LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với xu hướng phát triển kinh tế thị trường trên thế giới bất kỳ một nước nào
đều phải có quan hệ mua bán , giao dịch , cho vay , thu nợ , đầu tư vốn với các nước khác
. Thực hiện các mối quan hệ trên đã dẫn đến hình thành các quan hệ về tiền tệ , tài chính
quốc tế .
Ngày nay các quan hệ tài chính , tiền tệ quốc tế đã trở thành một yếu tố không thể
thiếu được trong hoạt động của nền kinh tế & ngày càng đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế thị trường . Kết quả thực hiện các mối quan hệ trên hình thành các khoản thu
chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau . Để thực hiện tốt các khoản thu chi tiền tệ
quốc tế cần thiết phải thông qua những tổ chức trung gian đó là các ngân hàng thương
mại . Quá trình thực hiện các khoản thu chi tiền tệ quốc tế giữa các nước với nhau nhất
thiết phải sử dụng tiền tệ nước này hay nước khác , nói chung là ngoại tệ . Chính vì điều
này đã làm cho nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng trở nên quan trọng & và
không thể thiếu trong kinh doanh của ngân hàng
Bên cạnh đó kinh doanh mua bán ngoại tệ là một nghiệp vụ đem lại lợi nhuận cho
NH , đồng thời đadạng hóa được ngoại hình kinh doanh , nâng cao chất liệu trong việc
cung cấp dịch vụ đối với khách hàng .
Chính vì tầm quan trọng của loại hình kinh doanh này & sau quá trình thực tập ,
tìm hiểu tham khảo nên trong chuyên đề này em xin được phép trinhf bày & phân tích về
tình hình kinh doanh ngoại tệ trong một ngân hàng .
Được sự cho phép của Ngân hàng N
o
&PTNT thành phố Đà Nẵng cộng với sự giúp đỡ
của các anh chị trong phòng kinh tế đối ngoại . Bên cạnh đó dưới sự hướng dẫn tận tình
của thầy giáo tiến sĩ Nguyễn Văn Lê chuyên đề đã được hoàn thành với 3 phần :
Phần I : Tổng Quan Về Hoạt Động Kinh Doanh Ngoại Tệ Của NHTM
Phần II : Phân Tích Tình Hình Mua Bán Ngoại Tệ NHN
o
&PTNT Thành Ph
ố
ĐN Giai Đoạn 2002-2003 .
Phần III Tổng Hợp Đánh Giá Quá Trình Kinh Doanh & Những Ý Kiến Đề Xuất .
Do năng lực bản thân còn hạn chế nên chuyên đề này vẫn còn nhiều sai sót . Em
rất mong nhận được những ý kiến đóng góp , chỉ dẫn để chuyên đề được hoàn thiện hơn
& làm kinh nghiệm cho bản thân .
Em xin chân thành cảm ơn !
PHẦN I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ INH
DOANH NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
I . NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NGHIỆP VỤ
KINH DOANH NGOẠI TỆ.
1 . Ngân Hàng Thương Mại :
1.1 Khái niệm :
Theo luật các tổ chức tín dụng ban hành ngày 12.12.1997 thì Ngân Hàng Thương Mại là
một tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động Ngân Hàng & các hoạt động kinh
doanh khác có liên quan .
Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân Hàng với nội
dung chủ yếu , thường xuyên là nhận tiền gởi , sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và
cung cấp các dịch vụ thanh toán
1.2 Đặc điểm về hoạt động kinh doanh
+ Vốn bằng tiền vừa là phương tiện kinh doanh , vừa là mục đích kinh doanh và đồng
thời cũng là đối tượng kinh doanh
+ Sử dụng vốn của người khác để kinh doanh là chủ yếu và hoạt động kinh doanh
trên nhiều lĩnh vực và ngành nghề khác nhau
+ Một trong những sản phẩm chủ yếu của ngân hàng là tín dụng
+ Giữa các sản phẩm của ngân hàng có mối liên hệ chặt chẽ mang tính liên đới , hoặc
bổ sung hoặc thay thế
+ Hoạt động thống nhất trong hệ thống , giữa các ngân hàng có quan hệ chặt chẽ trong
kinh doanh , vừa phải cạnh tranh , vừa phải liên kết .
+ v v…
1.3 Các nghiệp vụ chủ yếu của Ngân Hàng Thương Mại (NHTM)
- Nghiệp vụ huy động vốn :
+ Vốn huy động là vốn của các chủ sỡ hữu khác nhau trong xã hội được Ngân
Hàng huy động với trách nhiệm hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo đúng thỏa thuận . Vốn
huy động chiếm tỷ trọng lớn trong tổng ngưồn vốn của Ngân Hàng
Vốn huy động của các NHTM được phân làm 3 nhóm như sau :
+ Vốn huy động từ tiền gởi : đây là hình thức huy động thường xuyên của ngân
hàng . Căn cứ theo đối tượng tiền gởi người ta chia thành :
Tiền gởi của các tổ chức kinh tế
Tiền gởi của các tổ chức tín dụng
Tiền gởi của kho bạc nhà nước
Tiền gởi của cá nhân
Vốn huy động từ phát hành giấy tờ có giá : Đây là một dạng huy động không thường
xuyên , NH chỉ huy động khi thiếu vốn , bao gồm : chứng chỉ tiền gởi ngắn hạn (kỳ
phiếu) và chứng chỉ tiền gửi dài hạn (trái phiếu NH)
Vốn huy động từ đi vay
Bao gồm : + Vay NH nhà nước
+ Vay các tổ chức tín dụng
- Nghiệp vụ cho vay :
Đây là nghiệp vụ đặc trưng nhất của NHTM , sử dụng phần lớn nguồn vốn của
NH , tạo ra thu nhập chủ yếu cho NH và đồng thời cũng hàm chứa khả năng rủi ro lớn .
Căn cứ vào thời hạn cho vay thì nghiệp vụ cho vay của NH có thể chia thành :
. Cho vay ngắn hạn : Thời hạn dưới 1 năm
. Cho vay trung hạn : Thời hạn từ 1 đến 5 năm
. Cho vay dài hạn : Thời hạn trên 5 năm
- Các nghiệp vụ khác
+ Nghiệp vụ thanh toán trung gian : Đây là nghiệp vụ chủ yếu thường xuyên nhất
của một NHTM
+ Nghiệp vụ bảo lãnh (Bảo lãnh tín dụng , mở L/C) nghiệp vụ này không sử dụng
nhiều vốn của NH nhưng đem lại thu nhập rất lớn cho NH .
+ Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ : Là một trong những nghiệp vụ kinh doanh đem lại
cho NH nhiều lợi nhuận . Mục đích của hoạt động mua bán ngoại tệ là để đáp ứng nhu
cầu về ngoại tệ của khách hàng một cách nhanh chóng và thuận lợi nhất , nâng cao chất
lượng trong việc cung cấp dịch vụ đối với khách hàng , thu lợi nhuận từ chênh lệch tỷ giá
mua bán .
2 . Các Nghiệp Vụ Mua Bán Ngoại Tệ :
2.1 Nghiệp vụ mua bán giao ngay (spot)
Nghiệp vụ mua bán giao ngay là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ mà việc giao
ngoại tệ được thực hiện ngay hay chậm nhất là trong vòng hai ngày làm việc kể
từ khi hợp đồng mua bán ngoại tệ được ký kết trên cở sở tỷ giá giao ngay .
Trong nghiệp vụ , thời gian tối đa để hoàn tất nghiệp vụ là 2 ngày làm việc . Sở dĩ
có 2 ngày làm việc là do thông lệ quốc tế trong mua bán ngoại hối thì 2 ngày làm việc là
khoản thời gian cần thiết để thực hiện các bút toán chuyển tiền giữa các ngân hàng
Để tiến hành nghiệp vụ hối đoái giao ngay , các nhà kinh doanh hối đoái phải
xác định tỷ giá chéo phù hợp với yêu cầu giao dịch , sau đó trên cơ sở tỷ giá
này kết hợp với lượng ngoại tệ giao dịch để xác định số đối khoản cần phải
trao đổi với nhau giữa 2 bên mua bán vào ngày hiệu lực thông thường
2.2 Nghiệp vụ chuyển hối :
Arbitrage là một kỹ thuật nghiệp vụ rút ra từ nghiệp vụ hối đoái giao ngay . Kỹ
thuật này nhằm giao dịch trực tiếp ngoại tệ với ngoại tệ mà không thông qua b tệ . Để tiến
hành nghiệp vụ này người kinh doanh cần phải xác định rõ :
+ Những tỷ giá chéo cần được xác định ?
+ Trị giá khoản tiền cần được áp dụng là bao nhiêu ?
+ Nếu còn dư thì giải quyết theo tỷ gia nào ?
+ Có lợi hơn so với việc xác định tỷ giá thông qua bản ngoại tệ không ?
Thực chất của kỹ thuật Arbitrage là tận dụng sự chênh lệch giữa tỷ giá của các ngoại tệ là
khác nhau để tiến hành giao dịch trực tiếp ngoại tệ với nhau . Người ta chỉ giao dịch qua
bản tệ đối với bộ phận ngoại tệ dư (hoặc thiếu) mà thôi .
Có 2 loại Arbitrage
+ Chuyển hối thông thường : là nghiệp vụ mua bán ngoại tệ để chuyển từ đồng
tiền này sang đồng tiền khác .
+ Chuyển hối đầu cơ hay còn gọi là nghiệp vụ kinh doanh chênh lệch tỷ giá .
Thực chất là lợi dụng sự chênh lệch giá của đồng tiền trên những thị trường khác nhau để
kiếm lời.
2.3 Nghiệp vụ mua bán có kỳ hạn .(Forward)
* Nghiệp vụ hối đoái có kỳ hạn là nghiệp vụ biểu hiện bằng một hợp đồng giữa một
bên là ngân hàng và một đối tác khác nhằm đổi một loại tiền này lấy một loại tiền khác
tại một thời điểm khác trong tương lai nhưng các dữ kiện như tỷ giá , loại tiền , số lượng
, ngày hiệu lực đều đã được hai bên xác định cụ thể vào lúc k hợp đồng
Hợp đồng kỳ hạn có ưu điểm là đáp ứng được của cả hai bên về quy mô giao dịch
lẫn ngày tiến hành hoán đổi . Nhưng nhược điểm của loại hợp đồng này là không được
hủy bỏ đơn phương . Do vậy đây không phải là hợp đồng mang tính linh hoạt và dễ bán
* Tỷ giá trên thị trường có kỳ hạn được xác định căn cứ trên cung và cầu của ngoại tệ
trái với tỷ giá hối đoái trao ngay , không có dự định giá cho giao dịch có kỳ hạn . Tỷ giá
có kỳ hạn được xác định ngay khi thỏa thuận , dựa vào tỷ giá giao ngay về các đồng tiền
đó trừ đi hay cộng thêm vào phần chênh lệch giữa lãi đi vay phải trả và lãi cho vay sẽ
nhận được trên số ngày cụ thể của kỳ hạn .
Nếu gọi ký hiệu :
x
*
: Tiền gởi có kỳ hạn
x : Tỷ giá giao ngay
m : Tỷ giá mua
b : Tỷ giá bán
n : Số ngày
t : Lãi suất (% năm)
1 : Đồng tiền yết giá
2 : Đồng tiền định giá
v : Vay
cv : Cho vay
t
1
v
: Lãi suất đi vay của đồng tiền yết giá
t
2
cv
: Lãi suất cho vay của đồng tiền định giá
Tính x
m
*
(Tiền gởi mua có kỳ hạn) A/B
Giả sử 1 công ty có 1 đơn vị tiền tệ A sau n ngày nữa
Ký hợp đồng n +1A
Công ty đến NH bán có kỳ hạn n ngày 1 đơn vị A lấy B . NH đồng ý mua theo tỷ giá mua
có kỳ hạn ngày (x
m
*
)
3 giao dịch cùng thực hiện một lúc
Công ty sẽ đi vay 1 số tiền XA để sao cho sau n ngày với lãi suất t
1
cv
, công ty
sẽ trả vốn gốc và lãi đúng bằng 1 đơn vị tiền tệ A
Công ty sẽ bán XA để lấy đồng tiền B theo x
m
. Công ty được
Công ty cho vay lượng tiền B có được trong n ngày với lãi suất
1A Trả nợ & lãi vay
Chênh lệch TG mua có kỳ hạn với TG mua giao ngay
Ngược lại hoàn toàn với trên ta cũng tính được:
Với nghiệp vụ này nhà kinh doanh có thể tính toán trước hiệu quả kinh tế của từng
nghiệp vụ đồng thời tránh được rủi ro do sự biến động tỷ giá .
2.4 Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (swap)
Nghiệp vụ swap là một nghiệp vụ kết hợp đồng thời giữa các giao dịch mua (bán)
ngoại tệ giao ngay với các giao dịch bán (mua) ngoại tệ có kỳ hạn cho cùng một khoản
ngoại tệ nhất định
Swap : Spot : mua Với cùng 1 lượng
Forward : bán ngoại tệ
Swap : Spot : bán Với cùng 1 lượng
Forward : mua ngoại tệ
Nghiệp vụ swap có thể đáp ứng nhu cầu đầu tư kinh doanh bằng các lại ngoại tệ
khác nhau cho các nhà kinh doanh , nhưng vẫn tránh được rủi ro do sự biến động của tỷ
giá hối đoái và đảm bảo một mức lợi nhuận dự kiến tối đa
Với các ngân hàng thì nghiệp vụ swap thường được sử dụng để kiếm lợi nhuận và
bảo toàn vốn
Tính chất của swap được xem như là vay đồng thời . Ngân quỹ của ngân hàng và
khách hàng (ngân hàng khác , công ty ) đều không thay đổi . Phần chênh lệch khi thanh
toán là do sự chênh lệch của lãi suất .
2.5 Nghiệp vụ mua bán quyền chọn (option transaction)
Option ngoại tệ là hợp đồng cho phép người mua quyền nhưng không bắc buộc
, được mua bán một số lượng ngoại tệ nhất định ở một mức giá xác định trong
(vào) một thời gian xác định trước .
Có hai loại quyền chọn:
Quyền chọn mua (call option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người
mua nó có quyền, nhưng không bắt buộc được mua một số lượng ngoại tệ nhất định ở
một mức giá xác định vào một thời gian được xác định trong tương lai .
Quyền chọn bán (put option): là hợp đồng quyền chọn cho phép người mua
nó có quyền nhưng không bắt buộc được bán một số lượng ngoại tệ nhất định ở một mức
giá xác định vào một khoảng thời gian được xác định trước trong tương lai .
Có 2 kiểu quyền chọn :
Quyền chọn kiểu châu Âu: chỉ cho phép người mua quyền sử dụng quyền
của mình trong một ngày nhất định
Quyền chọn kiểu Mỹ: cho phép người mua quyền được sử dụng quyền
trong khoảng thời gian hiệu lực của hợp đồng
Hợp đồng option ngoại tệ cho phép người mua quyền giới hạn tối đa thiệt hại
của mình nếu tỷ giá không tăng như dự đoán . Nhưng đối với người bán thì
không giới hạn được tổn thất nếu xảy ra rủi ro về tỷ giá .
3 . Các Rủi Ro Có Thể Trong Kinh Doanh Ngoại Tệ :
Những rủi ro trong kinh doanh ngoại hối là :
+ Rủi ro về tỷ giá hối đoái
+ Rủi ro về tỷ lệ Swap
+ Rủi ro thực hiện hợp đồng
+ Rủi ro nghiệp vụ và chuyển đổi
Trong số các trường hợp nêu trên chỉ có rủi ro tỷ giá là rủi ro đặc trưng cho kinh
doanh ngoại hối . Còn các rủi ro khác cũng xuất hiện trong các nghiệp vụ khác của ngân
hàng đặc biệt là rủi ro thực hiện và rủi ro tỉ kệ Swap (rủi ro lãi suất) . Nhưng rủi ro trong
chuyển đổi cũng quan trọng không chỉ trong kinh doanh ngoại hối . Đương nhiên những
rủi ro vừa nêu trên có ý nghĩa quan trọng trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối hơn là
những nghiệp vụ ngân hàng khác , vì những ngân hàng kinh doanh ngoại hối phụ thuộc
một phần vào sự phát triển ở nước ngoài và như vậy , khó tập hợp và khó kiểm tra hơn là
những rủi ro tương ứng ở trong nước .
3.1 Rủi ro tỷ giá hối đoái
Rủi ro tỷ giá hối đoái là sự rủi ro có ý nghĩa rộng lớn của nghiệp vụ kinh doanh
ngoại hối . Nó sẽ xuất hiện , nếu một “vị thế” được tạo ra , ví dụ : một ngân hàng mua
của một khách hàng hay của một ngân hàng khác một lượng USD với tỷ giá nào đó , thì
cho đến lúc bán lại khối lượng này , ngân hàng mới hết lo lắng về rủi ro tỷ giá . Rủi ro chỉ
tồn tại trong khoảng thời gian mà “vị thế” này tồn tại , nhưng nó cũng quan trọng ngay cả
khi khoảng thời gian giữa lúc hình thành và khóa sổ “vị thế” này , thậm chí chỉ trong
vòng một phút .
Khi chỉ có một biến động nhỏ về tỷ giá thì điều đó , đã dẫn đến hậu quả của một
thất thoát lớn , nếu khối lượng ngoại tệ kinh doanh nhiều . Nếu tỷ giá USD , khi bán ra
giảm xuống thì ngân hàng này sẽ thiệt hại . Nếu giả sử , ngân hàng vẫn giữ khoảng này
thêm qua đêm thì rủi ro còn lớn hơn nữa . Mối nguy hiểm và thiệt hại này không hề phụ
thuộc vào hệ thống tỷ giá hối đoái , tức là bất kể đồng tiền này được thả nổi hay theo tỷ
giá hối đoái cố định . Thật ra , biến động hàng ngày của tỷ giá đồng USD đã mở rộng
nhiều trong giai đoạn chuyển sang cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi , thế nhưng trong hệ
thống tỷ giá hối đoái cố định lại có rủi ro khác , đó là tăng hoặc giảm giá trị hối đoái của
đồng tiền .
Nhằm tránh thất thoát quá mức , từ lâu các ngân hàng đã áp dụng hạn mức hình
thành các “vị thế” cho các phòng kinh doanh ngoại hối . Mức độ của giới hạn này phụ
thuộc vào doanh số hoạt động của ngân hàng , khả năng chấp nhận rủi ro và lòng tin vào
khả năng kinh doanh của người điều hành kinh doanh ngoại hối.
3.2 Rủi ro tỷ lệ swap .
Rủi ro tỷ lệ Swap trở nên quan trọng , nếu “vị thế” thời hạn với khối lượng kinh
doanh đã thỏa thuận xong . Nhưng thời hạn thanh toán thì chưa chấm dứt . Nếu , ví dụ
một ngân hàng mua 5 triệu USD theo 3 tháng và bán theo thời hạn 4 tháng , thì 2 khoản
này về giá trị là bằng nhau nhưng thời hạn thì lại không đồng nhất . Điều đó có nghĩa là ,
ở đây không có rủi ro về tỷ giá , nhưng lại có rủi ro về tỉ lệ Swap , tức rủi ro sẽ nảy sinh
vào cuối tháng 3 , nếu “vị thế” này được hình thành qua thực hiện một nghiệp vụ Swap
mà tỉ lệ Swap lại phát triển không thuận lợi .
Rủi ro tỉ lệ Swap có ý nghĩa , một mặt trong nghiệp vụ ác-bít về tỷ giá thời hạn về
mặt khác , là trong nghiệp vụ khách hàng . Trong giao lưu với khách hàng , các ngân
hàng thường phải ký kết các nghiệp vụ thời hạn với thời hạn “vòng” , tức là những thời
hạn mà lúc đó , thị trường không hoạt động . Sau đó các ngân hàng ký thực hiện nghiệp
vụ đối ứng với thời hạn tiếp theo trong thị trường và khắc phục những bất đồng về thời
điểm , bằng cách ký các hợp đồng Swap ngắn hạn và luân chuyển (ví dụ Swap theo ngày)
Khi hạch toán , các ngân hàng thường căn cứ vào tình hình lức ký kết nghiệp vụ
thời hạn . Theo nguyên tắc , các ngân hàng cũng dự tính một khoảng an toàn nhất định ,
nhưng khi xét đến góc độ cạnh tranh , ngân hàng không thể dự tính khoảng an toàn lớn
được .
3.3 Rủi ro thực hiện :
Với mỗi một nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối do ngân hàng ký kết , luôn xuất hiện
rủi ro do bên đối tác không thực hiện trách nhiệm của họ và hậu quả là hoạt động này sẽ
kết thúc bằng lỗ . Giả sử một ngân hàng bán cho một khách hàng hay một ngân hàng
khác 5 triệu với tỷ giá USD/DEM là 2,8005 và mua lượng này từ một ngân hàng khác
theo tỉ giá USD/DEM là 2,8 . Sau khi đã ký kết hợp đồng với người mua thì người mua bị
phá sản và không thể thực hiện được trách nhiệm của mình . Tỉ giá của USD/DEM trên
thị trường lại hạ xuống còng 2,75 . Ngân hàng đã mua 5 triệu USD theo tỉ giá 2,8 nhưng
không bán tiếp theo tỉ giá này được và phải chịu một khoản lỗ là 250.000 DEM , mà
không thể xem chỉ với lượng này cũng có thể làm cho ngân hàng bị phá sản . Nhưng trên
nguyên tắc , ngân hàng chỉ phải trả lại một phần .
Rủi ro thực hiện trong nghiệp vụ có thời hạn lớn hơn là nghiệp vụ giao ngay do
thời gian thực hiện dài . Điều này xảy ra không chỉ trong giao dịch chuyển đổi với khách
hàng mà cả với các ngân hàng khác . Trong giao dịch với các ngân hàng , rủi ro xuất hiện
ở dạng “ngoại tệ bù trừ rủi ro” , có một phạm vi lớn hơn so với nghiệp vụ với khách hàng
. Vì trong nghiệp vụ kinh doanh ngoại hối giữa các ngân hàng , hai hoạt động , mua và
bán được thực hiện ở các địa điểm khác nhau , nên hai đối tác trong hợp đồng khi phân
chia nhiệm vụ thanh toán không biết được liệu bạn hàng có thực hiện trách nhiệm của họ
hay không .
Như vậy , rủi ro thực hiện phụ thuộc vào uy tín thanh toán của bạn hàng , người ta
thường gọi rủi ro này là rủi ro uy tín thanh toán hoặc rủi ro mất địa chỉ .
Các ngân hàng xử lý vấn đề rủi ro thực hiện này (tức là rủi ro uy tín và khả năng
thanh toán) bằng cách chọn lựa kỹ bạn hàng , quy định hạn mức song phương cho khối
lượng ngoại hối giao dịch , cũng như trong giao lưu với khách hàng đòi hỏi một khoản
bảo hiểm theo tỷ lệ phần trăm nhất định thường là 20% so với doanh số giao dịch trong
hợp đồng.
3.4 Rủi ro kinh doanh .
Kinh doanh ngoại hối trong nghĩa rộng , bao gồm cả rủi ro thuộc chính bản thân
hoạt động kinh doanh , tức là chi phí liên quan đến hoạt động kinh doanh này không thể
bù đắp đủ bằng doanh thu . Trên nguyên tắc , các giao dịch thường có thu nhập cao và
những chi phí cho thiết bị văn phòng thường lớn , tức là những chi phí cho “back office” ,
những chi phí tất toán nghiệp vụ và giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh ngoại tệ .
Nếu không có nhiều khách hàng giao dịch và hoạt động đầu cơ , hay hoạt động ác-bít
không suôn sẻ thì ngân hàng giao dịch này có thể sẽ phải gánh chịu tổn phí rất tốn kém
cho hoạt động này .
II . THỊ TRƯỜNG NGOẠI TỆ LIÊN NGÂN HÀNG & CÁC NHÂN TỐ ẢNH
HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NGOẠI TỆ CỦA NGÂN HÀNG.
1. Thị Trường Ngoại Tệ Liên Ngân Hàng .
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng thuộc ngân hàng Nhà nước Việt Nam được
chính thức thành lập từ ngày 20/9/1994
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do ngân hàng Nhà nước (NHNN) tổ chức và
điều hành , nhằm hình thành thị trường mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân hàng
thương mại với nhau , làm cơ sở cho việc ra đời thị trường hối đoái hoàn chỉnh ở Việt
Nam .
Các thàn viên tham gia vào thị trường ngoại tệ liên ngân hàng phải là hội sở chính
của các tổ chức tín dụng được phép kinh danh ngoại tệ , có hệ thống thông tin nội bộ nối
mạng với NHNN Việt Nam . Và cuối cùng để trở thành thành viên của thị trường này thì
cần phải có giấy phép tham gia do thống đốc NHNN cấp . Đối với các tổ chức khác chưa
có giấy phép thì không được quyền tham gia trực tiếp . mà chỉ gián tiếp tham gia thông
qua ngân hàng phục vụ cho mình .
Hiện nay, các thàn viên được tham gia vào thị trường này bao gồm : Ngân hàng
thương mại quốc doanh , ngân hàng đầu tư và phát triển , ngân hàng thương phần , chi
nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động ở Việt Nam , ngân hàng liên doanh giữa ngân
hàng Việt Nam với ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam , ngân hàng nhà nước
Việt Nam .
Phương thức giao dịch trên thị trường ngoai tệ liên ngân hàng được thực hiện bằng
một trong các phương tiện sau : điện thoại , telex , fax hay qua mạng vi tính .
Đồng tiền giao dịch bao gồm : USD , EUR , GBP , JPY , HKD , VND
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ bao gồm 3 loại sau :
+ Nghiệp vụ giao ngay – SPOT
+ Nghiệp vu có kỳ hạn – FORWARD
+ Nghiệp vụ hoán đổi – SWAP
Tỷ giá giao dịch được thực hiện trên cơ sở tỷ giá chính thức của NHNN và biên độ
do thống đốc NHNN quy định . Trên cơ sở này , giám đốc sở giao dịch NHNN quy định
tỷ giá mua , bán cỉa NHNN với các thành viên của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng .
Mọi việc thanh toán đều thông qua phương thức thanh toán chuyển khoản qua các
tài khoản của các thành viên mở tại NHNN hoặc tại ngân hàng nước ngoài
Việc mua bán thị trường được thực hiện theo các nguyên tắc sau :
+ Các ngân hàng thương mại được thực hiện mua bán ngoại tệ với các khách
hàng của mình theo quy chế hiện hành . Việc cân đối cung cầu ngoại tệ trong toàn hệ
thống được thực hiện thông qua hội sở chính của từng ngân hàng thương mại .
+ Trường hợp ngân hàng thương mại không tự cân đối được cung cầu ngoại tệ
trong hệ thống của mình , thì các ngân hàng thương mại thực hiện mua bán với nhau .
+ Nếu các ngân hàng thương mại đã thực hiện mua bán với nhau nhưng vẫn chưa
cân đối được nhu cầu ngoại tệ , thì ngân hàng thương mại sẽ giao dịch với ngân hàng Nhà
nước . Khi cung lớn hơn cầu ngoại tệ NHNN sẽ tiến hành việc mua bán ngoại tệ nhằm
cân đối cung cầu ngoại tệ và làm tăng quỹ điều hòa ngoại tệ của nhà nước . Ngược lại
nếu cung nhỏ hơn cầu , NHNN sẽ sử dụng quỹ điều hòa ngoại tệ để bán ra .
Nhờ vậy , trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng . NHNN thực hiên vai trò là
người mua , người bán cuối cùng để can thiệp vào thị trường một cách có hiệu quả , có
nhằm thực hiện chính sách tiền tệ , tỷ giá của Nhà nước .
Trong những năm qua , hoạt động của thị trường ngoại tệ liên ngân hàng Việt
Nam đã được những kết quả đáng ghi nhận . Nó đã đáp ứng được một phần nhu cầu
ngoại tệ cho nhập khẩu , góp phần ổn định tỷ giá , khuyến khích xuất khẩu . Tuy nhiên thị
trường ngoại tệ liên ngân hàng của Việt Nam còn rất nhiều hạn chế như : các nghiệp vụ
giao dịch còn đơn giản , chủng ngoại tệ còn ít , chưa phản ánh được thực trạng tổng cung
, tổng cầu ngoại tệ trong nền kinh tế . Tóm lại , thị trường ngoại tệ liên ngân hàng chỉ mới
là tiền thân của thị trường ngoại hối ở Việt Nam .
2 . Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Hoạt Động Mua Bán Ngoại Tệ Của Ngân Hàng .
Nghiệp vụ mua bán ngoại tệ của ngân hàng có rất nhiều rủi ro . Bản thân ngoại tệ
cũng luôn tiềm ẩn nhiều biến động , nên hoạt động kinh doanh ngoại tệ chịu ảnh hưởng
của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan như : Tỷ giá , nhu cầu ngoại tệ của doanh
nghiệp , tâm lý , hoạt động xuất nhập khẩu , lãi suất của đồng ngoại tệ , chính sách quản
lý ngoại hối , lượng ngoại tệ dự trữ , tính cạnh tranh v v…
- Hoạt động mua bán ngoại tệ luôn gắn liền với vấn đề tỷ giá . Có thể xem tỷ giá là
yếu tố đầu tiên tác động trực tiếp đến hoạt động mua bán ngoại tệ của chi nhánh . Nếu tỷ
giá có xu hướng tăng (đồng ngoại tệ lên giá) thì cung ngoại tệ sẽ nhỏ hơn cầu ngoại tệ .
Bởi vì ai cũng muốn mua ngoại tệ sớm và người có ngoại tệ lại không muốn mua bán
sớm , do vậy hoạt động mua ngoại tệ trở nên khó khăn . Ngược lại , khi tỷ giá hối đoái
giảm (đồng ngoại tệ xuống giá) thì hoạt động mua ngoại tệ của ngân hàng sẽ trở nên dễ
dàng hơn và hoạt động mua bán ngoại tệ trở nên khó khăn .
- Nhu cầu ngoại tệ của doanh nghiệp : phần lớn hoạt động mua bán ngoại tệ của
ngân hàng là phục vụ cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu . Hoạt động xuất nhập khẩu
của các doanh nghiệp này thường có tính thời vụ cao , nên hoạt động mua bán ngoại tệ
của ngân hàng cũng ít nhiều có tính thời vụ
- Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh ngoại tệ mà ngân
hàng không thể kiểm soát được , đó là yếu tố tâm lý . Nếu trước đây người dân Việt Nam
thường dùng vàng làm phương tiện cất trữ thì ngày nay người ta thường thích cất trữ
bằng ngoại tệ mạnh (đặc biệt là USD) hơn là trữ vàng . Do vậy , khi có một điều bất
thường xảy ra (như khủng bố , chiến tranh , thiên tai …) làm cho tỷ giá biến động thì họ
thường hành động theo số đông , cùng bán ra hoặc cùng mua vào ngoại tệ . Điều này ảnh
hưởng không nhỏ đến hoạt động mua bán ngoại tệ của các ngân hàng . Mặt khác , người
dân Việt Nam vẫn còn thói quen giao dịch mua bán ngoại tệ trên thị trường tự do , nên
hoạt động kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng cũng phần nào bị ảnh hưởng .
- Hoạt động mua bán ngoại tệ còn bị quản lý , kiểm soát chặt chẽ bởi cở chế
quản lý ngoại hối do Nhà nước ban hành . Đồng thời các chi nhánh ngân hàng còn phải
tuân theo quy định về trạng thái ngoại tệ hằng ngày của ngân hàng trung ương .
PHẦN II HÂN TÍCH TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG MUA BÁN NGOẠI TỆ
NGÂN HÀNG N
o
& PTNT ĐÀ NẴNG GIAI ĐOẠN 2002 – 2003
I. TÌNH HÌNH KINH TẾ THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG SAU 5 NĂM
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN (1997 - 2002 ).
Sau 5 năm trở thành đơn vị trực thuộc Trung ương, tình hình kinh tế - xã hội Thành
phố Đà Nẵng có sự chuyển biến rõ rệt, thể hiện:
- Tổng sản phẩm xã hội trên địa bàn ( GDP ) thời kỳ 1997 – 2001 tăng bình quân
10,09%/năm. Năm 1998 đạt 8,80%; năm 1999 đạt 9,50%; năm 2000 đạt 9,88%; năm
2001, năm đầu tiên thực hiện kế hoạch 5 năm 2001 – 2005, trong tình hình có nhiều khó
khăn, nền kinh tế thành phố tiếp tục ổn định và phát triển với tốc độ tăng trưởng đạt
12,2%. GDP bình quân đầu người năm 2001 đạt 550 USD tăng 10,37% so với năm 1997.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ trọng ngành Công nghiệp tăng
từ 35,31% năm 1997 lên 42% năm 2001; ngành Dịch vụ giảm từ 54,99% năm 1997
xuống còn 50,71% năm 2001; ngành Nông nghiệp giảm từ 9,70% năm 1997 xuống còn
7,28% năm 2001.
- Giá trị sản xuất Công nghiệp trên địa bàn tăng bình quân hàng năm 19,74%, trong
đó Công nghiệp địa phương tăng 11,94%. Đặc biệt năm 2001, Công nghiệp trên địa bàn
Thành phố tăng trưởng khá, đạt giá trị sản xuất toàn ngành 4.037,78 tỷ đồng, vượt 3,83%
kế hoạch năm, tăng 19,89% so với năm 2000. Khu vực Công nghiệp quốc doanh địa
phương, Công nghiệp dân doanh tăng trưởng khá ( Công nghiệp quốc doanh địa phương
tăng 29,17%, Công nghiệp dân doanh tăng 18,40%).
- Giá trị sản xuất Thuỷ sản – Nông lâm tăng bình quân hàng năm trong thời kỳ 1997
– 2001 là 5,76%, trong đó thuỷ sản tăng 13,37%. Năm 2001, ngành Thuỷ sản – Nông lâm
đạt giá trị sản lượng 526,2 tỷ đồng, vượt 6,3% kế hoạch năm, tăng hơn 5% so với năm
2000. Sản lượng hải sản khai thác năm 2001 đạt 30.480 tấn, tăng 10,2% so với năm 2000.
Thành phố hiện có trên 2000 tàu thuyền các loại với tổng công suất trên 6000 CV. Dự án
đánh bắt xa bờ đang phát huy được tác dụng. Việc nuôi trồng thuỷ sản, nhất là nuôi tôm
công nghiệp có kết quả bước đầu.
- Giá trị sản xuất các ngành du lịch dịch vụ tăng bình quân hàng năm 7,31%. Năm
2001, tổng mức lưu chuyển hàng hoá và dịch vụ vượt 6%. Khoa học – Công nghệ, tăng
1,32% so với năm 2000. Hoạt động du lịch có khởi sắc, tổng số khách năm 2001 tăng
19,7% so với năm 2000, trong đó khách quốc tế tăng 10,9%.
- Tổng thu ngân sách trên địa bàn đạt 1.560 tỷ đồng, tăng 26,22% so với dự toán.
Tổng kim ngạch xuất khẩu 5 năm đạt 1. 014,4 triệu USD, tăng bình quân hàng năm
17,1%. Năm 2001, tuy tình hình chung khó khăn, nhưng kim ngạch xuất khẩu của Thành
phố vẫn đạt 269,52 triệu USD, tăng 14,5% so với năm 2000. Thị trường xuất khẩu mở
rộng đến 65 quốc gia và vùng lãnh thổ.
- Công tác đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng trong các năm qua được Thành phố đặc
biệt quan tâm và đã đạt được nhiều kết quả. Thành phố đã tích cực huy động mọi nguồn
lực cho đầu tư phát triển, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng nhanh hàng năm, phần
lớn những mục tiêu, những công trình trọng điểm đều thực hiện được, đặc biệt là các
công trình giao thông, giáo dục y tế, hạ tầng các khu dân cư,… Bộ mặt đô thị ngày càng
khởi sắc, hệ thống giao thông nội thị được chú trọng đầu tư hoàn thiện. Phương châm
‘Nhà nước và nhân dân cùng làm’ phát huy được tác dụng, thể hiện sự đồng tâm, hiệp lực
của mọi tổ chức, đoàn thể, nhân dân vì một thành phố ngày càng văn minh hiện đại (
đóng góp của nhân dân bằng tiền, bằng đất đai, vật liệu kiến trúc giải toả với giá trị trên
120 tỷ đồng ).
- Tổng vốn đầu tư tập trung trên địa bàn trong 5 năm 1997 – 2001 đạt 8.858 tỷ đồng,
tăng bình quân hành năm gần 20%. Năm 2001, tổng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đạt
1.498,72 tỷ đồng, tăng 16,64% so với năm 2000, có 50 công trình hoàn thành đưa vào sử
dụng. Tổng vốn đầu tư xã hội đạt 3.357 tỷ đồng, tăng gần gấp đôi so với năm 2000.
- Các ngành điện lực, bưu chính viễn thông, cảng,… không ngừng phát triển. Số
máy điện thoại phát triển nhanh, đạt bình quân 13,8 máy/100 dân; tổng số thuê bao
Internet là 2.696 thuê bao, chiếm 1,6% tổng thuê bao toàn quốc.
- Bên cạnh đó, thực hiện chiến lược phát triển chung của đất nước và khu vực miền
Trung, một số công trình lớn do TW đầu tư đã và đang được TW triển khai xây dựng trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng và khu vực miền Trung như: đường Hồ Chí Minh, hầm
đường bộ qua đèo Hải Vân, mở rộng nâng cấp cảng Tiên Sa gắn với dự án hành lang
Đông - Tây,… đã tạo nên khí thế và triển vọng mới cho Thành phố.
Như vậy, với tốc độ tăng trưởng kinh tế như hiện nay, thì nhu cầu vốn cho nền kinh
tế của Thành phố trong thời gian tới là rất lớn, muốn đáp ứng được tốc độ tăng trưởng
kinh tế bình quân hàng năm hơn 10% thì tốc độ tăng trưởng vốn tương ứng vào khoảng
30 – 40 %, điều này đòi hỏi các ngân hàng phải nỗ lực hơn nữa trong huy động và cho
vay, làm cho ngân hàng thực sự là một nơi cung ứng vốn chủ yếu và hiệu quả, để làm
được điều này, hệ thống ngân hàng trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng nói chung và mạng
lưới NHNo&PTNT nói riêng phải không ngừng mở rộng quy mô, đa dạng hoá đối tượng
và sản phẩm, nâng cao chất lượng phục vụ, đáp ứng nhu cầu về vốn của các dự án, các
ngành nghề, tạo mối quan hệ lâu dài và bền vững với khách hàng trong cho vay và huy
động, để ngân hàng thực sự là một kênh cung ứng vốn quan trọng và hiệu quả của kinh tế
Thành phố.
II. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ CƠ CẤU TỔ CHỨC QUẢN LÝ NHNo& PTNT THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG.
1. Quá Trình Hình Thành Và Phát Triển.
Chi nhánh NHNo&PTNT Thành phố Đà Nẵng được thành lập năm 1988 với tên gọi
lúc bấy giờ là Ngân hàng Nông nghiệp tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng, nhằm thực hiện cơ
chế mới chuyển từ ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, nhằm tách bạch chức
năng quản lý với chức năng kinh doanh.
Năm 1991, tại quyết định số 66/NH – QĐ, ngày 21/4/1991 của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước thành lập thêm Sở giao dịch III – Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam
đóng tại Đà Nẵng làm nhiệm vụ quản lý và điều hoà vốn cho 11 tỉnh khu vực Miền trung
và Tây nguyên. Lúc này trên địa bàn có hai chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Nông nghiệp
Việt Nam:
+ Chi nhánh Ngân hàng Nông nghiệp Tỉnh Quảng Nam – Đà Nẵng với nhiệm vụ
kinh doanh tiền tệ trên địa bàn tỉnh.
+ Sở giao dịch III –Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam tại Đà Nẵng làm nhiệm vụ
kiểm tra việc chấp hành các chủ trương chính sách cúa NHNN và NHNo VN thuộc phạm
vi 11 tỉnh Miền trung và Tây nguyên.
Tại quyết định số 267/QĐ –HĐBT, ngày 19/10/1992 của Chủ tịch Hội đồng quản trị
NHNo VN đã sát nhập Chi nhánh NHNo tỉnh QNĐN vào Sở giao dịch III – NHNo VN
tại Đà Nẵng; như vậy Sở giao dịch III – NHNo VN tại Đà Nẵng vừa có nhiệm vụ quản lý,
điều hoà vốn cho khu vực Miền trung và Tây nguyên, vừa trực tiếp kinh doanh Ngân
hàng trên địa bàn tỉnh QNĐN.
Năm 1997, tỉnh QNĐN được chia tách thành hai đơn vị hành chính trực thuộc
Trung ương đó là Thành phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam, phạm vi hoạt động của sở
giao dịch III – NHNo VN tại Đà Nẵng theo đó cũng thu hẹp lại trong phạm vi Thành phố
Đà Nẵng.
Năm 1998, NHNo&PTNT VN thành lập thêm chi nhánh NHNo&PTNT VN TP Đà
Nẵng, như vậy trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng cùng lúc có hai đơn vị thành viên trực
thuộc NHNo&PTNT Việt Nam đó là Sở giao dịch III – NHNo VN tại TP Đà Nẵng và
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng.
Năm 2000, tại quyết định số 424/HĐBT – TCHC, ngày 26/10/2000 của Chủ tịch
Hội đồng quản trị NHNo&PTNT Việt Nam, về việc “hợp nhất Sở giao dịch III – NHNo
VN tại TP Đà Nẵng và Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng thành Chi nhánh
NHNo&PTNT TP Đà Nẵng và mở Chi nhánh NHNo&PTNT Quận Hải Châu trực thuộc
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng“.
Hiện nay, Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng đóng trụ sở tại 23, Phan Đình
Phùng, TP Đà Nẵng có 6 Chi nhánh Ngân hàng Quận, Huyện trực thuộc gọi là Chi nhánh
cấp II loại 4 là: Hải Châu, Thanh Khê, Liên Chiểu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn và Hoà Vang
cùng với 7 Chi nhánh cấp II loại 5 là: Chi nhánh Chợ Mới, Chi nhánh Ông Ích Khiêm,
Chi nhánh Đống Đa, Chi nhánh Chợ Cồn, Chi nhánh Chi Lăng, Chi nhánh Trần Cao Vân,
và Chi nhánh An Đồn.
2. Chức Năng Và Nhiệm Vụ.
a. Chức năng.
Chi nhánh NHNo&PTNT TP Đà Nẵng là một doanh nghiệp Nhà nước đóng trên
địa bàn Thành phố Đà Nẵng, thực hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng
với các chức năng sau:
+ Trực tiếp kinh doanh theo phân cấp của NHNo&PTNT VN.
+ Tổ chức điều hành kinh doanh và kiểm tra kiểm toán nội bộ theo uỷ quyền của
Tổng giám đốc NHNo&PTNT VN.
+ Thực hiện các nhiệm vụ được giao theo lệnh của Tổng giám đốc NHNo&PTNT
VN
b. Nhiệm vụ.
+ Huy động vốn: Khai thác và nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn bằng
VNĐ và ngoại tệ; phát hành kỳ phiếu và trái phiếu,…
+ Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ đối với tổ chức
kinh tế, đối với các cá nhân và hộ gia đình thuộc mọi thành phần kinh tế.
+ Kinh doanh ngoại hối: Huy động, cho vay, mua bán ngoại tệ và thanh toán quốc
tế.
+ Kinh doanh dịch vụ: Chuyển tiền điện tử, thu chi hộ tiền…
+ Cân đối, điều hoà vốn đối với các chi nhánh NHNo&PTNT trực thuộc trên địa
bàn.
+ Thực hiện hạch toán kinh doanh và phân phối thu nhập theo quy định của
NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Làm dịch vụ cho NHNN.
+ Thực hiện công tác tổ chức cán bộ, đào tạo, thi đua khen thưởng theo phân cấp uỷ
quyền của NHNo&PTNT Việt Nam.
+ Thực hiện các nhiệm vụ khác do Tổng giám đốc NHNo&PTNT Việt Nam giao.
+ Thực hiện các nghĩa vụ đối với Nhà nước.
3. Cơ Cấu Tổ Chức Và Bộ Máy Quản Lý.
a. Cơ cấu tổ chức.
Sơ đồ bộ máy tổ chức.
Các ngân hàng cơ s
ở
Các phòng giao d
ịch
Giám đốc
P. giám đốc P. giám đốc P. giám đốc
Phòng
Tín
dụng
doanh
nghiệp
Phòng
Tín
dụng
dân
doanh
Phòng
DV và
chăm
sóc
KH
Phòng
Thông
tin
điện
toán
Phòng
kế
toán
tổng
hợp
Phòng
Kinh
doanh
đối
ngoại
Phòng
tổ
chức
hành
chính
Phòng
kiểm
tra
nội
bộ
Phòng
kế
toán
ngân
quỹ
Quan hệ trực tuyến.
Quan hệ chức năng.
b. Chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận.
b.1. Ban giám đốc: gồm 4 người; 1 giám đốc và 3 phó giám đốc:
+ Giám đốc phụ trách chung, đồng thời phụ trách chuyên đề tổ chức cán bộ và kiểm
tra kiểm toán nội bộ.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kế toán và hành chính.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kinh doanh.
+ Một phó giám đốc: Phụ trách kế hoạch và thông tin điện toán.
b.2. Các phòng ban tại ngân hàng.
+ Phòng kế toán ngân quỹ: Có nhiệm vụ chuyên sâu các hoạt động hạch toán kinh
doanh và thu chi tiền mặt, gồm các bộ phận: Hạch toán kinh doanh, thanh toán tiền hàng,
bù trừ, chuyển tiền qua ngân hàng, thu chi và quản lý an toàn kho quỹ.
+ Phòng tín dụng dân doanh: Thực hiện các hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất.
+ Phòng tín dụng doanh nghiệp: Thực hiện các hoạt động tín dụng đối với doanh
nghiệp.
+ Phòng kinh doanh đốI ngoại: Thực hiện các hoạt động thanh toán quốc tế, mua
bán ngoại tệ.
+ Phòng kiểm tra kiểm toán nội bộ: Có nhiệm vụ kiểm soát các hoạt động trong nội
bộ ngân hàng.
+ Phòng thông tin điện toán: Xây dựng các chương trình điện toán nhằm phục vụ
cho công tác kinh doanh, báo cáo thống kê của ngành.
+ Phòng dịch vụ và chăm sóc khách hàng: