Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

PHÂN TÍCH ẢNH HƯỞNG của các CHÍNH SÁCH TIỀN tệ đến HOẠT ĐỘNG tín DỤNG của các NGÂN HÀNG THƯƠNG mại VIỆT NAMẢNH HƯỞNG của các CHÍNH SÁCH TIỀN tệ đến HOẠT ĐỘNG tín DỤNG của các NGÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.07 KB, 63 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm cơ bản về các chính sách tiền tệ
1.1.1 Khái niệm về chính sách tiền tệ
Như chúng ta đã biết, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, nếu khối
lượng tiền tệ trong lưu thông thay đổi, thì giá trị đại diện của các đơn vị tiền tệ
thay đổi. Từ đó, giá cả hàng hóa, giá trị tài sản và thu nhập của nhân dân, cũng
như thu nhập quốc dân thay đổi. Do vậy, bằng cách tạo ra các biến động về tiền tệ,
ngân hàng trung ương có thể hướng dẫn những biến động nhất định trong đời sống
và hoạt động kinh tế của quốc gia, của cộng đồng. Tổng hợp những phương thức
mà qua đó ngân hàng trung ương tạo ra các biến động về tiền tệ nói trên hợp thành
chính sách tiền tệ
Như vậy chúng ta có thể hiểu, chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương
thức mà ngân hàng trung ương thông qua các hoạt động của mình tác động đến
khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội của
đất nước trong một thời kỳ nhất định. Nó là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống các chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ
1.1.2. Mục tiêu của chính sách tiền tệ :
Mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ là tăng trưởng kinh tế, tạo công
ăn việc làm và kiểm soát lạm phát
a. Phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng :
Sự tác động vào quá trình phát triển kinh tế, gia tăng sản lượng do nhiều
yếu tố khác nhau và rất phức tạp. Nhưng có 1 điều chắc chắn là muốn kinh tế tăng
trưởng thì nhất thiết phải thực hiện tái sản xuất mở rộng trên cơ sở khai thác triệt
để các nguồn vốn tiềm năng trong và ngoài nước.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Trong việc thực hiện mục tiêu này vai trò của ngân hàng là rất quan trọng.
Với chức năng là trung tâm tín dụng, dưới sự chỉ đạo của ngân hàng trung ương
thông qua chính sách tiền tệ, các ngân hàng sẽ huy động một cách triệt để các


nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong xã hội, trên cơ sở đó phân phối lại cho các đơn
vị kinh tế sử dụng để bổ sung thêm một bộ phận tài nguyên trong và ngoài nước
vào phát triển kinh tế
b. Tạo công ăn việc làm :
Trong nền kinh tế thị trường, khi sức lao động trở thành hàng hóa thì hiện
tượng thất nghiệp là một hiện tượng tất yếu xảy ra. Do vậy tạo công ăn việc làm là
một yêu cầu bức thiết và thường trực của các quốc gia
Việc làm nhiều hay ít, tăng hay giảm, nói chung chủ yếu phụ thuộc vào tình
hình tăng trưởng kinh tế. Khi nền kinh tế được mở rộng và phát triển thì việc làm
được tạo ra nhiều hơn, thất nghiệp giảm, và ngược lại. Tuy nhiên cũng cần phải
lưu ý rằng khi tăng trưởng kinh tế đạt được do kết quả của việc cải tiến kỹ thuật thì
việc làm có thể không tăng mà còn giảm.
Vai trò của ngân hàng trung ương khi thực hiện mục tiêu này là phải vận
dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất – kinh
doanh. Mặt khác phải tham gia tích cực vào việc chống suy thoái kinh tế theo chu
kỳ, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế ổn định, vững chắc nhằm mục đích khống chế tỷ
lệ thất nghiệp không vượt quá tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên, tạo ra 1 lượng công ăn
việc làm cao
c. Kiểm soát lạm phát :
Trong điều kiện lưu thông tiền vàng hoặc tiền giấy tự do chuyển đổi ra
vàng thì khối lượng tiền thực tế sẽ phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế một cách
tự phát thông qua cơ chế đúc và đổi tiền tự do. Nhưng ngày nay, thời đại của chế
độ lưu thông tiền giấy bất khả hoán, hiện tượng lạm phát là hiện tượng tất yếu xảy
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
ra. Mà một nền kinh tế chỉ có thể tăng trưởng được trong một môi trường ổn định
về tiền tệ - giá cả. Trong điều kiện đó ngân hàng trung ương phải luôn coi kiểm
soát lạm phát là một trong những mục tiêu của chính sách tiền tệ
Thường thì lạm phát vừa phải là mục tiêu phấn đấu của các ngân hàng

trung ương trong vấn đề kiểm soát lạm phát. Vì theo kết quả nghiên cứu được
công bố năm 1960 của nhà kinh tế học người Mỹ, A.W Philips, thì lạm phát và
thất nghiệp tỷ lệ nghịch với nhau. Cụ thể cứ giảm 1% lạm phát thì tỷ lệ thất nghiệp
tăng 2%, mặt khác, mức lạm phát quá thấp thì kinh tế dễ rơi vào tình trạng suy
thoái. Mà tăng trưởng kinh tế, khống chế tỷ lệ thất nghiệp và kiểm soát lạm phát
đều là mục tiêu cần đạt đến của chính sách tiền tệ
Rõ ràng sự phối hợp của ba mục tiêu: tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc
làm và kiểm soát lạm phát là rất quan trọng. Bởi vì, không phải cùng một lúc mà
cả ba mục tiêu đó đều có thể thực hiện được mà không có sự mâu thuẫn với nhau.
Do vậy, khi đặt ra các mục tiêu cho chính sách tiền tệ, cần có sự dung hòa. Cụ thể
là phải tùy lúc, tùy thời, tùy điều kiện cụ thể mà sắp xếp thứ tự ưu tiên. Muốn vậy,
ngân hàng trung ương phải luôn nắm bắt được thực tế diễn biến của quá trình thực
hiện các mục tiêu, nhằm điều chỉnh chúng khi có sự thay đổi bằng những giải pháp
thích hợp.
1.1.3. Những công cụ để thực thi chính sách tiền tệ :
a. Dự trữ bắt buộc :
Dự trữ bắt buộc là phần tiền gửi mà các ngân hàng trung gian phải đưa vào
dự trữ theo luật định. Mức dự trữ bắt buộc cao hay thấp phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ
bắt buộc – do ngân hàng trung ương quy định – cao hay thấp. tỷ lệ dự trữ bắt buộc
là tỷ lệ phần trăm trên lượng tiền gửi mà ngân hàng trung gian huy động được,
phải để dưới dạng dự trữ. Như vậy mỗi ngân hàng chỉ được cho vay số tiền còn lại
sau khi đã trừ phần dự trữ bắt buộc. Qua đó với việc tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
bắt buộc, ngân hàng trung ương có thể hạn chế hoặc bành trướng khối tiền tệ mà
hệ thống ngân hàng có khả năng cung ứng cho nền kinh tế.
Một cách khái quát, khi ngân hàng trung ương tăng hoặc giảm tỷ lệ dự trữ
bắt buộc thì ngân hàng trung ương có thể làm giảm hoặc tăng hệ số tạo tiền của
ngân hàng trung gian, và kết quả là khối tín dụng mà các ngân hàng trung gian có

thể cung ứng cho nền kinh tế giảm hoặc tăng. Nhìn chung, dự trữ bắt buộc là công
cụ mang tính chất hành chính của ngân hàng trung ương, nhằm điều tiết mức cung
tiền tệ của ngân hàng trung gian cho nền kinh tế, thông qua hệ số tạo tiền.
Ưu điểm của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát cung tiền tệ là nó
có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy
quyền lực. Mặt khác chỉ cần một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì tác
động của nó đến khối tiền tệ là rất lớn. Tuy nhiên ưu điểm vừa nêu cũng có mặt
trái của nó. Đó là khi ngân hàng trung ương muốn thay đổi cung tiền tệ ở biên độ
nhỏ, nó khó có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này. Bên cạnh đó việc
thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng đến khả năng thu doanh lợi của các
ngân hàng thương mại. Hơn nữa nếu thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc
cũng sẽ gây ra tình trạng thiếu ổn định cho các ngân hàng thương mại và làm cho
việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân hàng này khó khăn hơn. Do đó,
một sự gia tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc đòi hỏi ngân hàng trung ương phải nghiên
cứu trước sức chịu đựng của các ngân hàng trung gian, cũng như phải để cho các
ngân hàng trung gian một thời gian đủ để tăng khoản dự trữ lên mức bắt buộc mới.
b. Lãi suất:
Lãi suất là giá cả của quyền sử dụng vốn, việc thay đổi lãi suất sẽ kéo theo
sự biến đổi của chi phí tín dụng, từ đó tác động đến việc thu hẹp hay mở rộng khối
lượng tín dụng trong nền kinh tế. Do đó lãi suất là một trong những công cụ chủ
yếu của chính sách tiền tệ. Thực tế cho thấy tùy theo điều kiện thực tế và trình độ
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
phát triển của thị trường tài chính, ngân hàng trung ương có thể sử dụng công cụ
lãi suất để điều hành chính sách tiền tệ theo các chính sách sau:
Ngân hàng trung ương kiểm soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng cách quy
định các loại lãi suất sau:
 Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn
 Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung

lãi suất giới hạn
 Công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch…
Ngân hàng trung ương áp dụng chính sách tự do hóa để lãi suất tự hình
thành theo cơ chế thị trường. Và để can thiệp vào lãi suất thị trường, ngân hàng
trung ương có thể gián tiếp can thiệp thông qua các chính sách:
 Công bố lãi suất cơ bản để hướng dẫn lãi suất thị trường
 Sử dụng công cụ lãi suất tái cấp vốn và kết hợp với lãi suất thị
trường mở để can thiệp và điều chỉnh lãi suất thị trường
Thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất đòi hỏi nền kinh tế cần có những
điều kiện cơ bản nhất định:
 Môi trường kinh tế vĩ mô ổn định
 Hành lang pháp lý ổn định, hoàn chỉnh và đồng bộ
 Hệ thống ngân hàng hoạt động hữu hiệu, có sức cạnh tranh
cao
 Thị trường tài chính vận hành có hiệu quả
 Các nguồn lực trong nước được phân phối và sử dụng hợp lý
Trong xu thế hội nhập, việc thực hiện chính sách tự do hóa lãi suất là cần
thiết, song cần tiến hành một cách thận trọng, cân nhắc kỹ càng, tránh nóng vội để
có thể loại bỏ những tác động tiêu cực của nó đối với nền kinh tế.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Có thể nói lãi suất vừa là đối tượng quản lý vừa là công cụ quan trọng của
chính sách tiền tệ. Lãi suất nếu được sử dụng đúng đắn và phù hợp với những điều
kiện, tình hình kinh tế trong từng thời kỳ nhất định sẽ có tác dụng trực tiếp đến
kiểm soát lạm phát, kích thích tiết kiệm và đầu tư phát triển, nó cũng ảnh hưởng
đến những thay đổi của tỷ giá hối đoái trong mối quan hệ với cán cân thanh toán
quốc tế. Ngược lại, nếu sử dụng nó cứng nhắc, không phù hợp với điều kiện thực
tế của nền kinh tế, lãi suất lại trở thành vật kiềm hãm, trói buộc nền kinh tế.
c. Thị trường mở :

Công cụ thị trường mở phản ánh việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán
những chứng từ có giá trên thị trường tài chính công cộng, nhằm đạt đến mục tiêu
điều chỉnh lượng tiền trong lưu thông. Các chứng từ có giá mà các ngân hàng
trung ương thường sử dụng để tiến hành nghiệp vụ thị trường mở là các chứng
khoán kho bạc, bởi vì thị trường của những chứng khoán này rất linh hoạt và có
dung lượng kinh doanh lớn.
Khi ngân hàng trung ương đem chứng khoán ra thị trường mở bán nó sẽ thu
được tiền mặt và séc về. Điều này có nghĩa là khối lượng tiền mặt cung ứng cho
lưu thông giảm, làm giảm khả năng cung ứng tín dụng của các ngân hàng trung
gian, và như thế cung ứng tiền trong nền kinh tế bị thắt chặt hơn. Bên cạnh đó,
việc ngân hàng trung ương bán chứng khoán ra thị trường mở sẽ làm tăng cung
chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá chứng khoán này sẽ
hạ, và do vậy, lãi suất của chứng khoán tăng lên. Lãi suất của chứng khoán tăng
buộc các ngân hàng trung gian phải tăng lãi suất ngân hàng lên theo để tránh tình
trạng công chúng rút tiền ra khỏi ngân hàng đem đầu tư vào chứng khoán, nghĩa là
gián tiếp thắt chặt thêm khối tiền tệ
Ngược lại, khi ngân hàng trung ương đem tiền mặt hoặc séc mua chứng
khoán trên thị trường mở, thì lượng tiền mặt trong lưu thông tăng lên, dự trữ của
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
ngân hàng thương mại tăng lên. Mặt khác, việc ngân hàng trung ương mua chứng
khoán sẽ làm tăng cầu về chứng khoán, trong điều kiện các nhân tố khác không
đổi, giá chứng khoán sẽ tăng, dẫn đến lãi suất chứng khoán giảm, và đến lượt lãi
suất ngân hàng giảm, kích thích doanh nghiệp đi vay, nghĩa là một cách bành
trướng khối tiền tệ.
Với cách vận hành như trên, nghiệp vụ thị trường mở có một số ưu điểm
hơn so với các công cụ khác của chính sách tiền tệ. Cụ thể:
 Ngân hàng trung ương có thể chủ động tiến hành mà không
phải phụ thuộc vào nhu cầu của các ngân hàng trung gian.

 Nghiệp vụ này tương đối linh hoạt và chính xác, có thể sử
dụng ở bất kỳ mức độ nào. Nếu mong muốn của ngân hàng trung ương
là thay đổi dự trữ của các ngân hàng ở biên độ lớn, nó sẽ mua hoặc bán
nhiều chứng khoán. Và ngược lại, muốn thay đổi dự trữ của các ngân
hàng trung gian ở biên độ nhỏ, ngân hàng trung ương sẽ thực hiện mua
và bán một ít chứng khoán thôi.
 Nghiệp vụ thị trường mở dễ dàng được đảo ngược lại khi có
một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành. Giả sử ngân hàng trung ương
thấy rằng cung ứng tiền tệ tăng quá nhanh do nó mua trên thị trường mở
quá nhiều, thì nó có thể sửa chữa ngay lập tức bằng cách tiến hành
nghiệp vụ bán trên thị trường mở, và ngược lại.
 Nghiệp vụ thị trường mở có thể được hoàn thành nhanh
chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành chính.
Tuy nhiên, để phát huy hết hiệu quả của công cụ này, đòi hỏi hầu hết tiền
lưu thông phải nằm ở tài khoản của ngân hàng, nghĩa là phải có sự phát triển cao
của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt. Mặt khác, phải có một thị trường tài
chính phát triển. Vì vậy công cụ này được sử dụng thường xuyên nhất, hiệu quả
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
nhất đối với ngân hàng trung ương của các nước công nghiệp phát triển – nơi có
công nghệ ngân hàng tiên tiến và thị trường tài chính hoàn chỉnh. Còn đối với các
nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam, việc sử dụng công cụ này chưa mang
lại hiệu quả cao.
d. Tỷ giá hối đoái :
Tỷ giá hối đoái là đại lượng biểu thị mối tương quan về mặt giá trị giữa hai
đồng tiền. Nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đơn vị tiền tệ nước này
được biểu hiện bằng một số lượng đơn vị tiền tệ nước khác.
Sự biến đổi của tỷ giá hối đoái có tác động mạnh mẽ đến mọi hoạt động
kinh tế, từ hoạt động xuất nhập khẩu đến sản xuất kinh doanh và tiêu dùng trong

nước qua biến đổi của giá cả hàng hóa. Do vậy, tỷ giá hối đoái là một công cụ để
ngân hàng trung ương thực thi chính sách tiền tệ của mình. Tuy nhiên, khi vận
dụng công cụ này, không phải là việc ngân hàng trung ương đẩy tỷ giá lên cao hay
kéo tỷ giá xuống thấp, mà là ổn định tỷ giá ở một mức độ nào đó được coi là hợp
lý, phù hợp với đặc điểm, điều kiện thực tế của đất nước trong từng giai đoạn, để
tác động chung cuộc của nó đối với nền kinh tế là tốt nhất
Khi vận hành công cụ tỷ giá hối đoái, ngân hàng trung ương có thể ấn định
tỷ giá cố định, hoặc thả nổi tỷ giá theo quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị trường
ngoại hối. Giữa hai thái cực: tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn, còn có
nhiều tỷ giá khác như: tỷ giá cố định nhưng di động khi cần thiết, tỷ giá thả nổi có
quản lý
Tỷ giá cố định và tỷ giá thả nổi hoàn toàn đều có những nhược điểm cơ
bản. Cụ thể, cung cầu ngoại hối biến đổi không ngừng, do vậy, nếu ngân hàng
trung ương ấn định một mức tỷ giá cố định, thì có nghĩa là ngân hàng trung ương
đã vi phạm một trong những quy luật kinh tế khách quan (quy luật cung – cầu).
Còn nếu như thả nổi tỷ giá hoàn toàn cho cung – cầu ngoại hối quyết định thì tình
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
trạng thăng trầm của tỷ giá hối đoái tất yếu xảy ra, và kéo theo nó là sự thăng trầm
của nền kinh tế.
Tỷ giá cố định nhưng di động khi cần thiết là tỷ giá do ngân hàng trung
ương ấn định, nhưng tùy theo tình hình, tỷ giá đó có thể được ấn định lại cho sát
với thực tế. Cách vận hành này chỉ có hiệu quả khi tình hình ngoại hối biến đổi
chậm. Còn trường hợp tình hình ngoại hối biến đổi thường xuyên thì một sự chậm
trễ trong thay đổi tỷ giá ấn định thường mang đến thiệt hại cho các ngành hoạt
động kinh tế trong nước.
Tỷ giá thả nổi có quản lý là tỷ giá được hình thành trên cơ sở quan hệ cung
– cầu ngoại hối, nhưng khi cần thiết, ngân hàng trung ương có thể can thiệp bằng
những biện pháp thích hợp, một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào quan hệ

cung - cầu ngoại tệ, từ đó có thể ổn định được tỷ giá.
Biện pháp chủ yếu mà các ngân hàng trung ương thường sử dụng để can
thiệp vào cung – cầu ngoại tệ là sử dụng dự trữ ngoại hối và quỹ bình ổn hối đoái
Cụ thể là khi tỷ giá hối đoái tăng cao, ngân hàng trung ương tung ngoại tệ bán,
làm cho khả năng cung ngoại tệ trên thị trường tăng lên, trong điều kiện các nhân
tố khác không đổi, tỷ giá sẽ từ từ giảm xuống. Ngược lại khi tỷ giá hối đoái giảm,
ngân hàng trung ương sẽ mua vào ngoại tệ, làm cho cầu ngoại tệ tăng lên, trong
điều kiện các nhân tố khác không đổi, tỷ giá hối đoái sẽ từ từ tăng lên. Tuy nhiên
cũng cần lưu ý là, việc ngân hàng trung ương bán hoặc mua ngoại tệ cũng sẽ ảnh
hưởng làm cho khối tiền tệ giảm hoặc tăng. Do đó nếu ngân hàng trung ương
không muốn điều này xảy ra, thì nó có thể thực hiện nghiệp vụ thị trường mở để
trung hòa ảnh hưởng nói trên, nhất là trong trường hợp ảnh hưởng đó làm trầm
trọng thêm áp lực lạm phát. Mặt khác, để áp dụng được biện pháp này hiệu quả,
đòi hỏi khối lượng dự trữ ngoại hối phải đủ lớn. Do đó, đối với các nước đang
phát triển, việc áp dụng biện pháp này có những hạn chế
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
e. Hạn mức tín dụng :
Bằng công cụ hạn mức tín dụng, ngân hàng trung ương quy định cho các
ngân hàng trung gian một hạn mức tăng tín dụng tối đa. Như vậy biện pháp này
cho phép ngân hàng trung ương ấn định trước khối lượng tín dụng phải cung cấp
cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định. Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu
lực đáng kể. Tuy nhiên, trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng luôn biến
động không ngừng. Do đó, công cụ này ít được sử dụng.
1.2. Tổng quan về ngân hàng thương mại :
1.2.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là ngân hàng giao dịch trực tiếp với các công ty xí
nghiệp, tổ chức kinh tế và cá nhân, bằng cách nhận tiền gửi, tiền tiết kiệm, rồi sử
dụng số vốn đó để cho vay, chiết khấu, cung cấp các phương tiện thanh toán và

cung ứng các dịch vụ ngân hàng cho các đối tượng nói trên
Ngân hàng thương mại là một loại ngân hàng có số lượng lớn và phổ biến
trong nền kinh tế
Luật tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 tháng 12 năm 1997
định nghĩa “ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực
hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác liên quan”.
1.2.2. Chức năng của các ngân hàng thương mại trên thị trường tài chính :
a. Trung gian tín dụng :
Trung gian tín dụng là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của ngân hàng
thương mại, nó không những cho thấy bản chất của ngân hàng thương mại mà còn
cho thấy nhiệm vụ chính yếu của ngân hàng thương mại. Trong chức năng trung
gian tín dụng ngân hàng thương mại đóng vai trò là người trung gian đứng ra tập
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
trung, huy động các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế (bao
gồm tiền tiết kiệm của các tầng lớp dân cư, vốn bằng tiền của các đơn vị, tổ chức
kinh tế,…) biến nó thành nguồn vốn tín dụng để cho vay (cấp tín dụng) đáp ứng
nhu cầu vốn kinh doanh và vốn đầu tư cho các ngành kinh tế và nhu cầu vốn tiêu
dùng của xã hội
Chức năng trung gian tín dụng các ngân hàng thương mại thực hiện các
nhiệm vụ sau:
 Nhận tiền gửi không kỳ hạn, có kỳ hạn của các đơn vị kinh tế,
các tổ chức cá nhân và cá nhân bằng đồng tiền trong nước và ngoại tệ
 Nhận tiền gửi tiết kiệm của các tổ chức cá nhân
 Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng để huy động vốn
trong xã hội
 Cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đối với các tổ chức
kinh tế và cá nhân
 Chiết khấu thương phiếu và chứng từ có giá đối với các đơn

vị, cá nhân
 Cho vay tiêu dùng, cho vay trả góp và các loại hình tín dụng
khác đối với tổ chức và cá nhân
Thông qua chức năng trung gian tín dụng ngân hàng thương mại góp phần
tạo lợi ích cho tất cả các chủ thể kinh tế tham gia và lợi ích chung của nền kinh tế.
 Đối với người gửi tiền: thông qua cơ chế huy động vốn của
ngân hàng đã tập hợp các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi và tạo ra thu nhập
cho những người gửi tiền dưới hình thức lãi tiền gửi. Đồng thời ngân hàng
cũng đảm bảo an toàn cho các khoản tiền gửi và cung cấp cho khách hàng
những dịch vụ thanh toán tiện lợi.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
 Đối với người vay: họ sẽ thỏa mãn được nhu cầu về vốn để
kinh doanh, chi tiêu, thanh toán mà không phải tiêu tốn nhiều chi phí về sức
lực, thời gian cho việc tìm kiếm nơi cung ứng vốn tiện lợi, chắc chắn và
hợp pháp.
 Đối với bản thân ngân hàng: ngân hàng sẽ tìm kiếm được
khoản lợi nhuận từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc
hoa hồng môi giới. Đây là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng thương mại.
b. Trung gian thanh toán:
Đây là chức năng quan trọng, không những thể hiện khá rõ bản chất của
ngân hàng thương mại mà còn cho thấy tính “đặc biệt” trong hoạt động của ngân
hàng thương mại
Ngân hàng thương mại đứng ra làm trung gian để thực hiện các khoản giao
dịch thanh toán giữa các khách hàng, giữa người mua và người bán…để hoàn tất
các quan hệ kinh tế thương mại giữa họ với nhau.
Nhiệm vụ cụ thể của chức năng trung gian thanh toán:
 Mở khóa tài khoản tiền gửi giao dịch cho các tổ chức và cá

nhân: tất cả các đơn vị kinh tế, các tổ chức cá nhân nếu có nhu cầu đều có
quyền mở tái khoản và giao dịch tại bất kỳ ngân hàng thương mại nào mà
mình cảm thấy an tâm và tiện lợi, còn đối với các ngân hàng thương mại có
nghĩa vụ đáp ứng nhu cầu mở tài khoản và giao dịch của khách hàng nếu họ
tuân thủ đúng các quy định về việc mở, sử dụng tài khoản giao dịch tại
ngân hàng. Chức năng thanh toán của ngân hàng chỉ được thực hiện thuận
lợi khi các khách hàng tham gia có tài khoản giao dịch tại ngân hàng. Do
vậy, thủ tục mở tài khoản phải chặt chẽ nhưng đơn giản, đảm bảo bí mật, an
toàn cho khách hàng.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
 Quản lý và cung cấp các phương tiện thanh toán cho khách
hàng: thanh toán qua ngân hàng là phương thức thanh toán không dùng tiền
mặt, nó được thực hiện qua việc phản ánh trên sổ sách của ngân hàng. Do
đó, các chứng từ dùng làm căn cứ hạch toán vào sổ sách phải chuẩn xác do
ngân hàng cung cấp và kiểm soát, có như vậy mới đảm bảo cho quá trình
thanh toán được nhanh chóng, an toàn và chính xác. Vì vậy ngân hàng sẽ
thiết kế và cung cấp cho khách hàng các phương tiện thanh toán khác nhau
như: giấy chuyển tiền, ủy nhiệm chi, séc, thư tín dụng Những phương tiện
này vừa đáp ứng nhu cầu quản lý và kiểm soát chặt chẽ, đồng thời đáp ứng
yêu cầu linh hoạt, tiện lợi và dễ sử dụng.
 Tổ chức và kiểm soát quy trình thanh toán giữa các khách
hàng: để đảm bảo yêu cầu thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn và
tiện lợi, ngân hàng phải tổ chức kiểm soát quy trình thanh toán giữa các
khách hàng. Tùy theo từng phương thức thanh toán sẽ có những quy trình
khác nhau, khách hàng cảm nhận được những tiện ích và ưu điểm của từng
phương thức để lựa chọn cho từng giao dịch thanh toán thích hợp.
1.3. Hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương mại:
1.3.1. Khái niệm:

a. Khái niệm về tín dụng:
Tín dụng là một phạm trù kinh tế, ra đời và tồn tại qua nhiều hình thái kinh
tế xã hội. Từ tín dụng có nguồn gốc từ tiếng Latin là creditium có nghĩa là sự tin
tưởng, tín nhiệm, dựa trên sự tín nhiệm đó sẽ thực hiện các quan hệ vay mượn một
lượng giá trị biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc vật chất trong một thời gian nhất
định, ngay cả những giá trị vô hình như tiếng tăm, uy tín để đảm bảo, bảo lãnh cho
sự vận động của một lượng giá trị nào đó. Vì vậy nếu ta nghiên cứu tín dụng từ
phía các quan hệ kinh tế vi mô thì tín dụng là sự vay mượn giữa hai chủ thể kinh tế
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
giữa người đi vay và người cho vay, trên cơ sở thỏa thuận về thời hạn nợ, mức lãi
cụ thể. Còn nếu chúng ta nhìn trên giác độ kinh tế vĩ mô thì tín dụng là sự vận
động vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Người cho vay trên cơ sở tín nhiệm người đi vay, đó là sự hoàn trả đúng
hạn của giá trị tín dụng (cả vốn gốc lẫn lãi) sẽ chuyển giao một lượng giá trị tín
dụng cho người đi vay. Niềm tin ấy có thể được thực hiện trọn vẹn, chỉ khi nào
quá trình vận động ngược chiều của một lượng giá trị tiền tệ từ người đi vay trở về
người cho vay, tức quay trở về điểm xuất phát ban đầu. Niềm tin sẽ không được
thực hiện trọn vẹn hoặc không được thực hiện khi khoản vay không được hoàn trả
hoặc hoàn trả sai hẹn. Từ đó có thể đưa ra khái niệm tổng quát về tín dụng như sau
: “ tín dụng là một phạm trù kinh tế chỉ mối quan hệ vay mượn dựa trên nguyên
tắc có hoàn trả cả vốn gốc và lãi sau một thời gian nhất định “.
b. Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ
chức tín dụng với bên kia là các pháp nhân hoặc thể nhân trong nền kinh tế quốc
dân.
Trong nền kinh tế thị trường ngân hàng đóng vai trò là một tổ chức tài
chính trung gian, quan hệ tín dụng ngân hàng được thể hiện qua hai khâu:
 Khâu huy động vốn: ngân hàng là một chủ thể đi vay, huy

động khai thác các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng để hình thành
nên nguồn vốn cho vay. Hoạt động này được thực hiện dưới hình thức ngân
hàng huy động tiền gửi từ các cá nhân, doanh nghiệp, vay mượn qua các
hợp đồng hoặc dưới hình thức phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng trên
thị trường.
 Khâu cho vay: trên cơ sở nguồn vốn huy động được, ngân
hàng sẽ thực hiện phân phối cho vay cấp tín dụng lại cho các chủ thể có
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
nhu cầu về vốn trong nền kinh tế. Đối tượng cho vay chủ yếu là các doanh
nghiệp, các tổ chúc kinh tế với mục đích sử dụng vốn tín dụng cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh.
1.3.2. Đặc điểm
a. Đặc điểm của tín dụng:
Mặc dù quan hệ tín dụng được biểu hiện qua các phương thức rất đa dạng
và phong phú, nhưng nó vẫn mang ba đặc trưng cơ bản sau:
 Chỉ làm thay đổi quyền sử dụng, không làm thay đổi quyền
sử dụng vốn.
 Thời hạn tín dụng được xác định dựa trên sự thỏa thuận giữa
các bên tham gia quan hệ tín dụng.
 Chủ sở hữu vốn được nhận lại một phần thu nhập dưới dạng
lợi tức tín dụng.
b. Đặc điểm của tín dụng ngân hàng:
 Về hình thức biểu hiện: hoạt động của tín dụng ngân hàng
được thực hiện dưới hình thái tiền tệ gồm tiền mặt và bút tệ. Do đặc tính về
lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, để tập trung được lượng vốn lớn từ nhiều
chủ thể, cũng như phân phối đáp ứng nhu cầu về vốn cho các chủ thể kịp
thời và đầy đủ, ngân hàng vận dụng vốn dưới hình thái tiền tệ để phục vụ
cho hoạt động kinh doanh của mình.

 Chủ thể trong quan hệ tín dụng ngân hàng: ngân hàng thương
mại, các tổ chức tín dụng đóng vai trò là chủ thể trung tâm. Ngân hàng vừa
thực hiện vai trò là chủ thể đi vay trong khâu huy động, vừa thực hiện vai
trò là chủ thể cho vay trong khâu phân phối cho vay.
 Quá trình vận động và phát triển của tín dụng ngân hàng
không hoàn toàn phù hợp với quy mô phát triển của sản xuất và lưu thông
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
15
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
hàng hóa: xuất phát từ đặc điểm tín dụng ngân hàng được cấp dưới hình
thái tiền tệ có thể đáp ứng các nhu cầu khác nhau ngoài nhu cầu sản xuất và
lưu thông hàng hóa, giá trị của món tín dụng có thể không đồng nhất với
giá trị mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh trong từng giai đoạn phát triển
kinh tế.
 Trong nền kinh tế thị trường tín dụng ngân hàng trở thành
loại hình tín dụng phổ biến, đáp ứng mọi nhu cầu bổ sung vốn của nền kinh
tế. Tín dụng ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn ngắn hạn để dự trữ
vật tư hàng hóa, trang trải chi phí sản xuất, thanh toán các khoản nợ mà còn
tham gia cấp vốn đầu tư trung, dài hạn, đáp ứng các nhu cầu về đầu tư xây
dựng cơ sở hạ tầng, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mua sắm tài sản cố định…
Ngoài ra tín dụng ngân hàng còn đáp ứng một phần nhu cầu tiêu dùng cá
nhân.
1.3.3. Phân loại tín dụng:
Tín dụng hoạt động rất đa dạng và phong phú. Trong quản lý, để phân tích
đánh giá các hoạt động tín dụng làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách tài
chính – tiền tệ, các nhà kinh tế thường dựa trên các chiêu thức sau đây để phân
loại.
a. Căn cứ vào yếu tố thời hạn tín dụng:
Tín dụng bao gồm ba loại:
 Tín dụng ngắn hạn: tín dụng ngắn hạn có thời hạn dưới 1

năm, thường đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp
hoặc phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng bức thiết của dân cư
 Tín dụng trung hạn: tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1-5
năm. Loại tín dụng này được sử dụng để bổ sung vốn mua sắm tài sản cố
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
16
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình có quy
mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh.
 Tín dụng dài hạn: tín dụng dài hạn là loại tín dụng có thời hạn
trên 5 năm. Tín dụng dài hạn được sử dụng để hỗ trợ vốn xây dựng cơ bản,
đầu tư xây dựng các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật và công nghệ hiện
đại có thời gian hoàn vốn lâu dài.
b. Căn cứ vào yếu tố đối tượng của tín dụng: tín dụng được chia làm 2 loại
 Tín dụng vốn lưu động: tín dụng vốn lưu động được thể hiện
dưới hình thức cho vay để bổ sung vốn lưu động cho các tổ chức kinh tế
 Tín dụng cố định: là loại tín dụng được cấp để bổ sung vốn cố
định hình thành nên tài sản cố định, cãi tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây
dựng các công trình mới
c. Căn cứ vào yếu tố mục đích sử dụng vốn:
 Tín dụng sản xuất lưu thông hàng hóa: là loại tín dụng được
cấp cho các chủ thể kinh doanh nhằm hỗ trợ vốn để mở rộng hoạt động sản
xuất và lưu thông hàng hóa
 Tín dụng tiêu dùng: là loại hình tín dụng đáp ứng các nhu cầu
tiêu dùng của cá nhân
d. Căn cứ vào yếu tố chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng :
 Tín dụng thương mại: là loại hình tín dụng được thiết lập giữa
các doanh nghiệp , tổ chức sản xuất kinh doanh với nhau. Nó được biểu
hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hóa, dịch vụ
 Tín dụng ngân hàng: là loại tín dụng trong đó chủ thể trọng

tâm là ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng và các tổ chức tài chính
trung gian khác. Các tổ chức này sẽ thực hiện huy động vốn và sau đó sử
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
17
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
dụng phần vốn này cấp tín dụng cho vay cho các cá nhân, các tổ chức kinh
tế xã hội.
 Tín dụng nhà nước: tín dụng nhà nước do nhà nước thực hiện
nhằm đảm bảo thực hiện các chính sách phát triển kinh tế xã hội của nhà
nước.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
18
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM
2.1. Các chính sách tiền tệ ở Việt Nam trong giai đoạn 2007 – 2008
2.1.1. Bối cảnh nền kinh tế trong giai đoạn 2007 – 2008:
Năm 2007:
Năm 2007 là năm đầu tiên Việt Nam trở thành thành viên chính thức của
WTO, thời gian một năm là quá ngắn để nhìn nhận và đánh giá đầy đủ tác động
của hội nhập tới tiến trình cải cách nền kinh tế Việt Nam. Những thuận lợi và khó
khăn mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt trong năm 2007 là tương đối rõ, dòng
vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều nhưng khả năng hấp thụ vốn còn hạn chế, hiệu
quả sử dụng vốn còn thấp. Tuy nhiên, cùng với các cam kết cải cách mạnh mẽ đã
góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế năm 2007 đạt mức 8,48% cao hơn mức
8,2% của năm 2006 và là mức cao nhất trong vòng 11 năm qua.
Mức tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là 12,63%, cao hơn mức 6,6% của năm
2006, lạm phát bình quân cũng tăng từ 7,45% lên 8,3%. Trong 10 nhóm hàng hóa
của rổ CPI thì có 7 nhóm hàng có mức tăng cao hơn cùng kỳ, lần lượt là nhóm
lương thực thực phẩm, nhà ở vật liệu xây dựng, hàng hóa dịch vụ khác, phương
tiện đi lại và bưu điện, đồ uống – thuốc lá, may mặc giày dép mũ nón, dược phẩm

y tế, còn ba nhóm hàng là thiết bị đồ dùng gia đình, văn hóa thể thao giải trí và
giáo dục có mức tăng thấp hơn cùng kỳ. Năm 2007 có thể thấy, trong cấu thành
CPI, thì chỉ số giá lương thực thực phẩm và CPI loại trừ lương thực thực phẩm
đều có mức tăng cao hơn cùng kỳ. Điều này cho thấy tác động của cú sốc bên
cung và sức ép bên cầu đều tăng cao. Tuy nhiên, nhóm lương thực thực phẩm
chiếm khoảng 65% mức tăng của lạm phát nên vẫn là động lực chủ yếu tác động
làm lạm phát tăng cao.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
19
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Nguyên nhân chủ yếu tác động làm lạm phát tăng mạnh là do:
 Tác động bất lợi của kinh tế toàn cầu, nhất là sự tăng giá
mạnh của các mặt hàng thiết yếu, như dầu thô, lương thực, thép…Trong
điều kiện mức độ mở của nền kinh tế Việt Nam với nền kinh tế lớn thể hiện
ở nhập khẩu chiếm tới 80% GDP, nền kinh tế đôla hóa và khoảng 70%
hàng xuất khẩu là có nguyên liệu từ hàng nhập khẩu thì việc giá thế giới
tăng sẽ tác động vào giá cả trong nước.
 Trong nước thời tiết diễn biến không thuận lợi, cùng với dịch
bệnh trong chăn nuôi, trồng trọt. Thiên tai hoành hành, cộng với chi phí sản
xuất đầu vào tăng cao gây ảnh hưởng bất lợi đến sản xuất nông nghiệp làm
giảm lượng cung lương thực, thực phẩm.
 Mở cửa thị trường tài chính tạo cơ hội tăng vốn cho đầu tư
phát triển, nhưng cũng làm tăng khối tiền trong nền kinh tế, đẩy tín dụng
của hệ thống ngân hàng lên cao và áp lực VND lên giá. Đây là tình trạng
phổ biến của hầu hết các quốc gia khi mở cửa thị trường tài chính. Để ổn
định tỷ giá, tăng dự trữ ngoại tệ, ngân hàng nhà nước đã cung tiền đồng để
mua ngoại tệ, đồng thời hút tiền về thông qua các công cụ chính sách tiền
tệ, nhưng do tình trạng đô la hóa còn hiện hữu ở Việt Nam nên tổng
phương tiện thanh toán và tín dụng vẫn tăng cao, gây áp lực lạm phát
 Các chính sách quản lý vĩ mô để kiểm soát lạm phát chưa

đồng bộ dẫn đến nhiều dự án đầu tư kém hiệu quả, chi tiêu công còn lớn
 Nhu cầu mở rộng sản xuất để tăng khả năng cạnh tranh doanh
nghiệp làm cho tín dụng tăng có tác động tích cực cho tăng trưởng kinh tế,
nhưng hiệu quả đầu tư chưa cao gây áp lực tăng giá
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
20
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Năm 2008:
Kinh tế-xã hội nước ta năm 2008 diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới
và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó lường. Giá dầu thô và giá nhiều
loại nguyên liệu, hàng hoá khác trên thị trường thế giới tăng mạnh trong những
tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở mức cao của hầu hết các mặt hàng trong
nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước trên thế giới; khủng hoảng tài chính toàn cầu
dẫn đến một số nền kinh tế lớn suy thoái, kinh tế thế giới suy giảm; thiên tai, dịch
bệnh đối với cây trồng vật nuôi xảy ra liên tiếp trên địa bàn cả nước gây ảnh
hưởng lớn đến sản xuất và đời sống dân cư.
Trước tình hình đó, Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ đã khẩn trương
xem xét tình hình và ban hành nhiều văn bản chỉ đạo liên quan đến phát triển kinh
tế-xã hội năm 2008 của đất nước như: Kết luận số 22/KL-TW ngày 04/4/2008 của
Bộ Chính Trị; Nghị quyết số 10/NQ-CP ngày 17/4/2008 của Chính phủ đề ra 8
nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh
xã hội và tăng trưởng bền vững; Kết luận số 25/KL-TW ngày 05/8/2008 của Bộ
Chính trị về tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2008 và các giải pháp chủ
yếu trong 6 tháng cuối năm nhằm thực hiện mục tiêu, chỉ tiêu kế hoạch kinh tế-xã
hội năm 2008; Nghị quyết số 20/2008/QH12 của Quốc hội về một số vấn đề kinh
tế-xã hội năm 2008 trong tình hình mới.
Nhờ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, quyết liệt của Đảng, Quốc hội, Chính
phủ; sự nỗ lực cố gắng và chủ động khắc phục khó khăn của các Bộ, Ngành, địa
phương, các tập đoàn, doanh nghiệp, các cơ sở sản xuất và của toàn dân nên kinh
tế-xã hội nước ta năm 2008 từng bước vượt qua khó khăn, thách thức, kinh tế có

bước tăng trưởng khá, lạm phát được kiềm chế, an sinh xã hội được bảo đảm,
nhiều vấn đế xã hội bức xúc đã tiếp tục được giải quyết có hiệu quả.
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
21
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Tăng trưởng kinh tế
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2008 theo giá so sánh 1994 ước tính
tăng 6,23% so với năm 2007, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng
3,79%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 6,33%; khu vực dịch vụ tăng 7,2%.
Trong 6,23% tăng trưởng chung của nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và
thuỷ sản đóng góp 0,68 điểm phần trăm; công nghiệp, xây dựng đóng góp 2,65
điểm phần trăm và dịch vụ đóng góp 2,9 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản
phẩm trong nước năm nay tuy thấp hơn tốc độ tăng 8,48% của năm 2007 và mục
tiêu kế hoạch điều chỉnh là tăng 7,0%, nhưng trong bối cảnh tài chính thế giới
khủng hoảng, kinh tế của nhiều nước suy giảm mà nền kinh tế nước ta vẫn đạt tốc
độ tăng tương đối cao như trên là một cố gắng rất lớn.
Bảng 1: Tổng sản phẩm trong nước năm 2008 theo giá so sánh 1994
Tốc độ tăng so với
năm trước (%)
Đóng góp của
mỗi khu vực vào
tăng trưởng 2008
(Điểm phần
trăm)
2006 2007 2008
Tổng số 8,23 8,48 6,23 6,23
Nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản 3,69 3,40 3,79 0,68
Công nghiệp và xây dựng
10,38 10,60 6,33 2,65

Dịch vụ 8,29
8,68 7,20 2,90
Nguồn : Ngân hàng nhà nước
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
22
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
Xét theo ngành kinh tế, mức tăng của khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ
sản năm 2008 cao hơn mức tăng năm 2007 và 2006, chủ yếu do sản xuất nông
nghiệp được mùa, sản lượng lúa cả năm tăng 2,7 triệu tấn so với năm 2007 và là
mức tăng cao nhất trong vòng 11 năm trở lại đây. Tăng trưởng khu vực công
nghiệp và xây dựng năm nay đạt mức thấp hơn mức tăng của năm 2007, chủ yếu
do sản xuất của ngành công nghiệp khai thác giảm nhiều so với năm trước (giá trị
tăng thêm giảm 3,8%); công nghiệp chế biến chiếm tỷ trọng 63,5% trong tổng giá
trị tăng thêm công nghiệp nhưng giá trị tăng thêm chỉ tăng 10%, thấp hơn mức
tăng 12,8% của năm 2007; đặc biệt giá trị tăng thêm của ngành xây dựng năm nay
không tăng, trong khi năm 2007 ngành này tăng ở mức 12%. Hoạt động của khu
vực dịch vụ tuy ổn định hơn so với khu vực công nghiệp và xây dựng nhưng giá
trị tăng thêm vẫn tăng thấp hơn mức tăng 8,7% của năm trước.
Xét theo các yếu tố sử dụng GDP năm 2008 thì tốc độ tăng của tích luỹ tài
sản cố định, tiêu dùng cuối cùng và xuất khẩu theo giá so sánh 1994 đều giảm so
với mức tăng của năm 2007. Tốc độ tăng tích lũy tài sản cố định năm 2008 giảm
mạnh, từ mức 24,4% của năm 2007 xuống còn 4,1%. Tốc độ tăng tiêu dùng cuối
cùng năm 2008 giảm cả ở khu vực nhà nước và hộ gia đình so với tốc độ tăng của
năm 2007, trong đó tiêu dùng cuối cùng của khu vực nhà nước giảm từ 8,9% năm
2007 xuống 7,5% năm 2008; tốc độ tăng tiêu dùng của khu vực hộ gia đình giảm
từ 10,7% xuống còn 8%. Xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ năm 2008 theo giá so
sánh tăng thấp so với năm 2007, chỉ ở mức 5,6%. So với GDP, xuất khẩu hàng hoá
và dịch vụ bằng 69,5% và nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ bằng 84%. Điều này cho
thấy kinh tế Việt Nam hiện đang là nền kinh tế có độ mở lớn và tốc độ mở nhanh,
do đó dễ bị ảnh hưởng từ những biến động của thị trường thế giới.

GDP tính theo giá thực tế năm 2008 tăng cao; với mức tăng trưởng và tăng
giá khác nhau ở ba khu vực nên cơ cấu kinh tế năm 2008 tăng ở khu vực nông,
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
23
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
lâm nghiệp và thuỷ sản và giảm ở khu vực công nghiệp, xây dựng. Tuy nhiên, xu
hướng này chỉ là tạm thời trong bối cảnh đặc biệt của năm 2008 với sự tăng chậm
lại của khu vực công nghiệp, xây dựng và giá nông lâm thuỷ sản tăng cao. Tỷ
trọng khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm 21,99% GDP; khu vực công
nghiệp và xây dựng chiếm 39,91%; khu vực dịch vụ chiếm 38,1%.
Giá tiêu dùng
Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng trước giảm 0,68%, trong đó
các nhóm hàng hoá và dịch vụ có giá giảm là: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống giảm
0,13%, trong đó lương thực giảm 2,36%; nhà ở và vật liệu xây dựng giảm 2,36%;
phương tiện đi lại, bưu điện giảm 6,77%. Giá các nhóm hàng hóa và dịch vụ khác
tăng nhẹ: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 1,01%; đồ uống và thuốc lá tăng
0,68%; văn hoá, thể thao, giải trí tăng 0,66%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng
0,6%; dược phẩm, y tế tăng 0,35%; giáo dục tăng 0,17%.
Giá tiêu dùng năm 2008 nhìn chung tăng khá cao và diễn biến phức tạp,
khác thường so với xu hướng giá tiêu dùng các năm trước. Giá tăng cao ngay từ
quý I và liên tục tăng lên trong quý II, quý III, nhưng các tháng quý IV liên tục
giảm (so với tháng trước, tháng 10 giảm 0,19%; tháng 11 giảm 0,76%, tháng 12
giảm 0,68%) nên giá tiêu dùng tháng 12 năm 2008 so với tháng 12 năm 2007 tăng
19,89% và chỉ số giá tiêu dùng bình quân năm tăng 22,97%.
Mặc dù giá tiêu dùng năm 2008 tăng khá cao, nhưng xu hướng diễn biến
theo chiều hướng tích cực vào các tháng cuối năm là do: Kết quả thực hiện đồng
bộ 8 nhóm giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
sinh xã hội và tăng trưởng bền vững, trong đó ưu tiên mục tiêu kiềm chế lạm phát
với giải pháp thắt chặt tiền tệ là nguyên nhân cơ bản giữ cho lạm phát thấp hơn
20%. Điều này cũng khẳng định những giải pháp mà Chính phủ đề ra là hoàn toàn

đúng hướng, kịp thời và đạt kết quả tích cực, giá tiêu dùng đã giảm dần từ tháng
SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
24
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD: Nguyễn Thị Liên Hoa
10 năm 2008; Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu hàng hoá khác trên thị
trường thế giới nước ta nhập khẩu với khối lượng lớn cũng đã giảm mạnh vào
những tháng cuối năm, tạo thuận lợi cho giảm giá đầu vào của sản xuất trong
nước; Tình hình sản xuất trong nước những tháng cuối năm cũng đã bớt khó khăn
hơn, do tiếp cận các nguồn vốn và mức độ giải ngân khá hơn.
Giá vàng tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 0,78%; so với tháng 12
năm 2007 tăng 6,83%. Giá vàng bình quân năm 2008 so với năm 2007 tăng
31,93%. Giá đô la Mỹ tháng 12/2008 so với tháng trước tăng 1,14%; so với cùng
kỳ năm trước tăng 6,31%. Giá đô la Mỹ bình quân năm 2008 so với năm 2007
tăng 2,35%
2.1.2. Các chính sách tiền tệ trong giai đoạn 2007 – 2008
a. Các chính sách tiền tệ:
Nội dung quan trọng nhất của chính sách tiền tệ là việc cung ứng tiền cho
nền kinh tế. Việc cung ứng tiền có thể thông qua con đường tín dụng, cũng có thể
thông qua hoạt động của thị trường mở (mua bán giấy tờ có giá), thị trường hối
đoái (mua bán ngoại tệ) và để điều tiết mức cung tiền, ngân hàng trung ương các
nước sử dụng các công cụ khác nhau như lãi suất, tỷ giá, dự trữ bắt buộc…
Chính vì thế mà chính sách tiền tệ tác động đến nền kinh tế là một điều hiển
nhiên, bởi nó sinh ra là để điều tiết tiền tệ, mà sự vận động của tiền tệ trong nền
kinh tế lại như máu lưu thông trong cơ thể con người. Không khó khăn nếu muốn
chứng minh vấn đề này, nhất là trong giai đoạn gần đây – chính phản ứng của thị
trường đối với những thay đổi của chính sách tiền tệ sẽ là biểu hiện rõ nhất về
những tác động của chính sách tiền tệ đối với nền kinh tế.
Giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2007, để đạt mục tiêu tăng trưởng – mục
tiêu được xếp hàng đầu trong nhiều năm liền, chính sách tiền tệ đã được nới lỏng
liên tục theo hướng: lãi suất ổn định (từ ngày 01/12/2005 – 01/02/2008, lãi suất cơ

SVTH: Phạm Minh Hoàng Trang
25

×