Luận văn
Những định hướng chiến lược phát triển
kinh tế Việt Nam trong những năm tiếp
theo
1
MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU…………………………………………………………. 2
PHÀN I: NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾVIỆT NAM……………… 3
1. KẾT QUẢ KINH TẾ VIỆT NAM TRONG
NHỮNG NĂM QUA……………………………………………
4
1.1.Tăng trưởng kinh tế qua các năm………………………………
4
1.2.Những thành công trong tăng trưởng kinh tế khác…………….
7
KẾT LUẬN PHẦN I…………………………………………………….
1
0
PHẦN II MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM……
11
2.1. BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA MÔ HÌNH KINH
TẾ VIỆT NAM………………………………………………………
11
2.2. ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM…………………
12
2.2.1 Xuất khẩu tài nguyên chiểm tỷ trọng lớn……………………….
12
2.2.2. Lao động trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam………………
13
2.2.3 Tỷ lệ phân phối vốn đầu tư……………………………………
15
2.3 HỆ QUẢ CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM…………………
17
KẾT LUẬN PHẦN 2…………………………………………………….
19
PHẦN 3NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH
TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO…………………
2
0
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN……………………
22
3.1.1. Quan điểm………………………………………………………
22
3.1.2. Mục tiêu…………………………………………………………
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐỔI MỚI
22
2
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG ………………………………………………………
3.2.1. Các mất cân đối kinh tế vĩ mô…………………………………
24
3.2.1. Nút thắt vi mô…………………………………………………….
25
3.2.3.Tạo lập nền tảng để tiến lên mức thu nhập trung bình và xa hơn
nữa…………………………………………………………………
26
Những kiến nghị chính sách…………………………………………….
26
KẾT LUẬN……………………………………………………………
3
0
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………….
31
3
LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển, thuộc
nhóm nước có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Duy trì được tốc độ tăng
trưởng trung bình khoảng 7% một năm. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược
phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, chúng ta đã tranh thủ thời cơ, thuận lợi,
vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất là những tác động tiêu cực của hai
cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được những
thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát
triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.
Diện mạo của đất nước có nhiều thay đổi. Thế và lực của nước ta vững
mạnh thêm nhiều; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo
ra những tiền đề quan trọng để đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hóa và
nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng nhanh là một hiện thực, không
chỉ dưới con mắt người nước ngoài, cũng không chỉ dưới lăng kính kinh tế vĩ
mô, mà sự tăng trưởng này còn có thể được cảm nhận ở đại bộ phận hộ gia
đình và các tế bào của nền kinh tế. Thế thì tại sao lại phải lo lắng và hoài nghi
về triển vọng tăng trưởng ? Vấn đề là ở chỗ, liệu chúng ta đã phát huy hết
tiềm năng tăng trưởng của quốc gia hay chưa ? Chất lượng, hiệu quả tăng
trưởng phát triển của chúng ta ra sao? Chúng ta có thể tiếp tục duy trì tốc độ
tăng trưởng cao trong những năm tới hay không ?
Cũng trong bản báo cáo về Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt
Nam, Giáo sư Michael Porter đưa ra nhận xét: “Nếu Việt Nam tiếp tục tăng
trưởng theo kiểu cũ, tức là dựa chủ yếu vào đặc điểm địa lý hay dân cư thì
không có nghĩa là khủng hoảng sẽ đến vào năm sau. Tuy nhiên các bạn chắc
chắn không thể duy trì mô hình này trong vòng 5-10 năm tới”.
Qua thực tế quá trình tăng trưởng phát triển kinh tế của Việt Nam và
nhận xét của Giáo sư Michael Porter chúng ta thấy Việt Nam hiện chủ yếu
vẫn dựa vào những “lợi thế tự nhiên được thừa hưởng”, gồm tài nguyên thiên
4
nhiên, vị trí địa lý và đặc điểm dân số. Trong vòng 20 năm qua, Việt Nam đã
sử dụng các lợi thế tự nhiên để phát huy thông qua việc mở cửa thị trường và
đầu tư vào cơ sở hạ tầng cơ bản , cần nhìn nhận đánh giá quá trình tăng
trưởng kinh tế trong những năm qua và rút ra những định hướng cho sự phát
triển bền vững nền kinh tế Việt Nam trong tương lai.
Chuyên đề bàn luận về ý kiến Giáo sư Michael Porter được chia làm 3
phần:
Phần I: Tổng quan về kinh tế Việt Nam
Phần II: Những đặc điểm cơ bản trong mô hình tăng trưởng kinh tế
Việt Nam
Phần III: Những định hướng chiến lược phát triển kinh tế Việt Nam
trong những năm tiếp theo
5
PHẦN I: NHỮNG THÀNH TỰU KINH TẾVIỆT NAM
1. KẾT QUẢ KINH TẾ VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM QUA
Nâng cao mức sống, hay mức độ thịnh vượng, là mục tiêu cuối cùng
của phát triển kinh tế. Trên thực tế, nhiều bản kế hoạch kinh tế, kể cả chiến
lược mười năm của Việt Nam đang được thảo luận gần đây, cũng đặt ra các
chỉ tiêu về mức sống làm mục tiêu chính sách. Việc so sánh các quốc gia dựa
trên những chỉ tiêu này giúp đánh giá một cách tương đối mức độ cạnh tranh
của nền kinh tế. Tuy nhiên, cũng có thể tìm ra những gợi ý chính sách ban
đầu từ việc đánh giá các thước đo thu nhập và phi thu nhập của sự thịnh
vượng, từ việc bóc tách các yếu tố thành phần tạo nên mức sống ví dụ như
mức độ huy động nguồn và việc các nguồn lực này được sử dụng hiệu quả ra
sao đóng góp phần nâng cao mức sống.
1.1.Tăng trưởng kinh tế qua các năm
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển
sang thời kỳ phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình
mục tiêu phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu được đánh giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH
XHCN trong chặng đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ
chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới
đời sống KTXH và giải phóng sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt
được tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân
năm tăng 8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước.
6
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh
tế khu vực cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta
trước những thử thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc
độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục,
GDP bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%,
GDP theo giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên
10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005,
nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về
cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc
dù khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện
đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới
và tăng thêm ước đạt 150 tỉ USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn
7 lần so với giai đoạn 2001-2005. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 2011
China 8.3 9.1 10 10.1 10.4 11.6 13 9.6 9.2 10.3 9.2
Korea 4 7.2 2.8 4.6 4 5.2 5.1 2.3 0.2 6.1 3.9
India 5.8 3.8 8.5 7.5 9.5 9.7 9 6.7 8.0 8.6 7.8
Indonesia 3.8 4.3 4.8 5 5.7 5.5 6.3 6 4.6 6.1 6.4
Malaysia 0.5 5.4 5.8 6.8 5.3 5.8 6.2 4.6 -1.7 7.2 5.2
7
Philippines 1.8 4.4 4.9 6.4 5 5.3 7.1 1.4 -2 7.3 4.7
Singapore -2.3 4 3.5 9.3 7.3 8.4 7.8 1.4 -2 14.5 5.3
Thailand 2.2 5.3 7.1 6.3 4.6 5.2 4.9 2.5 -2.3 7.8 3.5
Viet Nam 6.9 7.1 7.3 7.8 8.4 8.2 8.5 6.2 5.3 6.8 5.9
Bảng 1. Tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam và các nước
Đông Nam Á
Bảng 2 :So sánh thu nhập bình quân đầu người năm 2009
8
Qua các bảng trên mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế trong hai thập kỷ
qua rất ấn tượng, GDP bình quân đầu người của Việt Nam (tính theo ngang
giá sức mua) vẫn còn thấp so với các quốc gia khác. Năm 2009, Việt Nam
xếp thứ 113 trên thế giới và vẫn nằm trong tốp những nước nghèo nhất của
khu vực Đông Á Theo số liệu được WEF công bố, đến cuối năm 2010, dân số
Việt Nam là 89 triệu người. Tổng thu nhập quốc nội đạt 103,6 tỷ USD, tương
đương 0,37% GDP của thế giới. Thu nhập bình quân đầu người đạt 1.168
USD/năm.
Mức thu nhập của Việt Nam cũng còn kém xa so với những quốc gia
“con hổ” châu Á truyền thống như Hàn Quốc. Ngay cả Trung Quốc cũng có
mức thu nhập cao hơn Việt Nam gấp hơn hai lần
1.2.Những thành công trong tăng trưởng kinh tế khác
Giảm nghèo: Trong một vài thập niên vừa qua, Việt Nam đã trải qua
một thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng. Sau khi thống nhất năm
1975, Việt Nam đã chuyển sang tập trung tái thiết và phát triển đất nước.Tuy
nhiên, do sự tàn phá khốc liệt của nhiều năm chiến tranh, do những yếu kém
về chính sách và môi trường quốc tế có nhiều khó khăn, nền kinh tế Việt Nam
đã trải qua một thời kỳ khủng hoảng kéo dài trong những năm 70 và 80. Để
vượt qua những khó khăn đó, quá trình Đổi mới đã được khởi xướng năm
1986 với những nội dung chính sau đây:
• Chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung dựa trên sở hữu nhà nước
sang một nền kinh tế nhiều thành phần dựa trên thị trường;
• Dân chủ hoá đời sống xã hội thông qua việc xây dựng nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân;
• Tăng cường hợp tác quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới.
Việt Nam đã được thế giới ghi nhận là một trong số ít các quốc gia đã
hoàn thành sớm mục tiêu thiên niên kỷ về xoá đói giảm nghèo. Tỷ lệ nghèo
giảm nhanh từ 58,1% năm 1993 xuống còn 14,5% năm. Năm 2009 tỷ lệ hộ
9
nghèo vẫn tiếp tục giảm, ước tính còn 11% theo chuẩn nghèo của Chính phủ.
Tỷ lệ người nghèo tập trung phần lớn ở nông thôn và vùng đồng bằn ven
biển
Bất bình đẳng về thu nhập: Ở Việt Nam, bất bình đẳng về thu nhập gia
tăng cùng tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, mức độ bất bình đẳng thu nhập của
Việt Nam vẫn còn tương đối thấp so với các nước trong khu vực như Trung
Quốc, Thái Lan, Philippin, Malaixia và Campuchia.
Chất lượng sống: Khái niệm “chất lượng sống” hiểu theo nghĩa rộng là
một thước đo quan trọng trong đánh giá năng lực cạnh tranh của một quốc
gia. Chỉ số phát triển con người (HDI) là một thước đo chất lượng sống.
Ngoài ra, chất lượng môi trường, đặc điểm dân số, chất lượng và tiếp
cận các dịch vụ y tế, giáo dục, các chỉ tố về bình đẳng giới, v.v. cũng là
những chỉ số thể hiện chất lượng sống.
Chỉ số HDI được cấu thành bởi một loạt các chỉ số thành phần chia
thành ba nhóm: thu nhập, sức khoẻ và giáo dục. Việt Nam đạt điểm khá cao
về nhóm chỉ số sức khoẻ, ví dụ chỉ số tuổi thọ bìnhquân, so với các nước châu
Á. Tuy nhiên, Việt Nam cần cải thiện các chỉ số về giáo dục là nhóm chỉ số
mà Việt Nam vẫn đứng sau nhiều nước châu Á. Ví dụ, số năm đi học trung
bình là 5,5 và số năm đi học dự kiến là 10,4 (cải thiện được 4,9 năm) đối với
Việt Nam, trong khi
những con số này tương ứng là 5,7 và 12,7 (cải thiện được 7 năm) đối
với Inđônêxia. Để cải thiện chỉ số HDI thì bên cạnh cải thiện GDP bình quân
đầu người cần đồng thời cải thiện các chỉ số khác, đặc biệt là các chỉ số về
giáo dục.
10
Bảng 3 Các chỉ số phát triển của Việt Nam so với các nước Châu Á
11
KẾT LUẬN PHẦN I
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận
hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng
tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh
tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước
quan trọng. đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát
triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả
tốt, vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 1168 USD năm 2010.
Tuy nhiên, như nhiều chuyên gia kinh tế trong và ngoài nước nhận định
mức thịnh vượng chung và năng suất của nền kinh tế Việt Nam là “quá thấp”,
nó cũng khiến việc đổi mới tư duy kinh tế không được triệt để vì luôn phải
đắn đo xem có chệch định hướng hay không. “Trong 10 năm tới, nếu vẫn duy
trì mô hình kinh tế như hiện nay, chắc chắn nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn
trong phát triển. Ta sẽ đi tìm hiểu về mô hình kinh tế Việt Nam để làm rõ
những ý kiến trên cũng như nhận định của giáo sư Michael Porter.
12
PHẦN II
MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VIỆT NAM
.
Kinh tế VN thời gian qua dù tăng trưởng nhanh nhưng hiệu quả thấp.
“Mô hình tăng trưởng đã đạt đến ngưỡng, dẫn đến khả năng cạnh tranh của
quốc gia còn ở mức thấp. Dưới tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới năm 2008, những nhược điểm trong mô hình tăng trưởng kinh tế của VN
đã bộc lộ hoàn toàn. Vấn đề thay đổi mô hình tăng trưởng mới chỉ được thảo
luận từ sau giai đoạn bất ổn kinh tế vĩ mô năm 2007 - 2008 và nhanh chóng
trở thành tâm điểm chú ý của các nhà hoạch định chính sách.
2.1. BẢN CHẤT ĐẶC TRƯNG CỦA MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam lựa chọn mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa để phát triển kinh tế trong suốt những năm qua. Mô hình không dập
khuôn theo mô hình chủ nghĩa xã hội kiểu Xô-viết mà là mô hình kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của
kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các
nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu,
tổ chức quản lý, và phân phối. Nói cách khác, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa chính là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quản lý nền kinh tế bằng
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, pháp luật, mở cửa và hội nhập
nhằm thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn
để trong khoảng thời gian không dài có thể khắc phục tình trạng lạc hậu.
Mô hình kinh tế Việt Nam phản ánh khái quát đặc trưng của một nền
kinh tế chuyển đổi đang tăng trưởng nhanh. Việt Nam đã thành công trong
việc duy trì tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ trong suốt hai thập kỷ qua nhưng
động lực để thúc đẩy tăng trưởng bền vững hơn nữa đang giảm dần và áp lực
tăng chi phí để tạo tăng trưởng đang tăng lên, trong khi những lợi thế cạnh
tranh mới chưa được tạo lập.
13
2.2. ĐẶC ĐIỂM MÔ HÌNH KINH TẾ VIỆT NAM
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi từ một nền kinh tế sở hữu
nhà nước sang một nền kinh tế mà các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và
các doanh nghiệp nước ngoài đóng vai trò chi phối
Điểm yếu cơ bản nhất trong mô hình tăng trưởng của Việt Nam là tăng
trưởng chủ yếu nhờ vào việc bán tài nguyên ở dạng thô và gia công trình độ
thấp, đúng như lời nhận xét của giáo sư Giáo sư Michael Porter ‘tăng trưởng
theo kiểu cũ, tức là dựa chủ yếu vào đặc điểm địa lý hay dân cư’’, tức là
nhờ vào tăng lượng đầu tư và lấy khu vực kinh tế nhà nước vốn kém hiệu
quả làm chủ đạo.
2.2.1 Xuất khẩu tài nguyên chiểm tỷ trọng lớn
Việt Nam được đánh giá là quốc gia giàu về tài nguyên thiên nhiên. Tài
nguyên nước được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào. Các
loại khoáng sản có trữ lượng lớn của Việt nam gồm có than, dầu khí, bôxit và
urani. Trữ lượng than của Việt Nam khoảng hơn 6 tỉ tấn, chủ yếu là ở Quảng
Ninh, Thái Nguyên. Trữ lượng dầu mỏ ước khoảng 3-4 tỷ thùng và khí đốt
khoảng 50-70 tỷ mét khối.
14
Bảng4: Tỷ lệ xuất khẩu Việt Nam phân theo nhóm sản phẩm chính
Ta thấy rằng nhóm sản phẩm khoáng sản, nhiên liệu, dầu thô chiếm tỷ
trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, hầu hết các sản phẩm này đều được
xuất khẩu dưới dạng sản phẩm thô, Riêng dầu thô chiếm 1/5tổng kim ngạch
xuất khẩu,trong khi đó xuất khẩu luôn lớn hơn 50% GDP kể từ năm 2001 và
những năm gần đây chiếm đến 80%( như bảng 5)
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu
2001 54,61 56,89
2002 59,50 64,20
2003 59,29 67,65
2004 65,72 73,27
2005 69,03 73,62
2006 65,07 72,95
2007 67,79 85,15
2008 71,3 90,6
2009 62.15 75.6
2010 70,9 83,5
2011 80 92
Bảng 5: Tỷ trọng xuất, nhập khẩu so với GDP
15
lượng hàng hóa xuất khẩu từ khu vực chế tác tăng nhưng gia trị gia tăng còn
thấp mức thâm dụng tài nguyên lớn
Mặc dù được đánh giá giàu tài nguyên tình trạng triệt để khai thác, tận
thu nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng đem lại những rủi ro nghiêm trọng đối
với việc bảo tồn và phát triển bền vững nguồn tài nguyên vì nguồn tài nguyên
có hạn, ở mức độ nhất định cũng làm nhụt ý chí sáng tạo và đầu tư để tạo nên
năng lực tăng trưởng mới (thay vì dựa vào yếu tố ưu đãi tự nhiên)
2.2.2. Lao động trong tăng trưởng kinh tế Việt Nam
Việt Nam cũng chỉ chủ yếu có thị phần xuất khẩu lớn trong các ngành
sử dụng nhiều lao động. các sản phẩm xuất khẩu chủ chốt khác chủ yếu là các
mặt hàng thâm dụng lao động hoặc sản phẩm nông nghiệp, ví dụ như giày
dép, may mặc (cả dệt và may), và máy móc linh kiện điện tử. Hầu hết các
ngành này Việt Nam đều nhập khẩu nguyên liệu và công nghệ chỉ gia công
và hòan thành sản phẩm là những khâu đơn giản nhất không mang lại hiệu
quả kinh tế cao và tiềm lực kinh tế, không thể phát triển lâu dài.
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có hàm
lượng lao động cao là dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không có nhiều và
mối liên kết giữa khu vực xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn chế.
Lao động giá rẻ là một lợi thế giúp tăng trưởng xuất khẩu, trong khi đa
số máy móc và nguyên liệu thô vẫn phải nhập khẩu. Các công ty FDI mang
vốn từ nước ngoài vào kết hợp với lao động giá rẻ để sản xuất phục vụ chuỗi
giá trị của họ, nhưng lại có rất ít liên kết với khu vực kinh tế trong nước. Do
không có sự liên kết cả ở khâu đầu vào và đầu ra với khu vực FDI, các công
ty trong nước khó có thể tham gia sâu vào các chuỗi giá trị toàn cầu, Điều này
khiến những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam thường không liên
quan đến nhau (thủy sản, dệt, đồ nội thất, may mặc, giày dép…). Do đó
không tạo được hiệu ứng “tràn ngập" tại các thị trường lớn như EU hay Mỹ
16
2.2.3 Tỷ lệ phân phối vốn đầu tư
Việc gia tăng đầu tư vốn là điều tự nhiên đối với một nền kinh tế thâm
dụng lao động. Đối với một nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, nơi mà
vốn là một nguồn lực khan hiếm thì năng suất biên của vốn lẽ ra phải cao hơn
nhiều. Tuy nhiên, trên thực tế, vốn tạo ra tăng trưởng nhưng lại thất bại trong
cải thiện năng suất tổng thể. Hiệu quả đầu tư ngày càng đi xuống cho thấy
còn thiếu vắng những động lực phát triển mới. Thực tế, nguồn vốn chủ đạo để
đầu tư của khu vực công được lấy từ ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước
và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), trong đó đầu tư từ ngân sách và các
DNNN chiếm trên 75%. giai đoạn 2005-2009, lĩnh vực công nghiệp- xây
dựng được ưu tiên trên 50% vốn, song đóng góp vào GDP lại chỉ dưới 40%.
Vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước giai đoạn 2001-2010 chiếm 52,2% tổng
vốn đầu tư khu vực nhà nước và bằng khoảng 24,1% tổng vốn đầu tư toàn xã
hội. Tính theo tỉ lệ trên GDP, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước trong giai
đoạn này lên đến 9,8%.
Khu vực nhà nước có tỷ trọng đầu tư cao nhưng hiệu quả đầu tư thấp,
mặc dù vốn đầu tư của khu vực tư nhân trong nước và FDI tăng rất nhanh,
trung bình là 18% và 44% tương ứng trong vòng 20 năm qua, Ở Việt Nam,
FDI là một nguồn vốn quan trọng. Tính tới 2008, tổng vốn FDI đăng kí đạt
164 tỉ USD với gần 11.000 dự án. Tiết kiệm nội địa không đủ đáp ứng nhu
cầu đầu tư. Chính vì vậy, nền kinh tế ngày càng phụ thuộc vào các nguồn vốn
nước ngoài, và FDI ngày càng trở thành một nguồn vốn quan trọng để bù đắp
sự chênh lệch có xu hướng gia tăng giữa tiết kiệm và đầu tư trong vòng 3 năm
trở lại đây .
Nhưng vốn đầu tư của khu vực công vẫn đóng vai trò quan trọng nhất
trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vì vậy hiệu quả sử dụng vốn của khu vực
công có ý nghĩa quan trọng đối với cả tăng trưởng và ổn định vĩ mô của Việt
Nam.
17
Song đầu tư của khu vực nhà nước có hiệu quả thấp hơn đáng kể so
với đầu tư của khu vực tư nhân trong nước và FDI., dù tính theo vốn đầu tư
thực hiện hay theo tích lũy tài sản thì hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà
nước cũng cao gấp rưỡi hệ số ICOR chung của toàn nền kinh tế. Với tỷ trọng
lớn trong tổng đầu tư xã hội như vậy, hiệu quả đầu tư thấp của khu vực công,
đặc biệt là của các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động chung của
toàn nền kinh tế và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
Đóng góp của các yếu tố 1993-1997 1998 - 2007
1. Đóng góp theo điểm
phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
8,8
6,1
1.4
1,3
6,44
3,7
1,29
1,45
2. Đóng góp theo tỷ lệ
phần trăm (%)
- Vốn
- Lao động
- TFP
100
69,3
15,9
14,8
100
57,5
20,0
22,5
2.3 HỆ QUẢ CỦA CƠ CẤU KINH TẾ VIỆT NAM
Những đặc điểm cơ cấu kinh tế trên dẫn đến một số hệ quả như đã thấy trong
giai đoạn bất ổn vĩ mô và suy giảm kinh tế gần đây.
• Thứ nhất là nền kinh tế kém hiệu quả. Số đơn vị đầu tư cầnthiết để tạo
18
ra một điểm phần trăm tăng trưởng GDP (tức là hệ số ICOR) của nền kinh tế
tăng rất nhanh. Hệ số gia tăng vốn - đầu ra phản ánh tỷ lệ đầu tư cao của Việt
Nam so với tốc độ tăng trưởng. Và hệ số này ngày càng có xu hướng tăng lên.
Tính trung bình, ICOR của Việt Nam là khoảng 4,8 trong giai đoạn 2000-
2008 và 5,4 trong giai đoạn 2006-2008 và tăng lên đến 6 trong năm nay. Với
mức này, ICOR của Việt Nam cao hơn nhiều của các nước công nghiệp mới
trong giai đoạn chuyển đổi kinh tế (từ 1961 tới 1980) như Đài Loan (2,7),
Hàn Quốc (3,0), và cũng cao hơn ICOR của một số nước trong khu vực như
Thái Lan (4,1 trong giai đoạn 1981-1995) và Trung Quốc (4,0 trong giai đoạn
2001-2006).( bảng 6)
Bảng 6: Hệ số ICOR của Việt Nam và một số quốc gia khác
Đầu tư của khu vực nhà nước có hiệu quả thấp hơn đáng kể so với đầu tư của
khu vực tư nhân trong nước và FDI., dù tính theo vốn đầu tư thực hiện hay
theo tích lũy tài sản thì hệ số ICOR của khu vực kinh tế nhà nước cũng cao
gấp rưỡi hệ số ICOR chung của toàn nền kinh tế. Với tỷ trọng lớn trong tổng
đầu tư xã hội như vậy, hiệu quả đầu tư thấp của khu vực công, đặc biệt là của
các DNNN, đã ảnh hưởng tới kết quả hoạt động chung của toàn nền kinh tế
và làm giảm sút năng lực cạnh tranh của của Việt Nam.
19
• Thứ hai: là nguy cơ thường trực về bất ổn vĩ mô. Mô hình tăng trưởng
hiện nay chạy theo chiều rộng (chủ yếu dựa vào tăng vốn) mà không theo
chiều sâu (không cải thiện được năng suất). Hệ quả là để tăng trưởng, nền
kinh tế Việt Nam cần rất nhiều đầu tư, khiến tín dụng tăng theo. Nhưng do
nền kinh tế kém hiệu quả nên kết cục tất yếu là lạm phát cao, thâm hụt ngân
sách và thâm hụt cán cân vãng lai lớn
2007 2008 2009 2010 2011
Tốc độ tăng
trưởng KT
8,48 6,18 5,32 6,78 5,89
Tỉ lệ lạm
phát
8,30 22,97 6,88 9,19 18,58
Bảng 7: Tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ lạm phát Việt Nam
• Thứ ba: là một số nhóm đặc quyền đặc lợi cản trở cải cách. Những cải
cách quan trọng và thành công nhất của Việt Nam kể từ Đổi mới chủ yếu liên
quan tới khu vực nông nghiệp và dân doanh mà chưa đụng chạm nhiều tới
những khu vực được hưởng đặc quyền đặc lợi, nhất là những DNNN lớn.
KẾT LUẬN PHẦN 2
Sự bất ổn cấu trúc của nền kinh tế Việt Nam chính là đầu tư kém hiệu
quả, tỷ lệ đầu tư rất cao nhưng tăng trưởng lại không tỷ lệ thuận, việc đầu tư
vượt quá khả năng của nền kinh tế đã dẫn đến đầu tư dàn trải, kéo dài; cơ cấu
đầu tư thiếu cân đối nên chưa tạo ra sức mạnh tổng hợp
20
Giá trị gia tăng thấp và cơ cấu xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm có
hàm lượng lao động cao là dấu hiệu cho thấy năng lực sáng tạo không có
nhiều và mối liên kết giữa khu vực xuất khẩu và kinh tế trong nước là rất hạn
chế.
Thị trường xuất khẩu có độ đa dạng cao và tỷ trọng cao song tập trung
ở một số hang xuất khẩu tài nguyên, các ngành khác dựa vào nguôn chi phí
lao động thấp, sản phẩm xuất khẩu thiếu khả năng thâm nhập thị trường và
chưa hội nhập sâu vào những thị trường xuất khẩu năng động nhất của thế
giới.
Mô hình tăng trưởng chủ yếu dựa vào đầu tư vốn, trong khi tỷ lệ tiết
kiệm nội địa đang giảm nhanh, do đó mức độ phụ thuộc vào các nguồn vốn từ
bên ngoài như FDI, ODA, kiều hối ngày càng cao. Chính sách tăng trưởng tập
trung vào phát triển theo chiều rộng thay vì phát triển theo chiều sâu, tập
trung vào số lượng thay vì vào chất lượng, do đó có thể tạo ra tốc độ tăng
trưởng nhanh, nhưng về lâu dài là không bền vững, và không giúp nâng cao
năng suất và hiệu quả.
PHẦN 3
NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM TIẾP THEO
21
Mặc dù đạt được tốc độ tăng trưởng ấn tượng và những thành tích
trong hoạt động xuất khẩu, giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế vẫn ở mức
thấp, thậm chí cả trong khu vực xuất khẩu. Việc gia nhập WTO đã hội nhập
sâu hơn vào kinh tế thế giới và thu được những lợi ích đáng kể từ quá trình
này. Tuy nhiên, những dấu hiệu bất ổn và dễ tổn thương trước các cú sốc và
biến động bên ngoài đang không ngừng gia tăng đòi hỏi Việt Nam phải có
một cách tiếp cận chủ động và dài hạn hơn để không những đối phó mà còn
có thể dự báo và kiểm soát được các yếu tố bên ngoài một cách hiệu quả.
Sự cần thiết phải thay đổi không chỉ do những yếu tố nội tại bên trong
dẫn dắt. Khi hội nhập ngày càng sâu hơn vào nền kinh tế toàn cầu, Việt Nam
cần nhìn nhận được những thay đổi và chuyển dịch của môi trường bên ngoài
mà mình phải đối mặt. Một số thay đổi và chuyển dịch sẽ mở ra cơ hội cho
Việt Nam Đã có sự thống nhất quan điểm rằng Việt Nam cần chuyển dịch mô
hình tăng trưởng hiện nay – mô hình dựa trên lao động giá rẻ và đầu tư vốn
lớn - sang dựa trên năng suất và sức cạnh tranh. Tăng trưởng tương lai của
Việt Nam không chỉ dựa trên việc khai thác những lợi thế sẵn có mà phải dựa
trên việc liên tục nâng cấp các lợi thế này và tạo dựng những lợi thế mới.
Điều này đỏi hỏi phải thay đổi toàn diện các điều kiện vĩ mô và vi mô dẫn dắt
năng suất. Quan điểm và cách tiếp cận mới đối với mô hình tăng trưởng này
là điều kiện tiên quyết để Việt nam có thể bước lên một nấc thang phát triển
mới một cách bền vững.
3.1. QUAN ĐIỂM VÀ MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN
3.1.1. Quan điểm
22
Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền vững
là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an
ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng
đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng
trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội.bảo vệ và cải thiện môi trường sử dụng nguồn tài nguyên
hợp lý.
Kiên trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới chính trị phải đồng bộ
với đổi mới kinh tế theo lộ trình thích hợp, trọng tâm là hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Mở rộng dân chủ, phát huy
tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể.
Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ ngày
càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập
quốc tế ngày càng sâu rộng
3.1.2. Mục tiêu
Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp
theo hướng hiện đại; Duy trì tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước
(GDP) bình quân 7 - 8%/năm. GDP năm 2020 theo giá so sánh bằng khoảng
2,2 lần so với năm 2010; GDP bình quân đầu người theo giá thực tế đạt
khoảng 3.000 USD.
Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Xây dựng cơ cấu kinh tế công nghiệp,
nông nghiệp, dịch vụ hiện đại, hiệu quả. Tỉ trọng các ngành công nghiệp và
dịch vụ chiếm khoảng 85% trong GDP. Giá trị sản phẩm công nghệ cao và
sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP. Giá trị
sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất
23
công nghiệp. Nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả,
bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế
gắn với chuyển dịch cơ cấu lao động; tỉ lệ lao động nông nghiệp khoảng 30 -
35% lao động xa hội.
Kết cấu hạ tầng tương đối đồng bộ, với một số công trình hiện đại. Tỉ
lệ đô thị hoá đạt trên 45%. Số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới khoảng 50%.
Đến năm 2020, chỉ số phát triển con người (HDI) đạt nhóm trung bình cao
của thế giới; tốc độ tăng dân số ổn định ở mức khoảng 1%; tỉ lệ hộ nghèo
giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức
khỏe cộng đồng được bảo đảm
Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng
cao gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ. Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số
công trình hiện đại.
3.2. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ, ĐỔI MỚI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
Để đạt được những mục tiêu kinh tế phát triển bền vững trên ta cần giải quyết
những vướng mắc hiện tại những thách thức đang nổi lên, và tạo nền tảng
cho tăng trưởng trong tương lai đã được nêu lên trong báo cáo năng lực cạnh
tranh của Việt Nam
Giải quyết những thách Những chuẩn bị cho sự phát
Thức đang nổi lên triển tiếp theo
24
Điều chỉnh những
mất cân bằng kinh tế
vĩ mô ngày càng
tăng
Điều chỉnh những
mất cân bằng kinh tế
vĩ mô ngày càng
tăng
Giải quyết những nút
tắc cổ trai trong các
nhân tố đầu vào quan
trọng
Giải quyết những nút
tắc cổ trai trong các
nhân tố đầu vào quan
trọng
Tạo nền tảng cho
năng suất cao hơn
Tạo nền tảng cho
năng suất cao hơn
Đảm bảo tăng
trưởng hiện tại
Tạo điều kiện tăng
trưởng trong
tương lai
3.2.1. Các mất cân đối kinh tế vĩ mô
Đằng sau con số tăng trưởng ấn tượng là những mất cẫn đối vĩ mô trên
một số khía cạnh.
Cán cân thương mại và tài khoản vãng lai; Thâm hụt thương mại của
Việt Nam ngày càng tăng. Mặc dù được coi là một nền kinh tế xuất khẩu,
Việt Nam nhập khẩu nhiều hơn
Mất cân đối tiết kiệm – đầu tư tăng lên là mặt trái của vấn đề thâm hụt
vãng lai. Mặc dù mất cân đối này thường thấy ở các nền kinh tế có tích luỹ
vốn còn thấp và đang phát triển nhanh, nhưng hiệu quả đầu tư thấp ở Việt
Nam hiện nay lại là vấn đề đáng lo ngại.
Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam trong những năm qua dao động mạnh với
xu hướng tăng lên đáng kể.
Những mất cân đối nói trên có thể gây ra những hậu quả không thể
xem thường. Ít nhất chúng làm cho các nhà đầu tư lo ngại rằng rủi ro của việc
đầu tư vào Việt Nam tăng cao. Điều này sẽ làm suy giảm các lợi ích mà Việt
Nam có thể thu được từ vốn nước ngoài, những lợi ích mà Việt Nam rất cần
để bắt kịp với thế giới.
Các mất cân đối vĩ mô này có thể làm phát sinh khủng hoảng, khi niềm
tin bị xói mòn và các dòng vốn nước ngoài chảy khỏi Việt Nam. Việt Nam
cần có cách tiếp cận mới về chính sách kinh tế vĩ mô để giải quyết tận gốc các
mất cân đối nói trên. Chính sách tiền tệ cần minh bạch và có tầm nhìn xa.
Chính sách tài khoá cần bền vững, có kỷ luật và thận trọng trong việc quản lý
thâm hụt ngân sách, đầu tư công và nợ công. Ngoài ra, cần có sự phối hợp
đồng bộ giữa chính sách tài khoá và chính sách tiền tệ để đạt được ổn định vĩ
mô.
25