Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Cơ chế quản lý lãi suất tín dụng đối với ngân hàng thương mại và tín hiệu quả của nó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.48 KB, 27 trang )

Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
Lời nói đầu
Cùng với sự phát triển của Thế giới, Việt Nam đã và đang từng bước đi lên và đạt
được những thành tựu to lớn đặc biệt là lĩnh vực kinh tế. Với đà thắng lợi của đất nước
trong công cuộc đổi mới nền kinh tế ngành ngân hàng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ
và mục tiêu đổi mới của mình đã tiến được những bước quan trọng trong hệ thống các
công cụ quản lý lãi suất được coi là nhạy cảm nhất nó thực sự là vấn đề nóng bỏng nhất
thu hút được nhiều tầng lớp dân cư trong xã hội.
Lãi suất với tư cách là một trong những công cụ của chính sách tiền tệ được nhiều
nhà kinh tế quan tâm nghiên cứu và từ lâu được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng như
một công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Đặc biệt là trong cơ chế thị trường lãi suất trở
thành công cụ đắc lực để NHNN thực thi chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát triển thị
trường tiền tệ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngân hàng và sự phân bổ có hiệu quả
các nguồn vốn trong nền kinh tế. Trong từng thời kỳ nhất định cho nên việc thi hành một
cơ chế lãi suất thích hợp là vô cùng phức tạp mà vai trò đó thuộc ngân hàng nhà nước. Để
đáp ứng nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của nền kinh tế thị trường các nghiệp vụ của ngân
hàng thương mại đã không ngừng đổi mới và phát triển để phù hợp với điều kiện thực tiễn
của đất nước. Với trọng trách to lớn đó NHNN đã thường xuyên điều chỉnh lãi suất cho
phù hợp phát triển khả năng linh hoạt của các Ngân hàng thương mại.
Trước những xáo trộn của thị trường tiền tệ, cơ chế quản lý lãi suất tín dụng của
Ngân hàng Nhà nước trong thời gian qua đã và đang đem lại những kết quả tích cực, góp
phần ổn định nền kinh tế. Xuất phát từ những vấn đề mang tính thời sự của lãi suất trên cơ
sở những kiến thức đã học cùng với những kiến thức trong khuân khổ tài liệu cho phép,
chúng em xin trình bày đề tài: “Cơ chế quản lý lãi suất tín dụng đối với ngân hàng
thương mại và tín hiệu quả của nó”.
1
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Những vấn đề chung về lãi suất:
- Quan niệm về lãi suất:
• Lãi suất có vai trò đặc biệt quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ quốc gia tuy


nhiên việc nhận biết bản chất vai trò của lãi suất để sử dụng nó như một công cụ tiền tệ
đặc biệt quan trọng vẫn còn nhiều vấn đề cần được làm rõ hơn.
• Có quan niệm cho rằng tỷ lệ % tăng thêm mà người sử dụng vốn vay phải trả cho
người vay đối với một khoản tiền vay nào đó được gọi là lãi suất. Với quan niệm này thì
với người cho vay lãi suất là một khoản thu nhập và với người đi vay thì lãi suất là 1
khoản chi phí. Như vậy bản chất kinh tế ở đây nên được hiểu như thế nào? Rõ ràng lãi
suất là một loại giá mà với người cho vay thì nó là thu nhập còn với người sử dụng vốn
vay thì nó lại là chi phí. Từ thực tiễn đó mà còn có quan niệm cho rằng lãi suất là giá
của quyền sử dụng vốn vay trong 1 thời gian nhất định mà người sử dụng vốn vay phải
trả cho người vay.
- Khái niệm :
Lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn trong một thời gian nhất định mà
người sử dụng trả cho nguươì sở hữu nó.
Lãi suất phải được trả bởi lẽ người đi vay đã sử dụng vốn của người cho vay phục
vụ nhu cầu sinh lợi trong sản xuất kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng của mình . việc
người cho vay chuển quyền sử dụng vốn cho người khác có nghĩa là anh đã hy sinh quyền
sử dụng tiền tệ ngày hôm nay của mình . Đánh đổi cho sự chuyển quyền đó là quền người
cho vay được trả lãi suất.
1.2. Phân loại:
1.2.1. Phân loại theo chủ thể trong quan hệ tín dụng
Lãi suất được chia thành các loại sau:
 Lãi suất tín dụng thương mại được áp khi các doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình
thức mua bán chịu hàng hóa tùy theo thời hạn mua bán chịu, cung cầu về mua bán
chịu và mức độ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp tham gia quan hệ mà có mức lãi suất
tín dụng khác nhau.
 Lãi suất tín dụng ngân hàng áp dụng trong quan hệ giữa ngân hàng với công chúng và
DN trong việc thu hút tiền gửi và cho vay, trong hoạt động tái cấp vốn của NHTW
cho các NH, và trong quan hệ giữa các NH với nhau trên thị trường liên NH.
 Lãi suất tiền gửi được áp dụng để tính tiền lãi cho người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có
nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn gửi, quy mô gửi. Sự biến động lãi suất

tiền gửi ở mức độ lớn không chỉ ảnh hưởng đến quy mô của NH mà còn ảnh hưởng
đến khối tiền M1 và qua đó tới lạm phát. Chính vì vậy, việc áp dụng chính sách tăng
mạnh lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế, đẩy lùi lạm phát.
 Lãi suất tiền vay được áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho ngân
hàng. Sự thay đổi lãi suất tiền vay có tác động đến quy mô cho vay và khả năng cung
2
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
ứng tiền của hệ thống NHTG. Vì cơ chế này mà NHNN có thể thực hiện mục tiêu nới
lỏng hoặc thắt chặt cung ứng tiền bằng cách ảnh hưởng tới lãi suất tiền vay của các
ngân hàng áp dụng với nền kinh tế.
 Lãi suất chiết khấu là một lãi suất cho vay áp dụng cho NHTG, cho khách hàng vay
dưới hình thức chiết khấu giấy tờ có giá chưa đến hạn thanh toán và thỏa mãn các
điều kiện chiết khấu theo quy định. Nó được tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá của các
giấy tờ có giá và được khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay cho khách hàng.
Mức chiếu khấu được quy định bởi cung cầu vốn trên thị trường tín dụng.
 Lãi suất tái cấp vốn áp dụng khi NHNN tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức
chiết khấu lại các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán của các ngân hàng
hoặc cho vay cầm cố các giấy tờ có giá.
 Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị
trường liên ngân hàng.
 Lãi suất cơ bản là lãi suất được các ngân hàng sử dụng làm cơ sở để ấn định mức lãi
suất kinh doanh của mình, lãi suất cơ bản được hình thành tùy theo từng nước có thể
do NHNN ấn định hoặc do bản thân các ngân hàng tự xác định tùy vào tình hình hoạt
động cụ thể của ngân hàng mình và đó là mức lãi suất được áp dụng cho khách hàng
có mức rủi ro thấp nhất…
 Lãi suất tín dụng nhà nước áp dụng khi nhà nước đi vay của các chủ thể khác nhau
trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu hoặc tín phiếu. Loại lãi suất này có
thể do nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng và các
yếu tố khác: sự biến động của lạm phát, nhu cầu cấp thiết về vốn của nhà nước…
hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu tín phiếu, trái phiếu nhà nước.

 Lãi suất tín dụng doanh nghiệp áp dụng khi doanh nghiệp đi vay của các chủ thể khác
trong xã hội dưới hình thức phát hành trái phiếu. Lãi suất này do các doanh nghiệp ấn
định hoặc được hình thành thông qua hoạt động đấu thầu trái phiếu trên thị trường
chứng khoán.
 Lãi suất tín dụng tiêu dùng: áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động vay phục
vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân .
1.2.2. Phân loại theo giá trị thực của lãi suất (hay theo mối quan hệ giữa lạm
phát và lãi suất)
- Lãi suất danh nghĩa : Là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào thời điểm
nghiên cứu hay nói cách khác là loại lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát .
Lãi suất thực tế là lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi về lạm
phát .Hay nói cách khác là lãi suất đã loại trừ đi tỷ lệ lạm phát
- Lãi suất thực của hai loại
+ Lãi suất thực tính trước ( dự tính ): là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng
theo đúng những thay đổi dự tính về lạm phát
+ Lãi suất thực tính sau : là lãi suất thực được điều chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi trên thực tế về lạm phát
Lãi suất danh nghĩa = lãi suất thực + tỷ lệ lạm phát
Hoặc Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát
3
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
1.2.3. Phân loại theo bản chất hợp đồng tài chính :
Lãi suất được chia làm hai loại:
- Lãi suất ổn định: là lãi suất áp dụng cố định trong suất thời hạn vay. Nó có ưu điểm:
Người gửi tiền và vay tiền biết trước số tiền lãi được trả và phải trả. Bên cạnh đó nó có
nhược điểm bị ràng buộc vào một lãi suất nhất định trong một thời hạn nào đó dù cho các
loại lãi suất khác thay đổi như thế nào.
- Lãi suất thả nổi: Là lãi suất có thể thay đổi lên xuống và có thể báo trước hoặc không
báo trước. Lãi suất thả nổi có lợi cho cả hai bên khi nhận và trả tiền đều tính theo một lãi
suất chung là lãi suất hiện tại.

1.2.4. Phân loại theo cách đo lường lãi suất:
- Lãi suất đơn là lãi suất tính một lần trên số vốn gốc cho suất kỳ hạn vay
Công thức tính : I = C
o
. i . n
( trong đó I số tiền lãi , C
o
vốn gốc , i là lãi suất , n số kỳ )
Trong đó thời kỳ gửi vốn phải tương đương với thời kỳ của lãi suất
- Lãi suất kép là mức lãi suất có tính đến giá trị đầu tư lại của lợi tức thu được trong thời
hạn sử dụng tiền vay. Nó thường được áp dụng cho các khoản đầu tư có nhiểu kỳ hạn
thanh toán trong đó lãi suất của kỳ trước được nhập vào vốn gấp để tính lãi suất kỳ sau.
Công thức : C = C
o
x ( 1-i)
n
Trong đó: C số tiền thu được theo lãi gộp sau n kỳ, C
o
vốn gốc ban đầu, i lãi suất n
số kỳ gửi vốn
1.3. Vai trò của lãi suất :
Trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp vai trò của lãi suất
được nhìn nhận một cách hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều khi được hiểu như là một sự
phân phối cuối cùng của sản phẩm giữa những người sản xuất và người cho vay
Chuyển sang nền kinh tế thị trường lãi suất giữ vai trò hết sức quan trọng là một
trong những đòn bẩy kinh tế .Nó tác động đến tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân
nói chung vai trò của lãi suất được thể hiện ở nội dung sau đây .
1.3.1. Lãi suất là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư
Lãi suất là công cụ khuyến khích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiết kiệm
của các chủ thể kinh tế tạo nên quỹ cho vay đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế.

Theo lý thuyết tài chính chúng ta có thể đưa ra phương trình về thu nhập như sau:
Thu nhập = Tiêu dùng + Tiết kiệm
Phương trình này không những đúng với đặc điểm tài chính của các hộ gia đình
các doanh nghiệp mà còn đúng với cả nền kinh tế quốc gia .Giả trong điều kiện của một
nền kinh tế bình thường tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm là hợp lý để tăng tỷ lệ tiết kiệm
cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân thì biện pháp hiệu quả là tăng lãi suất huy động vốn
.Khi lãi suất vốn tăng nên thì trước hết các hộ gia đình phải xem xét các khoản chi cho
tiêu dùng thường xuyên có thể giảm chi hoặc hoãn một số khoản chi để tăng thêm khoản
tiết kiệm trong tổng thu nhập. Sau từ khoản tiết kiệm này họ sẽ hướng đầu tư gửi vào
Ngân hàng, vào quỹ bảo hiểm hay đầu tư vào thị trường trứng khoán khi thấy có lợi hơn.
4
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
Ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới nền kinh tế vốn dang là vấn đề then chốt.
Muấn huy động được vốn phải có biện pháp gọi vốn. Vấn đề là cần duy trì một mức lãi
suất như thế nào để huy động tối đa vốn nhàn rỗi trong xã hội.
1.3.2. Lãi suất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Chính sách lãi suất là một bộ phận trong chính sách tiền tệ của Nhà nước nhằm
điều tiết lưu thông tiền tệ kích thích điều tiết và hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của
các đơn vị kinh tế
- Lãi suất phải trả cho khoản vay là khoản chi phí của doanh nghiệp. Do vậy ,lãi suất sẽ
khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Ngược lại,
lãi suất cho vay cao sẽ thu hẹp đâu tư của các doanh nghiệp.
- Lãi suất là công cụ buộc các doanh nghiệp phải sử dụng hiệu quả . những ưu đãi về lãi
suất về điều kiện cung cấp tín dụng và thanh toán là công cụ của Nhà nước nhằm khuyến
khích các doanh nghiệp đầu tư vào các nghành các sản phẩm cần ưu tiên trong chiến lược
phát triển kinh tế.
1.3.3. Lãi suất là công cụ điều tiết vĩ mô
Lãi suất tạo nên khoản chi phí của người đi vay vì vậy sự biến động của lãi suất có
tác động đến đầu tư đến tiêu dùng qua đó tác động đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô
biểu hiện trong các trường hợp:

- Lãi suất thấp → kích thích đầu tư , kích thích tiêu dùng → tăng tổng cầu → sản lượng
tăng, giá tăng, thất nghiệp giảm→ nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.
- Lãi suất cao → hạn chế đầu tư , hạn chế tiêu dùng → giảm tổng cầu → sản lượng giảm
→giảm giá → thất nghiệp tăng → nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại tệ.
Như vậy, bằng cách tăng lãi suất Ngân hàng Nhà nước có thể làm giảm khả năng
cho vay của Ngân hàng Thương mại do đó thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt giảm bớt
khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu
dùng . Cũng như vậy, bằng cách hạ thấp lãi suất Ngân hàng Nhà nước có thể tạo điều kiện
cho các hoạt động kinh tế phát triển hoặc muốn kìm hãm tốc độ phát triển một nghành
nghề nào đó, Ngân hàng Nhà nước có thể tăng hoặc giảm lãi suất cho vay để thu hẹp hoặc
mở rộng đầu tư của các nghành nghề .
Từ năm 1989 đến nay ,chính sách lãi suất luân được sử dụng để điều chỉnh kinh tế
ở Việt Nam .Sau khi kiềm chế và giữ được lạm phát ở mức độ tương đối ổn định , Ngân
hàng Nhà nước danh thực hiện hạ thấp dần khung lãi suất để khuyến hích huy động đầu tư
và mở rộng sản xuất kinh doanh khôi phục kinh tế .
1.3.4. Lãi suất tín dụng là công cụ khuyến khích cạnh tranh giữa các ngân
hàng thương mại:
Trong khung lãi suất cho phép, để tăng khối lượng nguồn vốn huy động đồng thời
để mở rộng quan hệ tín dụng với khách hàng, các NHTM có thể nâng mức lãi suất tiền gửi
và hạ lãi suất cho vay. Đây chính là hoạt động cạnh tranh giữa các NHTM. Thực chất của
quá trình này là phân chia khối lượng tiền gửi và mở rộng phạm vi ảnh hưởng của ngân
hàng ra thị trường. Để đảm bảo cạnh tranh thắng lợi, mỗi NHTM đều có chiến lược khách
hàng của mình. Chiến lược này được thực hiện bằng lãi suất ưu đãi. Muốn vậy các NHTM
đều tìm mọi biện pháp giảm thấp chi phí kinh doanh và chi phí quản lý. Sự cạnh tranh
lành mạnh giữa các NHTM sẽ tạo ra lợi ích kinh tế chung cho toàn bộ nền kinh tế quốc
dân.
5
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
1.3.5. Lãi suất là công cụ đo lường tình trạng của nền kinh tế:
Người ta thấy rằng trong giai đoạn phát triển của nền kinh tế lãi suất có xu hướng

tăng do cung cầu quỹ cho vay đều tăng trong đó tốc độ tăng của cầu quỹ cho vay lớn hơn
tốc độ tăng của cung quỹ cho vay.
Ngược lại, trong giai đoạn suy thoái của nền kinh tế lãi suất lại có xu hướng giảm
xuống.
Do vậy, thông thường nhìn vào xu hướng biến động của lãi suất ta thấy được tình
trạng sưc khỏe của nền kinh tế.
Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biến
động đó của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính
sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính mức thiếu hụt của ngân sách người ta
có thể dựa vào lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai.
1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
1.4.1. Mức cung cầu tiền tệ
-Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán trên thị trường. Các
nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm: M1 là tổng số tiền kim khí và tiền
giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và
định nghĩa rộng hơn (M2) bao gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài
tiền kim khí, tiền giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc. Quyền kiểm soát mức
cung tiền tệ được dành cho Chính phủ, bởi vì hạn chế mức cung tiền tệ là điều cần thiết
để tiền có giá trị.
- Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân, đơn vị, tổ chức để làm phương tiện giao dịch,
trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ…
Công chúng (các gia đình và các hàng kinh doanh) muốn giữ lượng tiền M1 khác nhau ở
những mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn hơn. Giao điểm giữa
cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng. Đây là mức lãi suất ở điểm số lượng
tiền do ngân hàng trung ương đề ra làm mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng
muốn nắm giữ. Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến lãi suất.
*Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ: khi ngân hàng trung ương muốn
kiềm chế lạm phát, sẽ thực hiện một chính sách thắt chặt tiền tệ thông qua công cụ của nó
(thay đổi tăng mức dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất chíết khấu, giảm hạn mức tín dụng).
Làm cho lãi suất tăng, mức đầu tư sẽ giảm, mức cầu tiền tệ giảm, các nhà doanh nghiệp

và các gia đình cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ.
*Chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ: khi ngân hàng trung ương lo sợ
sắp có suy thoái sẽ tăng mức cung tiền tệ bằng cách bơm tiền vào lưu thông qua các công
cụ của chính sách tiền tệ, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn,
lãi suất giảm. Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư mới trở nên có lợi hơn, số tiền
chi tiêu về nhà máy, thiết bị, kho hàng tăng lên, người tiêu dùng có khuynh hướng mua
nhiều hàng hơn…Vốn đầu tư tăng, tổng mức cầu tăng lên tạo ra thăng bằng trên thị
trường.
Ngoài ra những thay đổi dự định trong cầu tiền tệ (không phải do sự thay đổi trong mức
giá cả, tổng sản phẩm, hoặc lãi suất gây ra) cũng ảnh hưởng đến lãi suất cân bằng.
Nghiên cứu nhân tố cung cầu tiền tệ tác động qua lại đến lãi suất có một ý nghĩa quan
trọng đối với các nhà hoạch định chính sách tiền tệ. Khi nào thì ngân hàng trung ương
6
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
bơm tiền ra lưu thông, khi nào thì hút tiền từ lưu thông về để điều chỉnh lãi suất thị
trường một cách hợp lý, trên cơ sở đó ổn định thị trường, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền
kinh tế, giảm lạm phát.
1.4.2. Lạm phát:
Khi lạm phát tăng, dù ở từng mức lãi suất riêng lẻ hay ở tất cả mọi lãi suất, yếu tố kích
thích làm tăng cung quỹ cho vay gần như triệt tiêu bởi giá trị thực tế của vốn gốc và tiền
lời thu được đã bị hao mòn do tác động của lạm phát. Trong tình hình ấy những người có
khả năng cho vay không muốn giữ tiền mặt, đổ xô đi mua hàng hóa dự trữ vàng, ngoại tệ.
Điều đó dẫn đến cung quỹ cho vay giảm, dẫn đến lãi suất tăng. Hoặc khi lạm phát tăng,
không chỉ làm giảm độ lớn của cung mà còn kéo theo việc tăng thêm quy mô về cầu quỹ
cho vay. Bởi với lãi xuất danh nghĩa cho trước, khi lạm phát dự tính tăng lên, chi phí thực
của việc vay tiền giảm xuống , kích thích người ta đi vay hơn là cho vay. Người đi vay sẽ
kiếm được khoản thu lợi do giá hàng hóa được mua bằng tiền đi vay sẽ tăng lên, lãi suất
tăng.
Theo Friedman, ông cho rằng trong mọi trường hợp tỷ lệ lạm phát của một nước là cực
kỳ cao trong bất cứ thời kỳ kéo dài nào, thì tỷ lệ tăng trưởng của cung ứng tiền tệ là cực

kỳ cao.
Tóm lại, khi lạm phát dự tính tăng, lãi suất tăng. Điều này có một ý nghĩa quan trọng
trong việc dự đoán lãi suất khi nền kinh tế có xu hướng lạm phát tăng. Trên cơ sở đó, có
một chính sách lãi suất hợp lý. Khi lạm phát cao, nhà nước cần phải nâng lãi suất danh
nghĩa, đảm bảo cho lãi suất thực dương, hoặc nhà nước tung vàng, ngoại tệ ra bán để
kiềm chế lạm phát.
Nhiều nhà kinh tế đã khuyến nghị rằng cuộc chiến chống lạm phát nhất định sẽ thất bại
nếu chúng ta muốn hạ thấp lãi suất.
1.4.3. Sự ổn định của nền kinh tế
- Ảnh hưởng đến cung tiền vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển, của cải tăng lên,
công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu cầu sử dụng, họ muốn đầu tư
vào những tài sản thay thế có lợi tức dự tính cao: đầu tư vào các trái khoán công ty. Bởi
vì khi nền kinh tế ổn định, thị trường trái khoán trở nên ổn định hơn, rủi ro trái khoán
giảm, trái khoán trở thành một tài sản hấp dẫn hơn, vì vậy cung tiền vay tăng lên, đường
cung dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng giảm.
- Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất là trong giai
đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, các công ty càng có nhiều ý định vay vốn và
tăng số dư nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư được trông đợi là sinh lời. Cầu tiền vay
tăng lên, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.
Khi đường cung và đường cầu tiền vay tăng lên và dịch chuyển về bên phải, sẽ đạt được
một điểm cân bằng mới về bên phải. Tuy nhiên nếu đường cung dịch chuyển nhiều hơn
đường cầu thì lãi suất cân bằng mới có xu hướng giảm xuống, ngược lại, nếu đường cầu
dịch chuyển nhiều hơn thì lãi suất cân bằng mới tăng lên.
Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, nhà nước nên sử dụng các công cụ
lãi suất để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát triển cho sự cân đối của nền kinh
tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị trường trái khoán.
7
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
1.4.4. Các chính sách của Nhà nước:
Mục tiêu của nền kinh tế phát triển là:

-Tạo ra sản lượng cao, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân.
-Đạt tỷ lệ người có công ăn việc làm cao, tỷ lệ thất nghiệp thất.
-Đảm bảo ổn định giá cả trong điều kiện thị trường tự do hoạt động.
Để đạt được mục tiêu trên, Nhà nước phải sử dụng các công cụ bằng các chính sách có
thể điều chỉnh tốc độ và phương hướng của hoạt động kinh tế. Quá trình thực hiện các
chính sách của Nhà nước đều tác động lãi suất cân bằng trên thị trường.
*Chính sách tài chính: bao gồm chi tiêu của chính phủ và thuế khóa. Chi tiêu của
chính phủ là một nhân tố then chốt định mức tổng chi tiêu.
Khi nhà nước thực hiện một chính sách tài chính bành trướng (tăng chi tiêu của Chính
phủ và giảm thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường hàng hóa và thị trường
tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.
Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu dịch chuyển về
bên phải, khi chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập hơn được sẵn sang để chi tiêu
và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chi tiêu, tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản
phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.
Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng hạn việc giảm
thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu tư vào máy móc, nhà máy,
tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển
về bên phải, lãi suất tăng lên.
*Chính sách tiền tệ: với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng trung
ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của một quốc gia. Với
công cụ lãi suất, ngân hàng trung ương có thể điều tiết hoạt động của nền kinh tế vĩ mô
bằng các phương pháp sau:
- Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều chỉnh lãi suất để điều
chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín
dụng nhằm thực hiện được mục tiêu giảm lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời
kỳ.
- Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu: ngân hàng trung
ương tái chiết khấu các chứng từ do ngân hàng thương mại xuất trình với điều kiện ngân
hàng phải trả một lãi suất nhất định do ngân hàng trung ương đơn phương quy định.

Mỗi khi lãi suất chiết khấu thay đổi có xu hướng làm tăng hay giảm chi phí cho vay của
ngân hàng trung ương đối với ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng do đó
khuyến khích hay cản trở nhu cầu vay vốn. Vì vậy thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết
khấu, ngân hàng trung ương có thể khuyến khích mở rộng hay làm giảm khối lượng tín
dụng mà ngân hàng thương mại cấp cho nền kinh tế. Do thay đổi lãi suất chiết khấu, ngân
hàng trung ương có thể tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết khấu
cao hay thấp sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân
hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.
- Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thị trường mở: có nghĩa là ngân hàng trung
ương thực hiện việc mua bán giấy tờ có giá trên thị trường chứng khoán. Nhiệm vụ chính
8
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
của chính sách thị trường mở là điều hòa cung cầu về các chứng phiếu có giá để tác động
vào các ngân hàng thương mại trong việc cung cầu tiền tệ, cung ứng tín dụng.
- Ngân hàng trung ương tăng hay giảm mức dự trữ bắt buộc: khi tỷ lệ dự trữ tăng lên ức
là ngân hàng trung ương quyết định giảm bớt số vốn khả dụng của ngân hàng kéo theo
những khó khăn ngân quỹ cho các ngân hàng, hạn chế tín dụng của ngân hàng và ngược
lại. Do đó cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất trên thị trường.
*Chính sách thu nhập: đó là chính sách về giá cả và tiền lương. Nếu mức giá cả
giảm mà cung tiền tệ không thay đổi, giá trị của đơn vị tiền tệ theo giá trị thực tế tăng,
bởi vì nó có thể dùng để mua nhiều hàng hóa và dịch vụ hơn. Do vây cũng như ảnh
hưởng của một sự tăng lên trong cung tiền tệ khi mức giá được giữ cố định, làm lãi suất
giảm. Ngược lại một mức giá cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm tăng
lãi suất. Như vậy một sự thay đổi về chính sách giá cả cũng làm thay đổi lãi suất.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền lương, khi tiền lương
tăng làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị sản phẩm tại một mức giá
cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm.
*Chính sách tỷ giá: bao gồm các biện pháp liên quan đến việc hình thành quan hệ
về sức mua giữa tiền của nước này so với một ngoại tệ khác, nhất là đối với các ngoại tệ
có khả năng chuyển đổi.

Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu hàng hóa của một
nước. Khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng
chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu
cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng
tiền cung ứng để đảm bảo cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Vì vậy khi thấy đồng tiền của nước mình sụt giá, ngân hàng trung ương sẽ theo đuổi một
chính sách tiền tệ thặt chặt hơn, giảm bớt cung tiền tệ, năng lãi suất trong nước, làm cho
đồng tiền của mình vững mạnh.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu, nền công nghiệp
trong nước có thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên, kích thích nhập khẩu. Lượng
tiền tệ tăng do với một tỷ giá thấp, với một lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ
nhiều hơn, kích thích đầu tư vào sản xuất, lãi suất tăng lên. Như vậy khi có một sự cạnh
tranh giữa nền công nghiệp trong nước với công nghiệp nước ngoài tăng lên, có thể gây
áp lực buộc ngân hàng trung ương phải theo đuổi một tỷ lệ tăng trưởng tiền tệ cao hơn
nhằm hạ thấp tỷ giá.

Chương 2: CƠ CHẾ QUẢN LÝ LÃI SUẤT
TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM
9
Nhóm 5_DH8NH Môn: Tiền Tệ - Ngân hàng
2.1. Giai đoạn Từ ngày 01/6/2002 – 19/5/2008:
Các NHTM thực hiện theo cơ chế lãi suất thoả thuận theo quyết định số 546/2002/QĐ-
NHNN ngày 30/5/2002 lãi suất cho vay được hoàn toàn thả nổi theo nguyên tắc tự do
thỏa thuận giữa bên đi vay và NHTM. Thị trường tài chính ngân hàng ổn định, nền kinh
tế phát triển tốt, lạm phát thấp, DN làm ăn có hiệu quả.
Lần đầu tiên, lãi suất cơ bản được giữ vững trong khoảng thời gian khá dài ở mức
8,25%/năm từ 1/12/2005 đến cuối tháng 1/2008 đã giúp ngành ngân hàng đã có bước tiến
dài về môi trường pháp lý. Cơ chế tín dụng, cơ chế bảo đảm tiền vay được hoàn thiện
theo hướng một mặt tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, doanh nghiệp vay vốn.
Mặt khác, mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng, bảo đảm

an toàn cho toàn hệ thống. Chính sách tiền tệ được điều hành một cách thận trọng, linh
hoạt và phù hợp với diễn biến thực tế. Chính vì vậy việc cho áp dụng lãi suất thỏa thuận,
là bước đột phá để thực hiện tự do hóa lãi suất, lãi suất trên thị trường vẫn tương đối ổn
định. Lãi suất VND có xu hướng tăng nhẹ phản ánh đúng quan hệ cung cầu. Chênh lệch
giữa VND và USD khá rộng, khoảng 5%/năm, nhờ đó đã hạn chế chuyển dịch từ VND
sang USD. Nhưng vào ngày 1/2/2008 thì NHNN đã quyết định điều chỉnh tăng mức lãi
suất cơ bản từ 8,25% lên 8,75%/năm.
Đầu năm 2008, với hàng loạt các biện pháp kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã
đưa ra Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN về việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm rút
bớt tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán và
tăng trưởng dư nợ tín dụng phù hợp với các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Theo Quyết định,
Ngân hàng Nhà nước sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các
loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống. Tiếp đó là quyết định số
346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới
hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng. Chính sách
thắt chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước đã gay ra sự căng thẳng về thanh khoản của các
ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại phải đối mặt với khó khăn thiếu hụt
nguồn cung tiền đồng sau những quyết định của Ngân hàng Nhà nước. Tình trạng thiếu
hụt tiền đồng của các ngân hàng thể hiện qua việc lãi suất cho vay qua đêm của các ngân
hàng trong vòng một tháng qua đã có lúc lên tới 30%. Điều này đã đẩy các ngân hàng đến
chỗ đua nhau tăng lãi suất huy động. Dẫn đến lãi suất huy động VND có kỳ hạn biến
động mạnh nhất từ trước tới nay. Cuộc chạy đua bùng phát trong tháng 5 và tạo những
đỉnh điểm nóng sốt trong tháng 6. Trên thị trường liên ngân hàng, lãi suất ghi nhận kỷ lục
“treo” tới 43%/năm; nhiều thành viên đồng loạt đẩy mức huy động trong dân cư lên tới
trên 19%/năm, cá biệt có trường hợp áp tới 20%/năm. Đó cũng là thời điểm mà hoạt động
cho vay của nhiều ngân hàng thương mại cầm chừng, doanh nghiệp vay vốn khó khăn cả
về lãi suất cao lẫn khả năng tiếp cận vốn, tín dụng tiêu dùng gần như bị cắt bỏ, tốc độ
tăng trưởng tín dụng bước vào vùng thấp nhất trong năm (liên tục tăng dưới 1%/tháng; cả
năm ước chỉ tăng khoảng 21% thay vì mức dự kiến khống chế 30%). Trước tình hình đó,

Ngân hàng Nhà nước đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số
02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 nhằm hạn chế cuộc đua này. Đặc biệt, trong lần điều
chỉnh ngày 19/5 (lên 12%), lãi suất cơ bản được trả lại đúng chức năng của nó, trở thành
một cơ sở để xác định hành lang pháp lý cho lãi suất cho vay của các ngân hàng thương
mại, thay vì xơ cứng và mờ nhạt trước đó.
2.2. Giai đoạn từ 19/05/2008 đến nay:
Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản. Cơ chế này linh hoạt hơn cơ chế lãi
10

×