Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

TIỂU LUẬN địa CHẤT môi TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG của CANH tác TRÊN đất dốc đến môi TRƯỜNG địa CHẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.48 KB, 22 trang )

z

TIỂU LUẬN: ĐỊA CHẤT MÔI TRƯỜNG
ĐỀ TÀI
“ẢNH HƯỞNG CỦA CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC
ĐẾN MÔI TRƯỜNG ĐỊA CHẤT”.

Nhóm sv
GVHD: T.S CAO VIỆT HÀ




TIỂU LUẬN: ĐỊA CHẤT MÔI TRƯỜNG.
ĐỀ TÀI: “ẢNH HƯỞNG CỦA CANH TÁC TRÊN ĐẤT DỐC ĐẾN MÔI
TRƯỜNG ĐỊA CHẤT”.
GIÁO VIÊN HƯỚNG DẪN: TS. CAO VIỆT HÀ.
NHÓM:
STT Họ và tên Mã sinh viên
1 Phạm Thị Tuyết Minh 553395
2 Hoàng Ngọc Trà My 553396
3 Biện Thị Ngân 553397
4 Nguyễn Thị Ngân 553399
5 Ngô Thị Ngọc 553401
6 Trần Thị Thanh Nhàn 553402
I. Đặt vấn đề.
Đảm bảo an ninh lương thực là một trong những vấn đề trọng yếu của hầu
hết các quốc gia trên thế giới vì thế mà ngày nay nguồn tài nguyên đất và nước
đang rất được quan tâm. Trong tài nguyên đất nông nghiệp thì đất dốc có đặc tính
nhạy cảm với môi trường, dễ biến đổi dưới tác động của hàng loạt yếu tố ngoại
cảnh như: thời tiết, khí hậu nhất là mưa lũ vì vậy muốn giảm những tác động đó


đến đất ở nơi này thì cần có những biện pháp canh tác hợp lý, bền vững nếu
không sẽ dẫn đến một chuỗi các hệ lụy như: đất bị xói mòn, rửa trôi, chua hóa,
mực nước ngầm giảm… kéo theo ảnh hưởng đến vùng lưu vực phía dưới như:
mất đất nông nghiệp, dòng sông bị bồi lắng… từ những ảnh hưởng trên mà chúng
em đã được giao đề tài:
“ Ảnh hưởng của canh tác trên đất dốc đến môi trường địa chất”
Với mục đích là tìm hiểu về các biện pháp canh tác trên đất dốc và ảnh
hưởng của các biện pháp này đến môi trường địa chất, để từ đó biết được những
biện pháp phù hợp với loại hình đất dốc giúp cải thiện môi trường địa chất tại đó
và các vùng xung quanh.
Việc canh tác trên đất dốc không chỉ có ở một quốc gia nào mà rất nhiều
nước trên thế giới đều canh tác trên đất dốc để tận dụng nhiều nhất nguồn tài
nguyên này. Trong đó phải kể đến Việt Nam_nước có ¾ là đồi núi và nhất là
trong thời kì công nghiệp hóa hiện đại hóa thì áp lực lên tài nguyên đất nông
nghiệp được thể hiện rất rõ đặc biệt là đất dốc.
I. Nội dung .

1. Các khái niệm:
- Canh tác: Canh nghĩa là cày, tác nghãi là làm. Canh tác tức là làm
công việc nông nghiệp như trông trọt, chăn nuôi. . .
- Môi trường địa chất: Là phần trên cùng của vỏ trái đất bao gồm cả
thổ nhưỡng, nham thạch, khoáng sản nước dưới đất và nước mặt, nơi
con người chiếm cứ để sinh sống và tiến hành các hoạt động phát
triển, nơi trực tiếp chịu ảnh hưởng (tốt hoặc xấu) của các hoạt động
và ngược lại, cùng tác động trở lại với con người, chi phối điều tiết
một cách tự nhiên, tạo thuận lợi hoặc trở ngại cho cuộc sống và hoạt
động của con người.
2. Hiện trạng.
I.1 Hiện trạng thế giới.
Theo tài liệu của FAO (2000), hiện nay trên Thế giới có khoảng 1 tỷ 476

triệu ha đất nông nghiệp, trong đó đất dốc vùng đồi núi chiếm khoảng 65,9% và
có khoảng 544 triệu ha đất canh tác mất khả năng sản xuất. Các vùng đồi múi
trên thế giới có độ dốc trên 10
0
chiếm 50 – 60% diện tích đất nông nghiệp.
Hằng năm trên thế giới, không kể sản lượng nhóm cây nông lâm nghiệp
khác trồng trên đất dốc, riêng lúa nương canh tác trên đất dốc đẫ và dang là
nhuồn lương thực quan trọng để nuôi sống nhiều triệu người đóng góp 3,8% sản
lượng lúa toàn cầu. Phần lớn diện tích cây lương thực này phân bố tập trung chủ
yếu ở Ấn Độ (6,2 triệu ha), Brazil (3,1 triệu ha), Indonesia (1,4 triệu ha) và rải
rác ở các nước trong khu vực khoảng 7,0 triệu ha (Dobermann và Fairhutst,
2000).
I.2 Hiện trạng ở Việt Nam.
Ở ViệtNam, đất dốc chiếm khoảng 74% đất tự nhiên. do hầu hết đất bằng
đã được sử dụng khá triệt để nên miền núi là nơi duy nhất còn tiềm năng mở rộng
đất canh tác. Trong diện tích 9,4 triệu ha đất nông nghiệp chỉ có 4,06 triệu ha là
đất lúa, còn trên 5 triệu ha chủ yếu là đất dốc, trong đó đất nương rẫy trồng lúa
khoảng 640 ngàn ha, diện tích còn lại là đất rừng và đất chưa sử dụng. So với
miền xuôi thì cơ cấu cây trồng ở miền núi đa dạng hơn nhiều. Trong khi hầu hết
đất bằng ở miền xuôi phải dành cho sản xuất lương thực thì miền núi là nơi có
tiềm năng đất đai để trồng cây ăn quả, cây lương thực có giá trị cao,đó là chưa kể
các loài rau quả ôn đới trồng trên các vùng núi cao. Ngoài ra miền núi còn đáp
ứng 1 số nhu cầu về chuồng trại, chăn thả, đồng cỏ để phát triển chăn nuôi, tiềm
năng về thủy điện…
Tuy nhiên, nếu viêc canh tác hợp và lý đúng cách thì môi trường địa chất
sẽ bị ảnh hưởng rất lớn. Đầu tiên phải nói đến đó là xói mòn và rửa trôi, xói mòn
và rửa trôi là những mối đe doạ thường xuyên đối với đất dốc và vùng nhiệt đới
ẩm, gây nên sự mất dinh dưỡng và độ phì của lớp đất mặt, dẫn đến sự axít hoá
trong đất. Những tác động này thậm chí còn trở nên tồi tệ hơn nếu như đất canh
tác không có thảm thực vật che phủ hoặc là đất bị đốt cháy trước mùa mưa.Thứ 2

là sự suy thoái đất do đất rừng bị phá và đốt để trồng cây hàng năm làm lương
thực, đất dốc ở nhiều vùng ngày càng bị thoái hoá nghiêm trọng. Theo Garrity
D.P (1993), có rất nhiều lý do dẫn đến những hạn chế và sự bất ổn định sản lượng
trên đất dốc, nhưng nguyên nhân chủ yếu nhất vẫn là do thoái hoá đất nhanh cả
về mặt sinh học, lý và hoá học. . Việc tăng độc tố nhôm trong đất là do đất bị axít
hoá. Thêm vào đó là sự giảm đáng kể của cá nguyên tố vi lượng như: P, K, Ca,
Mn, Zn. Ngoài ra việc canh tác không hợp lý còn có thể gây ra việc hạn hán vào
mùa khô và gây nên lũ lut vào mùa mưa ảnh hưởng lớn tới người, động vật và
đặc biệt là ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng đất.
Việc diện tích rừng bị giảm và các phương pháp canh tác lạc hậu đã để lại
hậu quả là nhiều vùng đất rộng lớn đã trở thành đất trống đồi núi trọc. Ở Châu Á,
khi rừng đã bị phá để trồng cây lương thực, đất sẽ trở nên chua và thường bị cỏ
tranh xâm chiếm. Nông dân phải bỏ hoá những khu đất này, tiếp tục phá rừng nơi
khác để làm nương mới trồng cây lương thực. Việc mất thảm thực vật rừng sẽ
ảnh hưởng rất xấu đến môi trường sinh thái như hạn hán, lũ lụt và lũ quét ở vùng
cao.
II. Đặc điểm của đất dốc.
- Địa hình cao dốc phức tạp, manh mún, bất thuận cho canh tác. Diện tích
đất dốc rộng lớn, có khoảng 14 triệu ha phân bố trên các độ dốc khác nhau.
Độ dốc (%) Diện tích (triệu ha)
3 – 10 2.7
10 – 15 5.5
15- 25 3.7
>25 2.5
( theo nguồn của Thái Phiên, Nguyễn Tử Siêm, 1999)
+ Địa hình núi cao có độ dốc >30
0
(có độ cao trung bình >2000m), bị chia
cắt mạnh là những khu vực đầu nguồn cần bảo vệ rừng tự nhiên để giữ nước và
chống lũ quét.

+ Địa hình núi tại độ dốc >15
0
( có độ cao1000 – 2000m), quá trình xâm
thực và bào mòn khá mạnh, phân bố ở khắp các khu vực vùng đồi núi, canh tác
nông nghiệp gặp nhiều khó khăn.
+ Địa hình núi thấp và đồi có độ cao < 1000m độ dốc từ 8- 25%, đây là
vùng sản xuất nông nghiệp chính của miền núi với các cây dài ngày và hoa màu
chủ yếu nhờ nước trời.
+ Địa hình núi và cao nguyên: địa hình tuy khá cao nhưng ít bị chia cắt,
khá bằng phẳng, ít dốc, thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp hỗn hợp.
+Địa hình bán bình nguyên: phân bố thành những dải đất hẹp, khá bằng
phẳng, sản xuất nông nghiệp thuận lợi nhưng diện tích ít, manh mún.
+ Địa hình thung lũng và trũng giữa núi: tạo nên những bồn địa và cánh
đồng khá bằng phẳng trên các độ dốc khác nhau của vùng đồi núi, là nơi sản xuất
lúa nước, hoa màu ngắn ngày quan trọng nhưng diện tích hẹp, manh mún.
Đất dốc gồm các loại đất có độ phì khác nhau, với điều kiện tiểu khí hậu, địa
hình, chế độ nước khác nhau đã tạo nên sự phát triển rất đa dạng và phong phú
của các thực vật tự nhiên và cây trồng , vật nuôi của vùng đồi núi nước ta.
- Đặc trưng khoáng sét ở đất dồi núi.
Đất đồi núi có độ cao biến động từ vài chục mét vùng đồi cho đến 2.000 –
3.000 m vùng núi cao và trải dài qua 15 vĩ độ từ Bắc vào Nam. Thành phần
khoáng vật vừa bị chi phối bởi đá mẹ vừa chịu tác động của điều kiện hình thành
đất của địa phương.
- Đặc trưng lý học đất dốc.
Tính chất vật lý đất dốc rất khác nhau giữa các loại đất phụ thuộc vào loại đá
mẹ phát sinh. Qua nghiên cứu cho thấy rằng hàm lượng cấp hạt sét trong thành
phần cơ giới giao động trong phạm vi khá rộng từ 12-62%, cấp hạt đá thô có
chiều hướng ngược lại, thay đổi trong khoảng 4-60%. Dung trọng đất hầu hết khá
cao, giao động từ 1,08g/cm
3

ở đất đỏ vàng trên đá bazan đến 1,5g/cm
3
trên đất đỏ
vàng trên phù sa cổ, chứng tỏ đất trồng sắn khá chặt. Đặc tính này bất lợi, gây
khó khăn cho tính thấm nước của đất, dễ dàng bị rửa trôi và xói mòn đất.
- Đặc trưng hóa học đất đồi núi.
Xét về mặt hóa học, các đất đồi núi đều là những loại đất có vấn đề. Phản ứng
chua đến rất chua là đặc tính chung, trừ một diện tích rất hẹp đất tích cacbonat
trên sản phẩm dốc tụ của đá vôi và một ít đất mặn lục địa ở Phan Rang nơi có khí
hậu bán khô hạn. Các đất trung tính hoặc kiềm này có diện tích không đáng kể, ít
có ý nghĩa sản xuất.
Đất đồi núi dưới rừng khá giàu mùn và dinh dưỡng N và P tổng số. Song một
khi mất rừng thì những ưu điểm này cũng mất dần.
III. Các biện pháp canh tác và ảnh hưởng.
4.1 Các biện pháp canh tác giúp giảm tác động tích cực đến môi trường địa
chất.
4.1.1 Canh tác theo
đường đồng
mức: cụ thể
với 3 hình thức
ruộng bậc
thang là ruộng
bậc thang san
ngay, ruộng
bậc thang san
dần, ruộng bậc
thang lúa nước.
Hình 1:Ruộng bậc thang Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang.
- Ruộng bậc thang san ngay:
Được áp dụng nhiều ở vùng trung du miền núi phía bắc như Tủa Chùa ( Lai

Châu), Sa Pa ( Lào Cai). Yếu tố quan trọng quan trọng của khu vực này là đất
phải đủ dày, kết von và đá ong ở sâu mà khi san không bị lộ ra trên mặt đất.
ruộng bậc thang san ngay có ưu thế nổi bật: triệt tiêu dòng chảy, giữ nước, giữ
đất, giảm xói mòn và duy trì sự ổn định năng suất cây trồng trong chu kì canh tác.
Tuy nhiên khi tạo ruộng bậc thang san ngay không tránh sự xáo trộn các tầng đất
sắp xếp có quy luật từ hàng ngàn năm, phá vỡ cấu trúc, trộn tầng đất canh tác với
đất cái ít mầu mỡ bật từ dưới lên, cắt các lỗ hổng mao quản và phi mao quản vốn
là một hệ thống liên tục, mùn và chất dinh dưỡng dễ tiêu giảm…. dẫn tới độ phì
nhiêu hữu hiệu giảm. Dù giảm nhẹ cũng cần thời gian dài mới phục hồi được độ
phì nhiêu, nếu giảm nặng thì nguy cơ hỏng đất là chắc chắn.
- Ruộng bậc thang san dần:
Ở Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái và Tây Nguyên nông dân áp dụng
phương pháp này phổ biến đối với cây ngắn ngày và dài ngày. Đặc điểm của
phương pháp này là kết hợp san ủi nhẹ với việc tạo ra các băng chắn để đất tích
lũy mé dưới lô trồng. Sau mỗi vụ mưa đất trôi sẽ bị chặn lại, bồi tụ trên ruộng
tầng vì thế hạn chế việc xói món và mất dinh dưỡng. Nói chung ruộng bậc thang
san dần tránh được căng thẳng về công xây dựng và đầu tư nặng ban đầu.
- Ruộng bậc thang lúa nước: đây là kiểu canh tác lâu đời và khá bền vững.
• Là một phương thức định canh trên mặt bằng, có không gian
khép kín tránh được xói mòn, tiếp nhận vật liệu rửa trôi từ
xung quanh, hạn chế tốc độ dòng chảy từ trên cao xuống
thung lũng.
• Trong môi trường nước, quá trình hóa học có lợi cho việc duy
trì độ phì nhiều hữu hiệu: phân giải chất hữu cơ chậm lại, có
sự tích lũy mùn và có dung tích hấp thu cao hơn.
Trong điều kiện khử là ưu thế có sự chuyển hóa các oxit đa hóa trị sang
hóa trị hai ( Fe
3+
sang Fe
2+

, Mn
4+
sang Mn
2+
), Al
3+
giảm Ca
2+
và Mg
2+
tăng lên làm
cho độ chua giảm đi và độ bão hòa bazo tăng lên.
• Lợi thế lớn về dinh dưỡng dễ tiêu là sự cố định lân bị hạn chế,
P dễ tiêu và K trao đổi tăng lên đáng kể, nhờ lưới tinh thể mở
NH
4
+
và K
+
thay thế nhau dễ dàng.
• Các bậc thang dần dần hình thành tầng đế cày tích sét tương
tự như ruộng lúa đồng bằng, nhờ vậy tuy trên thế dốc nhưng
phần lớn các phần tử đất mịn lắng đọng, không bị trôi tuột
như trên đất dốc.
4.1.1 Trồng theo rãnh: biện pháp mà người dân tạo các rãnh theo đường định
mức, như vậy biện pháp này sẽ giúp giảm được tốc độ và chiều dài dòng
chảy mặt trên dốc, kéo dài thời gian nước trên mặt đất như vậy lượng nước
thấm xuống tầng dưới sẽ được tăng cường.
4.1.2 Biện pháp tủ gốc: che tủ mặt đất là kinh nghiệm bảo vệ đất và nước, mà
trong đó dùng cỏ, rơm, rạ và các vật liệu hữu cơ khác để che tủ bề mặt đất,

giữa các hàng hoặc gốc cây. Thực tiễn này giúp giữ độ ẩm đất, hạn chế cỏ
dại và tăng cấu trúc đất, làm cho đất tơi xốp. Những mặt mạnh:
• Ngăn chặn tác động trực tiếp của các hạt nước mưa lên đất trống,
trọc và giảm rửa trôi và mất đất
• Hạn chế cỏ dại và giảm công lao động để làm cỏ
• Tăng chất hữu cơ cho đất
• Cải thiện các tính chất lý-hóa học của đất
• Giúp điều chỉnh, giảm nhiệt độ của đất vào mùa hè
4.1.3 Biện pháp sinh học:
- Trồng cây phân xanh: cây phân xanh là loại cây được trồng chủ yếu để
làm đất trồng tốt, để tái tạo chất dinh dưỡng thực vật, chất hữu cơ và cũng
rất có ích trong quản lý trang trại hữu cơ.Chúng thường cố định đạm, tuy
nhiên không phải luôn như vậy. Chúng có thể được trồng cùng với cây
trồng khác hoặc được sử dụng như cây che bóng. Chúng ngăn không cho
chất dinh dưỡng bị rửa trôi khỏi đất trồng giữa những mùa vụ chính.Cây
phân xanh giúp:
• Tạo và tái tạo chất dinh dưỡng thực vật và chất hữu cơ.
• Cải thiện cấu trúc đất trồng.
• Cải thiện khả năng giữ nước của đất trồng.
• Kiểm soát xói mòn đất trồng.
Thực tế cho thấy trồng xen băng cây phân xanh theo đường đồng mức như
muống hoa vàng, cốt khí…giữa cây công nghiệp (cà phê, cao su, điều) và cây
ngắn ngày (ngô, lúa nương, sắn…) là biện pháp đơn giản và có hiệu quả trong
việc bảo vệ đất, chống xói mòn, cải tạo độ phì của đất và góp phần tăng năng suất
cây trồng. Bên cạnh việc hạn chế xói mòn đất, cây băng xanh còn ảnh hưởng tích
cực đến tính chất lý hóa của đất: Điều hòa chế độ nhiệt và ẩm độ của đất, cải
thiện độ xốp tầng mặt, tăng hàm lượng các chất dinh dưỡng trong đất thông qua
sinh khối hữu cơ trả lại hàng năm.
- Luân canh cây trồng: nhiều loài cây trồng khác nhau được gieo trồng kế
tiếp nhau, cây nọ sau cây kia trên cùng một mảnh đất hay thửa ruộng.

Trong luân canh các tính chất lý-hóa của đất được cải thiện rõ rệt.
Những mặt mạnh :
• Rất có hiệu quả để cải thiện độ phì nhiêu đất.
• Làm giảm sự mất dinh dưỡng.
• Giúp duy trì sản xuất lương thực.
• Đa dạng hóa cây trồng.
• Giúp kiểm soát côn trùng và bệnh tật .
4.2 Các biện pháp canh tác ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất.
Bên cạnh những hình thức canh tác làm giảm đáng kể tác động của các
điều kiện tự nhiên thì ở một số vùng vẫn còn những hình thức canh tác như:
nương rẫy du canh, độc canh, trồng tỉa theo vụ mưa, trồng chay, chăn thả gia súc
trên nương gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất tại đó và ác khu vực
lân cận.
4.2.1 Hình thức canh tác nương rẫy du canh.
“Nông nghiệp du canh là những hệ thống nông nghiệp trong đó đất được
phát quang để canh tác trong những thời đoạn ngắn hơn là thời đoạn bỏ hóa”
(Colkin, 1957).
Ở Việt Nam có 3 kiểu du canh:
• Du canh tiến triển: phát rừng khai thác kiệt đất, bỏ hẳn nương cũ, phát
rừng mới. Khi hết rừng thì dời bản đi nơi khác. Phương thức này thường
thấy ở những nhóm người sống ở vùng rẻo cao thuộc các dân tộc H’mông,
Dao, Cadong, Rục( Xá lá vàng),…
Ví dụ như:
Phương thức du
canh tiến triển của
người H’mông: canh tác
từ độ cao 700 m trở lên.
Phát đốt rừng canh tác
nương rẫy liên tục trong một số năm ( 3-5 năm
tuỳ theo chất lượng đất rừng) đến khi đất bạc màu

hoàn toàn không có khả năng canh tác thì bỏ
chuyển sang vùng khác còn rừng, đất tốt.
Hình 2: Xã Thôn Mai, huyện
Tương Dương, Tỉnh Nghệ
An.
• Du canh
luân hồi: Là kiểu du canh trên nương rẫy định canh trong khoảng 2-5 năm
khi năng suất xuống dưới mức chấp nhận được thì bỏ hóa khoảng 7-8 năm
đến 12-15 năm rồi quay trở lại. Thường gặp ở người Dao, Ba Na, Ê Đê,
Gia Rài
• Du canh bổ trợ: Được thực hiện bởi các cộng đồng cư dân miền núi vùng
cao sống chủ yếu bằng canh tác lúa nước kết hợp làm rẫy trên đồi lân cận
lấy nguồn năng lương thực bổ sung. Các dân tốc sử dụng phương thức này
là Mường, Tày, Thái, Nùng
Ta nhận thấy rất rõ sự ảnh hưởng của các phương thức này đến vùng
đất nơi người dân canh tác. Trong thời kỳ bỏ hóa lớp thảm thực vật suy
giảm. Tạo điều kiện thuận lợi cho các tác nhân như gió và nước tạo lên các
hiện tượng xói mòn, rửa trôi, lũ ống, lũ quét
4.2.2 Độc canh là: hình thức mà người dân chỉ trông một loại cây duy nhất trong
lần canh tác đó.
Hình 3: Trồng ngô, sắn độc canh ở Văn Yên và Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Độc canh cũng là một trong nhữg nguyên nhân dẫn đến xói mòn, rửa trôi
lớp đất mặt, vì khi trồng độc canh thì đất ở khoảng cách giữa các gốc cây không
có thảm thực vật che phủ. Bên cạnh đó việc trồng độc canh còn làm cho đất mất
cân bằng dinh dưỡng bởi mỗi loại cây sẽ hút một lượng dinh dưỡng nhất định
trong quá trình sống và với nhu cầu về hàm lượng các chất là khác nhau. Hiện
tượng chặt đất cũng một phần do trồng độc canh nhất là khi trồng độc canh ngô,
sắn. . . chặt đất ảnh hưởng nhiều đến tính chất của đất như: làm tăng dung trọng
đất, giảm độ ẩm, độ xốp, độ thoáng khí và cả đến nhiệt trong đất.
4.2.3 Trồng chay là: hình thức trồng trọt dựa chính vào các tài nguyên sẵn có để

cung cấp cho cây trồng mà không tác động thêm.
Phương thức trồng chay chính là một trong các nguyên nhân làm đất suy
thoái nghiêm trọng bởi trong khi canh tác mà không bổ sung dưỡng chất để bù
trả cho đất thì việc đất bị thoái hóa làm không phục hồi được là điều hiển nhiên.
4.2.4 Chăn thả gia
súc quá mức:
là hiện tượng
vật nuôi được
người dân
chăn thả tự do
quá mức trên
nương rẫy sau
khi thu hoạch.
Hình 4: chăn thả bò ở xã Lê Lơi, Hoành Bồ, Quảng
Ninh.
Sau khi thu hoạch đất đã phải chịu ảnh hưởng của quá trình canh tác, sau
đó lại chịu ảnh hưởng việc gia súc dẫm đạp nhiều làm cho đất bị nén chặt, thực
vật tại đó một phần bị sử dụng phần còn lại chết do bị dẫm đạp nhiều. Vì thế mà
thảm thực vật ở đây suy giảm, đất lại bị biến đổi về tính chất vật lý theo chiều
hướng tiêu cực làm cho khả năng chống chịu với các tác động ngoại cảnh kém là
tiền đề cho các quá trình xói mòn, rửa trôi. . . gây ảnh hưởng đến các vùng lưu
vực.
Trong đó quá trình rửa trôi là nguyên nhân trực tiếp gây ra một loạt các
quá trình bất lợi như:
• Suy giảm chất dinh dưỡng khoáng.
Các chất khoáng bị suy giảm như: N, P, K, Ca, Mg. Do quá trình rửa trôi
khỏi tầng mặt xuống chiều sâu của phẫu diện. Quá trình này kéo theo các hạt sét
cũng bị dịch chuyển xuống tầng sâu của phẫu diện tạo một tầng mặt có thành
phần cơ giới nhẹ, độ màu mỡ thấp khả năng hấp phụ trao đổi kém. Ngoài ra các
hạt mịn trong khi dịch chuyển xuống phía dưới sẽ lấp đầy các khe lỗ hổng trong

đất tạo tầng chặt bí không thoát nước.
• Rửa trôi các chất kiềm, kiềm thổ dẫn đến chua hóa đất.
Khi đất bị rửa trôi các cation kiềm, kiềm thổ bị rửa trôi theo. Đồng hành với
quá trình rửa trôi kiềm (Na
+
, K
+
, NH
4
+
) và kiềm thổ (Ca
2+
, Mg
2+
) có quá trình
giải phóng các ion H
+
và Al
3+
vào dung dich. Các ion này sẽ đi vào phức hệ hấp
phụ của keo đất ngày càng nhiều đrr chiếm chỗ trống do kiềm bị rửa trôi ra. Như
vậy, keo đất ngày càng bão hòa các cation H
+
, Al
3+
trở nên chua hơn. Ngoài ra
còn có tác động của cây trồng vi sinh vậy thu hút một cách chọn lọc các nguyên
tố và các gốc có khả năng làm tăng pH đất, tiết ra các axit hữu cơ, cộng với việc
sử dụng phân bón làm cho đất canh tác ngày càng chua và giảm các tính năng của
mình.

Tạo ra các loại đất có thành phần cơ giới nhẹ nghèo dinh dưỡng, có khả năng
hấp thụ trao đổi kém ở tầng mặt, đồng thời chặt bí, kết von, khả năng thấm nước
kém ở tầng dưới.
Xói mòn ảnh hưởng không ít đến sản xuất nông nghiệp và môi trường sinh
thái ở vùng đồi núi nước ta. Ngoài những ảnh hưởng tương tự như rửa trôi thì xói
mòn còn gây ra một số tác động đặc trưng như:
• Xói mòn “vô hình” lấy đi một phần đất lớn.
Trước hết và khó thấy nhất là xói mòn bề mặt, là sự bóc đi đều đặn nhiều
hay ít lớp “đất” mỏng trên diện tích dốc. Khó thấy được vì lượng đất bị lấy đi
nhìn thấy được thường quá nhỏ. Mặc dù vậy xói mòn bề mặt bóc đi lượng lớn đất
mặt. Thậm chí một lớp đất rất mỏng, chỉ dày hơn tờ giấy một chút khi chuyển
xuống dốc cũng nặng tới mấy tấn cho một hecta. Không cần phải mất nhiều năm
hay nhiều trận mưa rào mới đủ làm cho sự xói mòn bề mặt trở nên có ý nghĩa.
Một loại xói mòn thứ hai thấy rõ hơn đó là xói mòn rãnh. Khi trời mưa, đất
bị xói mòn một cách đều đặn và nước mưa tích tụ lại sau đó chảy thành những
dòng mạnh, chảy xuống chỗ đất nào kém bền nhất trở thành đường cho dòng
chảy. Lúc này dòng chảy mặt trở thành những đường rãnh nhỏ. Chúng có thể cắt
cánh đồng thành nhiều mảnh nhỏ hình dạng kỳ cục. Các rãnh này chính là con
đường vận chuyển các chất khoáng, chất mùn, các cation kiềm và kiềm thổ đi
nhanh hơn.
Hình 5: Xói mòn rãnh ở Mộc Châu.
• Xói mòn đất tác động đến nguồn nước.
Xói mòn nước không chỉ gây tác hại tại nơi bị xói mòn mà nó còn ảnh
hưởng đến các khu vực phía dưới. Khối đất bị xói từ sườn đồi được đưa xuống để
dừng lại ở một nơi không xa dưới chân dốc hoặc ở một bãi nơi gần đó, ở nói ấy
đất có thể vùi lấp cây trồng hoặc làm giảm màu mỡ của đất bãi. Một phần đất xói
lở lắng xuống kênh mương tưới tiêu nước hoặc hồ chứa, các chi nhánh của dòng
chảy, dòng sông. Ở bất cứ đâu đất lắng xuống đều không tốt lành gì. Lòng, đáy bị
tích tụ đầy cần phải nạo vét; các hồ chứa nước bị đầy hoặc được nạo vét hoặc bỏ
đi. Đó là một công việc tai hại và lãng phí.

Hình 6: Xói mòn rãnh làm bồi lấp dòng sông_sông Đà.
Ảnh hưởng còn xảy ra đồi với hạ lưu các con sông, đôi khi ở rất xa vùng bị
xói mòn, nguồn gốc của đất trầm tích. Đất dọc theo sông bị cuốn trôi và lắng dần
trên đường đi. Đất trầm tích nâng độ cao cảu lòng sông làm giảm khả năng chứa
nước của con sông.
• Đất bị gió cuốn gây nguy hiểm cho đất đai.
Đất bị gió cuốn là kẻ phá hoại do xói mòn đứng thứ hai sau xói mòn do
nước. Lớp đất mặt theo gió có thể bị đưa đi xa và giống như bị nước cuốn đi,
thường đổ bộ xuống chỗ nào đó. Những đồng ruộng, nhà máy, các công trình xây
dựng có thể bị hư hại nặng do xói mòn gió, đôi khi chúng bị vùi lấp hoàn toàn.
• Sạt đất, trượt lở đất:
Hình 7: Sạt lở ở Trà Giác, huyện vùng cao
Bắc Trà My.
Hình 8: Trượt đất ở Cao Phạ, Mù Cang
Chải, Yên Bái.
Không chỉ làm lấp đất đang sản xuất mà còn làm cho việc định hình một số
khu sản xuất ở vùng đồi núi trở nên thiếu ổn định. Đã quan sát thấy hàng loạt vụ
sạt đất cát ở Mường Khương, Bắc Hà, Văn Bàn (Lào Cai). Những nơi có độ dốc
cao tầng đất không dày, sâu trên 1m đã gặp những tầng đá vụn, đát mỏng và rời
rạc khi mưa lớ n nước ngấm tới lớp đá vụn, đất không bám được vào lớp đá vụn
phía dưới bị bong ra, đùn xuống phía dưới theo trọng lực.
• Lũ bùn, lũ ống, lũ quét:
Kéo theo đá bùn, cuội, sỏi lấp đầy các ruộng lúa trên bình diện 1-2km
2
.
Hình 9: Lũ quét ở xã Nậm Lúc, Bắc Hà, Lào Cai.
5. Biện pháp cải tạo đất dốc.
Để hình thành đất cần khoảng thời gian hàng mấy nghìn năm. Theo như tính
toán của nhà bác học nổi tiếng người Hoa Kỳ là Kh. Bennett thì để hình thành chỉ
một lớp đất có độ sâu 2cm đã đòi hỏi từ 300 năm tới 1000 năm. Vì thế khi canh tác

mà không chú ý đến việc tránh xói mòn, rủa trôi đất; thì chính là một sự lãng phí
tài nguyên lớn, đặc biệt là đất dốc nơi chịu ảnh hưởng nhiều của các tác nhân ngoại
cảnh. Vì thế mà ngày nay các nước trên thế giới nói chung cũng như Việt Nam nói
riêng đã có những phương thức canh tác bền vững trên đất dốc, đề giảm thiểu sự
rửa trôi, xói mòn và các hệ lụy theo sau mà các quá trình này gây ra.
Hiện nay có những nhóm biện pháp canh tác như sau:
+ các biện pháp canh tác theo đường đồng mức.
+ các biện pháp công trình.
+ các biện pháp canh tác.
+các biện pháp sinh học.
5.1 . Các biện pháp canh tác theo đường đồng mức
Người ta sử dụng 4 kiểu canh tác theo đường đồng mức:
+ Canh tác theo đường đồng mức kết hợp băng _ SALT1: bố trí cây ngắn ngày
xen kẽ cây dài ngày.
+ Hệ thống nông – lâm – đồng cỏ _ SALT2: một phần đất dành cho chăn nuôi và
trồng trọt.
+ Hệ thống canh tác nông – lâm bền vững _ SALT3: trồng rừng với sản xuất
lương thực thực phẩm.
+ Hệ thống sản xuất nông lâm nghiệp với cây ăn quả quy mô nhỏ _ SALT4
Những biện pháp này được áp dụng kỹ thuật tiên tiến nhằm bảo vệ đất và nước
trên đất dốc, phục hồi độ phì của đất, giữ vững kết cấu của đất và đem lại hiệu quả
kinh tế, có điều kiện thu lượng đất trên mỗi bậc thềm, làm giảm chiều dài sườn
dốc,
5.2 . Các biện pháp công trình.
Công trình gồm những rãnh và bờ cao, xây dựng dọc theo đường đồng mức,
làm ruộng bậc thang dần hoặc bậc thang ngang, mương dài, mương cụt, giúp
ngăn chặn hiệu quả rửa trôi và xói mòn ở những độ dốc trung bình, giữ lại được
chất dinh dưỡng, ngăn chặn không cho rãnh xói mòn mở rộng và khoét sâu
thêm
Đồng thời những biện pháp này còn làm giảm tốc độ quá trình rửa trôi vào rãnh

xói mòn.
5.3. Các biện pháp canh tác.
- Có rất nhiều biện pháp có thể lồng ghép trong suốt quá trình phát hoang, làm
đất đến chăm sóc và thu hoạch:
+ Gieo trồng và làm đất theo đường đồng mức giúp hạn chế xói mòn và rửa
trôi.
+ Làm đất tối thiểu hoặc không làm đất làm giảm trực tiếp tác động của hạt
mưa trên đất trống, giảm sự thoái hóa cấu trúc đất và tốc độ khoáng hóa.
+ Che tủ mặt đất làm tăng chất hữu cơ cho đất, cải thiện tính chất lí hóa của đất
5.4. Biện pháp sinh học
Biện pháp này áp dụng trên tất cả các loại độ dốc giúp ngăn chặn sự mất
dinh dưỡng đồng thời làm đất tốt hơn và tăng năng suất cây trồng:
+ Luân canh cây trồng.
+ Trồng cây che phủ giúp giảm nhu cầu sử dụng phân bón và thuốc trừ sâu.
+ Tăng cường hữu cơ cho đất bằng kinh nghiệm tạo băng phân xanh.
Ngoài những biện pháp kỹ thuật trên cần phải giáo dục , tuyên truyền với
cộng đồng về bảo vệ tài nguyên đất đai đặc biệt là các đồng bào dân tộc thiểu số
_ cư dân chủ yếu trên vùng đất dốc để sử dụng đất đai bền vững và hiệu quả
nhất.
III: KẾT LUẬN
Các biện pháp canh tác trên đất dốc thì đều gây lên các ảnh hưởng nhất định
đến môi trường địa chất, không chỉ ở tại đó mà cả ở các khu vực lân cận xung
quanh, thậm chí các vùng cách rất xa nơi canh tác.
Phương thức canh tác du canh nương rẫy kết hợp với trồng thuần, trồng chay
là nguyên nhân chủ yếu gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường địa chất. Bên cạnh
đó các tập tục như chăn thả gia xúc tự do, trồng tỉa theo mùa mưa góp phần tạo
điều kiện thuận lợi cho các tác nhân thiên nhiên tác động đến môi trường địa chất.
Các ảnh hưởng của việc canh tác đến đất dốc sẽ trở thành tích cực nếu con
người áp dụng đúng các biện pháp canh tác như: làm ruộng bậc thang, trồng theo
rãnh, trồng tủ gốc, các công thức luân canh, xen canh cây trồng hợp lý, các mô

hình nông lâm kết hợp. . .trong đó canh tác theo mô hình nông lâm kết hợp đang
được chú trọng vì nó không chỉ có tác động tích cực đến môi trường địa chất mà
còn tăng hiệu quả kinh tế cho đồng bào vùng cao ở nước ta.
IV: Tài liệu tham khảo.
Bài giảng thoái hóa và phục hồi đất, thầy Nguyễn Hữu Thành, bộ môn Khoa
học đất, khoa Tài nguyên và Môi trường, trường Đại học Nông Nghiệp Hà Nội.
Canh tác đất dốc bền vững, Lê Quốc Doanh,Hà Đình Tuấn,Andre chabanne.
Nhà xuất bản Nông nghiệp, 2006
Xói mòn đất và biện pháp chống. P. X. ZAKHARÔP, người dịch Ngô Quốc
Trân. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 1981.
Tập san về thổ nhưỡng của FAO, số 50. Giữ cho đất màu mỡ_ Xói mòn đất-
Nguyên nhân và cách khắc phục. Nhà xuất bản Nông Nghiệp, 1992.
Quản lý và sử dụng đất dốc bền vững ở Việt Nam.Nguyễn Công Vinh-Mai
Thị Lan Anh. Nhà xuất bản Đại học Quốc Gia Hà Nội,2011.
http:// vnexpress.net/gl/khoa-hoc/bao-ve-moi-truong/2012/07/song-da-dang-
can-kiet-nuoc/
http ://www.baoquangninh.com.vn/chinh-tri/201109/Trinh-tu-cac-buoc-lap-de-
an-xay-dung-nong-thon-moi-cap-xa-21491 60/
m-project
vietnam.net/vi/d_li_u_nh/cac_h_th_ng_nong_nghi_p/c_nh_quan_nong_nghi_p/
chu_i_d_a_hinh_canh_tac_m_c_chau
http ://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=464273
http ://www.xaluan.com/modules.php?
name=News&file=article&sid=364932#ixzz27xfgNwC7

×