lực lượng sản xuất bằng
công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa tư liệu sản xuất đặc biệt chú
trọng đến việc nâng cao trình độ người lao động bằng cách phát triển giáo
dục đào tạo đặc biệt là đào tạo nghề
Thứ hai, Hoàn thiện cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa để hoàn thiện quan hệ sản xuất. Trong xây dựng hoàn thiện
QHSX mới cần chú trọng cả ba mặt: Chế độ sở hữu, chế độ quản lý và
chế độ phân phối:
Về sở hữu, vẫn sẽ phát triển theo hướng còn tồn tại các hình thức sở
hữu khác nhau, nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trị chủ đạo. Tiêu chuẩn căn bản để đánh giá hiệu quả xây
dựng quan hệ sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy phát
triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân và thực hiện công
bằng xã hội nên phải từng bước xác lập và phát triển chế độ sở hữu công
cộng về tư liệu sản xuất chủ yếu một cách vững chắc, tránh nóng vội xây
dựng ồ ạt mà khơng tính đến hiệu quả như trước đây.
Về quản lý, trong kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
phải có sự quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ
nghĩa quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, kế hoạch, chính
sách đồng thời sử dụng cơ chế thị trường, các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lý kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy tính tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực,
khuyết tật của cơ chế thị trường, bảo vệ lợi ích của người lao động và
toàn thể nhân dân.
Về phân phối, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực
hiện đa dạng hố các hình thức phân phối. "Thực hiện chế độ phân phối
chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng
góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội”. Cơ chế
phân phối này vừa tạo động lực kích thích các chủ thể kinh tế nâng cao
hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh, đồng thời hạn chế những bất
công trong xã hội. Thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ,
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.
Thứ 3, phải duy trì tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh
tế thị trường nước ta, tức là phải thực hiện tăng trưởng kinh tế phải đi đơi
với phát triển văn hóa, giáo dục, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh giữ vai trị chủ đạo trong đời sống tinh thần của nhân dân,
nâng cao dân trí, giáo dục và đào tạo con người, xây dựng và phát triển
nguồn nhân lực của đất nước
KẾT LUẬN
Thực tiễn sau hơn hai mươi lăm năm đổi mới đã khẳng định con đường
của chúng ta đi là đúng đắn và đạt nhiều thành tựu quan trọng, vượt qua
những giai đoạn lịch sử hết sức nhạy cảm. Những thành tựu như giữ vững
ổn định an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, xóa đói giảm nghèo đảm
bảo mức tăng trưởng kinh tế cao 6 - 8% một năm, đã được bạn bè khâm
phục, nhân dân trong nước phấn khởi tin tưởng. Đó là một phần do kinh
tế nước ta có bước đi đúng hướng trong đó phải kể đến thiết lập được
quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp. Trong thực tiễn cũng như trong lý
luận về con đường và cách thức đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau 25
năm đổi mới dần dần có nhiều vấn đề được làm sáng tỏ nhưng cũng có
những vấn đề cần phải tiếp tục phát triển thêm. Có thể nói việc xây dựng
và hồn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng
chủ nghĩa ở nước ta là một vấn đề như thế. Nước ta cần tiếp tục xác lập
và hoàn thiện một quan hệ sản xuất tiến bộ và phù hợp với lực lượng sản
xuất hiện nay để đất nước ngày một phát triển không ngừng, trước tiên là
để tăng trưởng kinh tế một cách bền vững
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo , Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009
2. Bộ giáo dục và đào tạo , Giáo trình triết học Mac- Lênin ( dùng
trong các trường Đại học, cao đẳng), NXB Chính trị Quốc gia, Hà
Nội, 2002 – 2007
3. />4. />co_id=30135&cn_id=176632
5.