Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị to lớn, ý nghĩa lịch sử của 1 trong các tác phẩm được ra đời giai đoạn 1920 1930

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.49 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MƠN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Tên đề tài: Q trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị to
lớn, ý nghĩa lịch sử của 1 trong các tác phẩm được ra đời giai đoạn 1920 - 1930

Họ và tên:
Mã sinh viên:
Lớp:

Hà Nội, 07/2021

Mục lục


2


1. Mở đầu
Mỗi con người Việt Nam được sống trong cuộc sống ấm no hồ bình hạnh phúc
nhưng ắt hẳn cũng không ai quên cái tên thân ái và nể phục Nguyễn Ái Quốc. Người sinh
ra trong một gia đình nhà nho nghèo, trí thức, yêu nước muốn làm cách mạng nhưng
Nguyễn Ai Quốc không tán thành đường lối cứu nước của các bậc tiền bối. Năm 1911
Nguyễn Ai Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước. Ở đây Người đã nhận thấy nỗi khổ của
nhân dân lao động, được tiếp xúc với luận cương của Lê Nin người đã tìm thấy con đường
đi mới cho sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Trên bước đường tìm đường cứu nước và
hình thành tư tưởng người đã gặp khơng ít khó khăn thử thách nhưng với tấm lòng yêu
nước và sự kiên trì cuả mình Người đã vượt qua và tiếp tục sự nghiệp cách mạng. Các văn


kiện như: Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Đường kách mệnh của Bác... đã góp
phần rất lớn trong việc tìm ra thơng tin cho cách mạng Việt Nam cũng như cách mạng các
dân tộc bị áp bức, đặc biệt tôi ấn tượng với tác phẩm “Đường Kách Mệnh” Tác phẩm
đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức lý luận của Nguyễn Ái Quốc, góp phần phát
triển sáng tạo nhiều vấn đề trong lý luận cách mạng Mác - Lênin.
Trên con đường của mình Bác đã phải trải qua 5 giai đoạn hình thành tư tưởng, nó
dần dần được hồn thiện và bổ sung vào những năm 1945-1969. Đây cũng là thời điểm
cách mạng tháng Tám thành công. Cuộc cách mạng này là kết quả của việc vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh và càng chứng minh đường lối cứu nước của Bác hoàn toàn đúng đắn
và phù hợp với quy luật khách quan. Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm
toàn diện những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam từ cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa
Mác – Lê nin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc
và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Cho đến thời đại
ngày nay việc tìm hiểu những lí luận và những giai đoạn hình thành tư tưởng của Bác vẫn
mang lại rất nhiều ý nghĩa về học tập cũng như xây dựng và củng cố tư tưởng cách mạng
Việt Nam
Hôm nay em xin mạnh dạn viết bài tiểu luận với đề tài “Quá trình hình thành, phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh và giá trị to lớn, ý nghĩa lịch sử của 1 trong các tác phẩm
được ra đời giai đoạn 1920 - 1930” và lựa chọn tác phẩm “Đường Kách Mệnh” để tìm
hiểu, mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nhưng sẽ khơng tránh khỏi sai sót rất mong được sự cố
vấn chỉnh sửa từ thầy cơ để bài làm hồn thiện hơn nữa.

3


2. Nội dung
I. Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng khơng hình thành ngay một lúc mà trải qua bằng
q trình tìm tịi, khảo nghiệm, xác lập,phát triển, hồn thiện, gắn với quá trình hoạt động

cách mạng của người. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành qua 5 giai đoạn:
1. Thời kỳ từ năm 1911 trở về trước: hình thành tư tưởng yêu nước và tìm phương
hướng cứu nước mới
Thời trẻ sống trong mơi trường gia đình, q hương, Hồ Chí Minh tiếp tục kế thừa
truyền thống yêu nước, nhân nghĩa của dân tộc, vốn văn hoá quốc học, Hán học và bước
đầu tiếp thu văn hoá phương Tây, chứng kiến cảnh sống nô lệ lầm than của dân tộc, tiếp
thu tinh thần bất khuất của các bậc cha an, hình thành hồi bão cứu nước cứu dân.
2. Thời kỳ 1911-1920: hình thành phương hướng cứu nước, giải phóng dân tộc Việt
Nam theo con đường cách mạng vô sản
Hồ Chí Minh đã đi, sống nhiều nơi trên thế giới, tìm hiểu thực chất thời cuộc hiện
đại, hiểu biết sâu sắc bản chất, thủ đoạn, tội ác của chủ nghĩa thực dân và tình cảnh nhân
dân các nước thuộc địa.
Từ 1911-1917 Hồ Chí Minh đến các nước Pháp, I-ta-li-a, Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Angieri, Tuynidi, Cônggoo ... Qua cuộc hành trình này, ở Người hình thành một
nhận thức mới: giai cấp công nhân, nhân dân lao động các nước đều bị bóc lột có thể là
bạn của nhau. Cịn chủ nghĩa đế quốc, bọn thực dân ở đâu cũng là kẻ bóc lột, là kẻ thù của
nhân dân lao động.
Năm 1917 về Pháp, anh tham gia phong trào công nhân Pháp, bắt đầu đấu tranh
chống chủ nghĩa thực dân.
Năm 1919, anh gia nhập Đảng Xã hội của giai cấp công nhân Pháp. Bởi theo anh
đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nhân dân Việt Nam, là tổ chức duy nhất theo
đuổi lí tưởng cao quý của Đại cách Pháp: Tự do, bình đẳng, bác ái.
Ngày 18 tháng 6 năm 1919, anh lấy tên là Nguyễn Ái Quốc, thay mặt cho người
Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi yêu sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị Véc Xây, đòi
quyền tự do, dân chủ cho nhân dân Việt Nam. Đây là lời nói chính nghĩa đầu tiên của đại
biểu phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam trên diễn đàn quốc tế
Tháng 7-1920, Hồ Chí Minh đọc sơ thảo lần thứ nhất những luận cương của Lênin
về vấn đề dân tộc thuộc địa, và nhiều tài liệu liên quan đến Quốc Tế Cộng sản. Hiểu biết
thêm về chủ nghĩa Lênin, Quốc tế Cộng sản về cách mạng vơ sản với phong trào giải
phóng dân tộc trên thế giới. Qua đó, tìm thấy phương hướng đấu tranh giải phóng dân tộc

Việt Nam theo con đường cách mạng vơ sản.
Tháng 12-1920, cùng những người tích cực nhất trong Đảng Xã Hội Pháp, Hồ Chí
Minh tham gia sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp, trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên. Đồng thời, trong tư tưởng Hồ Chí Minh đi tới xác định các mạng giải phóng dân tộc
ở Việt Nam phải do Đảng cộng sản lãnh đạo.

4


3. Thời kỳ 1920-1930: hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Ngay sau khi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh tích cực sử
dụng báo chí Pháp lên án chủ nghĩa thực dân Pháp. Thức tỉnh lương tri nhân dân Pháp và
nhân loại tiến bộ, khơi dậy lòng yêu nước của nhân dân các dân tộc thuộc địa và Việt
Nam.
Thời kỳ đầu Hồ Chí Minh có một số bài báo đáng chú ý như: Vấn đề dân bản xứ,
báo L’Humanite’ 2-8-1919, Ở Đông Dương,v…v…Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia
sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa. Năm 1922 Người được bầu là Trường Tiểu ban nghiên
cứu vấn đề dân tộc thuộc địa của Đảng Cộng sản Pháp, sáng lập báo Le Paria, bằng tiếng
Pháp tố cáo tội ác của lưng chủ nghĩa thực dân, thức tỉnh nhân dân các nước thuộc địa
trong đó có Việt Nam.
Thơng qua báo chí và các hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về tư tưởng,
tổ chức cho việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Năm 1925, với tên là Nguyễn Ái Quốc, xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân
Pháp, Trong đó, vạch rõ bản chất, thủ đoạn của chủ nghĩa thực dân và vạch ra phương
hướng của cách mạng giải phóng dân tộc trong các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Tháng 6 -1925, Hồ Chí Minh sáng lập tổ chức quá độ cho việc thành lập Đảng
Cộng sản: Hội Việt Nam thanh niên cách mạng, ra báo Thanh niên bằng tiếng Việt, từng
bước truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và lý luận cách mạng trong những người yêu nước.
Năm 1927, xuất bản sách Đường Kách mệnh. Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách

mạng tư sản Anh, Pháp, Mỹ và kinh nghiệm cách mạng Tháng Mười Nga. Chỉ rõ cách
mạng Việt Nam phải có Đảng Cộng sản với chủ nghĩa MácLênin làm cốt lãnh đạo; Lực
lượng cách mạng giải phóng dân tộc là tồn thể nhân dân Việt Nam trong đó nịng cốt là
liên minh cơng nơng.
Từ ngày 3 đến ngày 7-2-1930, Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức
công sản đầu tiên ở Việt Nam, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh
cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, 5 điểm lớn, Điều lệ Đảng Cộng sản
Việt Nam vắn tắt lời kêu gọi do Người khởi thảo, Các văn kiện này được coi là Cương
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng ta. Trong đó, trình bày rõ những quan điểm cơ bản về
đường lối, phương pháp cách mạng Việt Nam, việc tổ chức, xây dựng Đảng Cộng sản
Việt Nam thành một tổ chức lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh chính trị do Hồ Chí Minh khởi thảo giương cao ngọn cờ độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong đó vạch ra con đường cách mạng Việt Nam là từ cách
mạng dân tộc dân chủ tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Liên minh công nơng là lực lượng nịng cốt. Cách mạng Việt Nam là
một bộ phận cách mạng thế giới. Chiến lược đại đoàn kết toàn dân thấm trong từng câu
chữ của Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi nhân
ngày thành lập Đảng. Bản Cương lĩnh đầu tiên này đã thể hiện rõ sự vận dụng và phát
triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong giải quyết mối quan hệ giai cấp, dân tộc và
quốc tế trong đường lối cách mạng Việt Nam.
4. Thời kỳ 1930-1941: vượt qua thử thách, kiên định giữ vững đường lối, phương
pháp cách mạng Việt Nam đúng đắn, sáng tạo
5


Do khơng sát tình hình Đơng Dương, lại bị chi phối bởi quan điểm tả khuynh của
Đại hội 6 (1928) Quốc tế Cộng sản đã chỉ trích đường lối Hồ Chí Minh vạch ra trong Hội
nghị 3/2/ 1930 (cải lương, dân tộc chủ nghĩa dẫn tới hẹp hịi, khơng quan tâm đấu tranh
giai cấp, không quan tâm cách mạng thế giới, khơng thành lập liên bang Đơng Dương)
Vì thế Hội nghị Trung ương 10/1930, ra “án Nghị quyết”, thủ tiêu văn kiện

3/2/1930, đổi tên Đảng. Thời gian này, Hồ Chí Minh tiếp tục hoạt động ở Quốc tế Cộng
sản, nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê nin và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, kiên định bảo vệ
quan điểm của mình.
Đại hội 7 Quốc tế Cộng sản (1935) đã tự kiểm điểm, phê bình về khuynh hướng
“Tả”, “cơ độc”, “hẹp hịi”, dẫn tới buông lơi ngọn cờ dân tộc, dân chủ để cho các Đảng tư
sản của các nước nắm lấy chống phá cách mạng.
Vì thế Đại hội 7 chỉ đạo chuyển hướng chiến lược Cách mạng thế giới, tập trung
thành lập mặt trận dân chủ chống phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ hịa bình.
Đến 1936, Đảng ta càng thấy được những khuynh hướng biệt phái, cô độc, tả
khuynh, hẹp hòi trước đây và chuyển dần hướng chỉ đạo chiến lược, từng bước trở về với
đường lối Văn kiện 3/2 với tư tưởng Hồ Chí Minh.
5. Thời kì 1941-1969: Tư tưởng Hồ Chí Minh Tiếp tục hồn thiện, phát triển và toả
sáng
Ngày 28/1/1941, Hồ Chí Minh về nước trực tiếp lãnh đạo Cách mạng, Người đặt
nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu. Tháng 5/1941, Người chủ trì Hội nghị Trung
ương 8 quyết định “tạm gác” khẩu hiệu ruộng đất, xóa bỏ vấn đề Liên bang Đơng Dương,
thành lập mặt trận Việt Minh, đại đoàn kết dân tộc, cơ sở liên minh cơng nơng nhờ đó
Cách mạng Tháng 8 1945 thành cơng. Đó cũng là thắng lợi đầu tiên của tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Sau Cách mạng Tháng 8, cả nước phải tiến hành kháng chiến chống Pháp lần 2 và
kháng chiến chống Mỹ cứu nước, vừa xây dựng CNXH ở miền Bắc, vừa giải phóng miền
Nam. Đây là thời kỳ tư tưởng Hồ Chí Minh được bổ sung, phát triển hoàn thiện, một loạt
vấn đề cơ bản gồm: đường lối chiến tranh nhân dân toàn dân toàn diện, xây dựng CNXH
ở một nước vốn là thuộc địa nửa phong kiến, quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ
Tư bản chủ nghĩa bởi điều kiện đất nước bị chia cắt, có chiến tranh, xây dựng Đảng cầm
quyền, xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân, củng cố phong trào cộng
sản, cơng nhân quốc tế.
Trước khi qua đời, Người để lại một bản Di chúc thiêng liêng kết tinh những giá trị
đạo đức, tư tưởng, nhân cách, tâm hồn cao đẹp của một người lãnh tụ vĩ đại, suốt đời phấn
đấu hy sinh vì Tổ quốc, nhân dân và nhân loại. Di chúc tổng kết sâu sắc những bài học

đấu tranh thắng lợi của cách mạng Việt Nam, vạch định hướng mang tính cương lĩnh cho
sự phát triển đất nước sau khi kháng chiến thắng lợi.
Đến nay, toàn Đảng, toàn dân Việt Nam đang phấn đấu thực hiện điều mong mỏi
cuối cùng của Hồ Chí Minh là: “Tồn Đảng, tồn dân ta đồn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hồ bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng
đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được Đảng
Cộng sản Việt Nam vận dụng và phát triển trong thực tiễn cách mạng Việt Nam.
6


II. Giá trị to lớn, ý nghĩa lịch sử tác phẩm “ĐƯỜNG CÁCH MỆNH”
1. Bối cảnh lịch sử ra đời, chủ đề tư tưởng, kết cấu tác phẩm
Tác phẩm Đường cách mệnh được chuẩn bị vào những năm 1925-1926 và được
xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt động đầy sôi nổt và hiệu quả của Nguyễn Ái
Quốc.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây,
Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam cách mạng
thanh niên. Công việc đầu tiên Nguyễn Ái Quốc làm là mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ chức và hướng dẫn lớp học. Thời gian
từ năm 1925 đến năm 1927, Nguyễn Ái Quốc đã tổ chức được ba lớp đào tạo với tổng số
75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.
Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp học tại Quảng Châu
được bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông tập hợp lại và
xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh. Sách có khổ 13 x 18cm, in trên giấy
nến, kiểu chữ viết thường.
Tác phẩm với chủ đề tư tưởng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm là giáo dục lý luận
cách mạng cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Vận dụng và phát triển sáng
tạo chủ nghĩa Mác- Lênin, tổng kết thực tiễn phong trào cách mạng trong nước và quốc
tế, cuốn sách đã trình bày một cách hệ thống những vấn đề cơ bản của lý luận cách mạng,
làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối cách mạng Việt Nam.

Về mặt hình thức: Ngồi lời đề tựa, cuốn sách được phân chia theo từng vấn đề, số
trang cũng được đánh theo từng vấn đề, không đánh liền cho cả cuốn sách. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung đề cập 15 vấn đề (1) Tư cách một người cách
mệnh; (2); Vì sao phải viết sách này? (3) Cách mệnh; (4) Lịch sử cách mệnh Mỹ; (5)
Cách mệnh Pháp; (6) Lịch sử cách mệnh Nga; (7) Quốc tế; (8) Phụ nữ quốc tế; (9) Công
nhân quốc tế; (10) Cộng sản thanh niên quốc tế; (11) Quốc tế giúp đỡ; (12) Quốc tế cứu tế
đỏ (13) Cách tổ chức công hội; (14) Tổ chức dân cày; (15) Hợp tác xã.
Về kết cấu nội dung: Tác phẩn được triển khai theo ba nội dung cơ bản: Những
vấn đề lý luận cách mạng chung; tổng kết các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, rút
ra bài học cho cách mạng Việt Nam; xác định phương pháp tổ chức và hoạt động cách
mạng.
Tác phẩm đã nêu lên những vấn đề cơ bản của đạo đức mới - đạo đức của người
cộng sản. Đó là phải có đức và tài, trí và dũng, tư cách và năng lực theo kiểu người cộng
sản. Đó là con người một lịng một dạ. Đó là con người có tổ chức, gắn bó với tổ chức,
với đoàn thể. Đồng thời biết phát huy năng lực cá nhân. “Tư cách người cách mệnh” có
giá trị khoa học và giáo dục lớn đặt cơ sở cho đạo đức học ở Việt Nam.
2. Nội dung cơ bản
A, Những vấn đề lí luận chung về cách mạng xã hội
Trên tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là câu trích trong tác phẩm Làm gì? Của
V.I.Lênin, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của lý luận đối với sự phát triển của
7


phong trào cách mạng nói chung: “Khơng có lý luận cách mệnh, thì khơng có cách mệnh
vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách
nhiệm cách mệnh tiền phong”.
Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Mục đích sách này là để
nói cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải cách mệnh. (2) Vì sao
cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải việc một hai người. (3) Đem
lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói

cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?”.
Để rồi đạt đến mục đích cao nhất là: “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy,
tỉnh dậy rồi thì đứng lên đồn kết nhau mà làm cách mệnh”.
Đường cách mệnh xác định chuẩn mục đạo đức của những người cách mạng,
những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp gian khổ, hy sinh, nhưng vẻ vang của dân
tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu thể hiện một quan niệm trở thành triết lý nhân sinh:
Lý luận cách mạng hàm chứa các giá trị nhân văn cao cả; cách mạng là sự nghiệp hào
hùng, oanh liệt, vẻ vang, người cách mạng phải có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh mới
tiếp thu được tinh thần của lý luận, mới làm trịn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản của một
con người.
(1) Đối với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần kiệm. Hồ mà khơng tư. Cả quyết
sửa lỗi mình. Cẩn thận mà khơng nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay
nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, khơng kiêu ngạo. Nói thì
phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lịng ham muốn về vật chất. Bí mật.
(2) Đối với người, có 5 chuẩn mực: Với từng người thì khoan thứ. Với đồn
thể thì nghiêm. Có lịng bày vẽ cho người. Trực mà khơng táo bạo. Hay xem xét
người.
(3) Đối với cơng việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem xét hồn cảnh kỹ càng. Quyết
đốn. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Những phẩm chất này làm thành các giá trị về nhân cách con người, nhân cách làm
người- Một mẫu người mới đang định hình và xuất hiện trong phong trào cách mạng của
dân tộc.
Tác phẩm giải quyết các vấn đề về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, các loại cách
mạng và vai trị của nó trong lịch sử.
Về Đảng chính trị, Đường cách mệnh xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản là nhân
tố quyết định sự thành công của cách mệnh. Người viết: “Cách mệnh trước hết phải có cái
gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi
thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vơ sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì

phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ
nam.
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
8


Luận điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một vấn đề có tính ngun tắc,
đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng – lý luận.
Đường cách mệnh chỉ rõ cách mệnh là sự nghiệp của tồn dân tộc chứ khơng phải
của một vài cá nhân. Lần đầu tiên trong tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã xác định khái
niệm lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, khoa học dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai
mà bị áp bức càng nặng thì lịng cách mệnh càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Theo
tiêu chí đó, Người xếp “cơng nơng là gốc cách mệnh”, không chỉ họ chiếm số đông trong
dân chúng mà cơ bản là họ bị áp bức, bốc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất. Nguyễn Ái Quốc
coi “học trị, nhà bn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Những
chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận hình thành khối liên minh cơng nông và Mặt trận
dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Đường cách mệnh coi đoàn kết như một nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Theo Người, “An Nam dân tộc cách mệnh thành cơng thì tư bản
Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì cơng nơng Pháp là giai cấp cách mệnh cũng dễ. Và nếu
công nông Pháp cách mệnh thành cơng, thì dân tộc An Nam sẽ được tự do”. Mỗi quan hệ
đó chính là hai cánh của con chim cách mạng bay cao và bay xa.
B, Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra bài
học cho cách mạng Việt Nam
Về lực lượng cách mạng: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Công nông là
người chủ cách mệnh “là vì cơng nơng bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất
cho nên sức mạnh hơn hết, là vì cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. “Học trị, nhà bn nhỏ,

điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mệnh của công nông thơi”.
Về đồn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn
kết với các lực lượng cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn: Cách mạng Việt
Nam phải đứng hẳn về phía phong trào cơng nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế
giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới; Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc
và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này; Xác
định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua lại. Cách
mạng thuộc địa khơng thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc. Với những luận điểm
trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của Đảng, và đặt cơ sở cho
sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng.
Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách
mạng giữ vai trị hết sức quan trọng. Đó là: Phải làm cho dân giác ngộ; Phải giảng giải lý
luận và chủ nghĩa cho dân hiểu; Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho
dân; Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
của một hai người”; Phải biết tổ chức dân chúng lại; Phải giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
Đường cách mệnh giới thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình trên
thế giới, cách mạng Mỹ năm 1776, Cách mạng Pháp 1789, lịch sử cách mạng Nga 1917.
Từ sự phân tích tính chất, nội dung các cuộc cách mạng Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đi
đến kết luận mang tính so sánh với tiến trình vận động lịch sử: Mặc dầu có ý nghĩa to lớn
9


trong tiến trình phát triển của nhân loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn là những
cuộc cách mạng “không đến nơi”, không triệt để. Trong quan niệm của Người, chỉ có
cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Nguyễn Ái Quốc viết “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành
cơng, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, khơng phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp khoe

khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho
công, nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế
quốc chủ nghĩa và tư bản trên thế giới”.
Việc phân tích các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đối chiếu với nhu cầu
khách quan của cách mạng Việt Nam là độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn: Dân tộc ta phải đi theo con đường cách mạng
vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
C, Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng
Đường cách mệnh giới thiệu công lao to lớn của Quốc tế I, Quốc tế II; phê phán
đường lối phi mác xít của những người cơ hội trong Quốc tế II. Nguyễn Ái Quốc vạch rõ
cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới và để
bảo đảm sự thắng lợi, cách mạng nước ta phải dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.
Học tập kinh nghiệm của thế giới, tác phẩm hướng dẫn cách thức tổ chức, vận
động quần chúng: Cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra các đồn thể quần chúng như
cơng hội, nơng hội, phụ nữ, thanh niên… theo đường lối Cách mạng Tháng Mười Nga,
của Quốc tế Cộng sản.
Một điều đặc biệt là trong tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc đã trình
bày hồn chỉnh lý luận về hợp tác xã như một hình thức tổ chức kinh tế - xã hội, có vai trị
vận động quần chúng nơng dân đứng lên làm cách mạng.
3. Giá trị và ý nghĩa lịch sử trong quá khứ đến hiện tại
A, Ý nghĩa lịch sử
Tác phẩm Đường cách mệnh đóng vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam những năm 20 của thế kỷ XX, trong việc kết hợp phong
trào yêu nước với chủ nghĩa Mác – Lênin tạo lập các tiền đề tư tưởng lý luận cho sự ra
đời của Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930.
Góp phần khắc phục sự khủng hoảng về đường lối cứu nước của dân tộc; khẳng
định rõ xu hướng lựa chọn con đường cách mạng Việt Nam, vừa thỏa mãn được các nhu
cầu khách quan của đất nước, vừa phù hợp với xu thế của thời đại sau Cách mạng Tháng
Mười Nga.
Trở thành cuốn sách gối đầu giường của nhiều thế hệ cách mạng Việt Nam; tài liệu

mẫu mực trong việc học tập, vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào giải quyết cách vấn đề
thực tiễn, nhất là trong những giai đoạn lịch sử có sự thay đổi mang tính chất bước ngoặt.
Nhiều vấn đề có liên quan đến con đường cách mạng, xây dựng, tổ chức, đoàn kết
các lực lượng cách mạng, về vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác xây dựng Đảng vững
mạnh, nhất là các chuẩn mực đạo đức của người cộng sản vẫn giữ nguyên tính thời sự
trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay.
B, Giá trị lý luận
10


Tác phẩm Đường Kách mệnh có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Lý luận của tác
phẩm không sách vở mà vạch ra lý luận cách mạng Việt Nam thiết thực, tri thức lý luận
cách mạng Việt Nam đã được hiện diện trong tác phẩm rất mácxít nhưng cũng rất Việt
Nam, dễ hiểu, dễ tiếp thu, kết hợp rất tài tình phương pháp lịch sử và lơgích. Dùng lịch sử
để nói lý luận, từ Cách mạng Pháp đến Cách mạng Nga và kết luận ở Cách mạng Nga, rồi
lấy lý luận soi sáng thực tiễn Việt Nam, và kết luận: Chỉ có cách mạng vơ sản mới giải
phóng được dân tộc.
Giá trị lý luận của tác phẩm còn thể hiện ở tính chiến đấu của nó. Chủ nghĩa Mác
Lênin dạy chúng ta rằng, mỗi bước tiến của chủ nghĩa Mác – Lênin trên bước đường sinh
tồn của nó đều phải chiến đấu quyết liệt với những trường phái tư tưởng khác nhau: Phái
Hệ Ghen trẻ cấp tiến, chủ nghĩa duy tâm triết học, Phái Ba Cu Nin, Đuy Rinh một trường
phái triết học thực nghiệm, phái Dân túy, Bọn cơ hội chủ nghĩa trong quốc tế II, bọn Men
sẽ vích, Trốtkít...
Tác phẩm cũng là một hình mẫu của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào Việt Nam của tác giả. Ví dụ: Lênin cho rằng, cách mạng thuộc địa chỉ có thể giành
được thắng lợi khi có sự giúp đỡ của cách mạng chính quốc, khi cách mạng vơ sản chính
quốc đã giành thắng lợi, nhưng tác phẩm phát hiện thêm rằng, cách mạng thuộc địa có thể
thành cơng trước cách mạng vơ sản ở chính quốc và tác động tích cực đối với cách mạng
chính quốc.
Chủ nghĩa Mác - Lê nin bàn nhiều về vấn đề giải phóng dân tộc. Tác phẩm chỉ rõ

dân tộc và giai cấp kết hợp với nhau, giải phóng dân tộc bằng con đường cách mạng vô
sản.
Tác phẩm Đường Kách mệnh đã thể hiện thiên tài lý luận cách mạng của Nguyễn
Ái Quốc, tác phẩm có giá trị thực tiễn lớn lao, tạo ra sự chuyển biến căn bản, nhanh chóng
trong nhận thức và hành động cách mạng của cán bộ và đông đảo quần chúng, chuẩn bị
tiền đề cho việc thành lập Đảng.
Như vậy, trước khi Đảng ra đời, ở Việt Nam đã có sự thống nhất về tư tưởng chính
trị và tổ chức. Đó là điều kiện trực tiếp giữ vững sự thống nhất trong Đảng ngay từ khi
mới thành lập cũng như sau này. Tác phẩm Đường Kách mệnh là một kho tàng tri thức lý
luận cách mạng Việt Nam, là sự thể hiện tư tưởng cơ bản của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Giá trị
của tác phẩm càng được khẳng định khi Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
Cộng sản Việt Nam tuyên bố rằng, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động.
Thông qua tác phẩm Đường cách mệnh, Nguyễn Ái Quốc – Người cộng sản Việt
Nam đầu tiên – đã trình bày những điều cốt lõi của học thuyết cách mạng Mác – Lênin,
phù hợp với một nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu. Điều này khẳng
định tính phổ biến của các nguyên lý của học thuyết Mác– Lênin trên phạm vi tồn cầu,
khơng chỉ ở Châu Âu, mà cịn ở Phương Đông, Châu Á.
Tác phẩm đánh dấu một giai đoạn mới trong nhận thức lý luận của Nguyễn Ái
Quốc, góp phần phát triển sáng tạo nhiều vấn đề trong lý luận cách mạng Mác – Lênin.
C, Giá trị thực tiễn và tính thời sự của tác phẩm đối với cơng tác xây dựng Đảng
hiện nay
11


Về lực lượng cách mạng: Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cũng chỉ rõ: Công nông là
người chủ cách mệnh “là vì cơng nơng bị áp bức nặng hơn, là vì công nông là đông nhất
cho nên sức mạnh hơn hết, là vì cơng nơng là tay khơng chân rồi, nếu thua thì chỉ mất một
cái kiếp khổ, nếu được thì được cả thế giới, cho nên họ gan góc”. “Học trị, nhà bn nhỏ,
điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; 3 hạng ấy chỉ là

bầu bạn cách mệnh của công nông thơi”.
Về đồn kết quốc tế, Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ rằng, cách mạng Việt Nam phải đoàn
kết với các lực lượng cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh nêu 3 vấn đề lớn: Cách mạng Việt
Nam phải đứng hẳn về phía phong trào cơng nhân và phong trào giải phóng dân tộc thế
giới để đạp đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa trên thế giới; Xác định rõ quan hệ lợi ích dân tộc
và cách mạng thế giới, giữa quyền lợi và trách nhiệm, sự thống nhất của quan hệ này; Xác
định rõ quan hệ cách mạng thuộc địa và cách mạng chính quốc là tác động qua lại. Cách
mạng thuộc địa khơng thụ động ngồi chờ cách mạng chính quốc. Với những luận điểm
trên, tác phẩm đã đặt nền tảng đúng đắn cho đường lối quốc tế của Đảng, và đặt cơ sở cho
sự giúp đỡ của quốc tế trong thời kỳ thành lập Đảng.
Về phương pháp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc khẳng định rằng, phương pháp cách
mạng giữ vai trị hết sức quan trọng. Đó là: Phải làm cho dân giác ngộ; Phải giảng giải lý
luận và chủ nghĩa cho dân hiểu; Phải hiểu phong trào thế giới, phải bày sách lược cho
dân; Phải đoàn kết toàn dân “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc
của một hai người”; Phải biết tổ chức dân chúng lại; Phải giành chính quyền bằng bạo lực
cách mạng của quần chúng, phải biết chọn thời cơ.
Về Đảng Cộng sản, Đảng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo cho sự thắng lợi của
cách mệnh. “Đảng có vững cách mệnh mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững
thuyền mới chạy”. Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải theo chủ nghĩa Mác - Lênin. “Đảng
mà khơng có chủ nghĩa cũng như người khơng có trí khơn, tàu khơng có bàn chỉ nam. Bây
giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất,
cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”
Tác phẩm truyền tải nhiệt huyết cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh thần
yêu nước, triệt để cách mạng của Người cho các thế hệ cán bộ, đảng viên ngày nay.
Nghiên cứu thật kỹ lưỡng tác phẩm sẽ tiếp tục làm sáng tỏ phương pháp cách mạng
nói chung và phương pháp cơng tác tư tưởng nói riêng. Đó là, trước hết phải làm tốt cơng
tác giáo dục lý luận cách mạng, sau đó phải tuyên truyền, vận động để biến thành hành
động cách mạng.
Tác phẩm củng cố, vun đắp ý chí cách mạng, kiên trì đường lối cách mạng Việt
Nam.

Tiếp tục khẳng định tư cách người cách mệnh; có lý tưởng, có đạo đức trong sáng,
góp phần phịng, chống suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận
cán bộ, đảng viên, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng và các Nghị quyết Trung ương, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 4 “Một số vấn
đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”.

12


3. Kết luận
“Tư cách của một người cách mệnh” là phác thảo cơ bản, đầu tiên hoàn chỉnh về
đạo đức để người cách mạng có đủ uy tín tập hợp và lãnh đạo quần chúng. Đó là sự kết
hợp nhuần nhuyễn giữa tinh thần cách mạng tiên tiến, triệt để của giai cấp công nhân và
truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam đã được hun đúc qua hàng ngàn năm
dựng nước và giữ nước.
Những quan điểm của Hồ Chí Minh trong “Tư cách một người cách mệnh” là
những yêu cầu trong công tác giáo dục, rèn luyện, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên;
đồng thời, là tiêu chí cơ bản trong đánh giá chất lượng đảng viên.
Quán triệt tư tưởng của Người, mỗi đảng viên dù ở bất cứ đâu, đảm nhiệm bất cứ
nhiệm vụ gì trong bộ máy của Đảng, Nhà nước và đồn thể chính trị-xã hội đều phải ra
sức nâng cao bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ, trình độ tổ chức, nhiệt tình, trách nhiệm
và đạo đức của người cộng sản để đủ sức lãnh đạo quần chúng, truyền ngọn lửa nhiệt tình
cách mạng cho quần chúng; đồng thời, khơng bao giờ được quên rằng: ý chí, bản lĩnh, tài
năng chỉ có thể nảy nở và trở thành tấm gương sáng khi nó được xây dựng trên nền tảng
đạo đức cách mạng.
Và những nội dung cơ bản mà "Đường cách mệnh" đề ra luôn luôn là kim chỉ nam,
là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác
trong những năm đấu tranh giành chính quyền, trong hai cuộc trường chinh chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, trong những năm cả nước cùng đi lên chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là trong những năm

tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, vì một nước Việt Nam "dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh".
Được viết ngắn gọn, súc tích; nhưng cụ thể, rõ ràng, dễ hiểu, sau 90 năm, tác phẩm
"Đường cách mệnh" vừa có ý nghĩa lịch sử trọng đại, vừa có giá trị thời sự to lớn. Chúng
ta nói một cách chắc chắn rằng, để có một nước Việt Nam XHCN hồ bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ và giàu mạnh, đang ngày càng phát triển và hội nhập sâu rộng vào cộng
đồng quốc tế như hiện nay, cách mạng Việt Nam, tuy phải trải qua nhiều khúc quanh của
lịch sử, nhưng hằng số đạt được vẫn là những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước, vẫn một lòng kiên định con đường mà nhân dân ta đã lựa chọn: độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là do chúng ta có "Đường cách mệnh" của Hồ Chí Minh
soi đường và chỉ lối.
Hồ Chí Minh là một vị anh hùng dân tộc vĩ đại, một người thầy thiên tài của cách
mạng Việt Nam. Người là tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa
Mac-Lênin một cách tự chủ và sáng tạo. Tên tuổi và sự nghiệp Hồ Chí Minh đã thực sự là
ngọn cờ trong khối óc và trái tim của người Việt Nam. tư tưởng Hồ Chí Minh khơng khép
kín, khơng nhất thành bất biến mà luôn phát triển với dân tộc và thế giơi. Ngày nay, khi
13


đất nước ta đang bước vào con đường công nghiệp hóa – hiện đại hóa, có rất nhiều vấn đề
mới đặt ra cần được giai quyết. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu về nguồn gốc và sự hình
thành tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng vào thực tế cuộc sống trở thành nhiệm vụ quan
trong cấp bách của toàn Đảng, toàn dân ta. Tư tưởng của Ngươi đã, đang và sẽ mãi mãi là
chân lý sáng ngời, góp phần vào sự kiến tạo và phát triển của nhân loại.

14


4. Danh mục tài liệu tham khảo
_ Hướng dẫn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh Nhà xuất bản Văn

hóa- Thơng tin
_ Sách MƠN HỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (Trường đại học Điện Lực)

15



×