Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Phân tích sự phân bố không gian và đặc điểm văn hóa tôn giáo vùng Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.38 KB, 18 trang )

GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
MỞ ĐẦU
Tôn giáo là một phạm trù thuộc tàng kiến trúc. Tôn giáo ra đời tác động sâu sắc đến
nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.Tôn giáo không chỉ thuần túy giải thích sự hình thành,
phát triển của tự nhiên và xã hôi, không chỉ hướng con người đến những giá trị của đời
sống tinh thần và phương thức để thực hiện những ước muốn hạnh phúc của con
người.Trong đời sống tinh thần của con người, tôn giáo luôn đóng một vai trò nhất định.
Cùng với quá trình phát triển của lịch sử loại người tôn giáo ra đời và trở thành một hiện
tượng xã hội. Trên thế giới có rất nhiều tôn giáo khác nhau nhưng đa số mọi giáo lý của
các tôn giáo dều chứa đựng tính nhân văn sâu sắc. Những chiết lý ấy giúp cho con người
sống với nhau gần gũi hơn, có trách nhiệm hơn với bản thân, cộng đồng, với sự phát triển
chung của toàn xã hội
Việt Nam là một quốc gia có nhiều hình thức tín ngưỡng, tôn giáo và đang phát triển.
gồm các tôn giáo thế giới (quốc tế) du nhập vào và hình thành một số các tôn giáo bản
địa gồm Bửu Sơn Kì Hương, Tứ ân Hiếu nghĩa, Cao Đài, Hòa Hảo….đã góp phần không
nhỏ trong việc đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Tôn giáo đóng vai trò rất
to lớn, ảnh hưởng khá sâu sắc đến đời sống chính trị văn hóa, xã hội, phong tục tập quán
trong đời sống cá nhân và xã hội con người Việt Nam nói chung và đời sống của con
người Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long nói riêng. Nghiên cứu về tôn giáo sẽ góp
phần quan trọng để nhận thức và thực hiện quan điểm đổi mới của Đảng về tôn giáo, góp
phần bảo đảm sự ổn định chính trị - xã hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phấn
đấu vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.Việc phân
tích đặc điểm tôn giáo và sự phân bố các tôn giáo là vấn đề có ý nghĩa to lớn, trong phạm
vi bài tiểu luận này tập trung phân tích sự phân bố không gian và đăc điểm văn hóa các
tôn giáo ở vùng Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long .
SVTH: Hoàng Thị Xuân 1
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
B NỘI DUNG
1. Phân tích sự phân bố không gian của các tôn giáo ở vùng Đông Nam Bộ và ĐB
Sông Cửu Long
Theo số liệu thống kế mới nhất hiện nay thì Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu


Long hiện có khoảng 13 tôn giáo và nhìn chung phân bố không đồng đều giữa các tỉnh
với số lượng tín đồ khác nhau. Xét trên quy mô toàn vùng thì khu vực Đông Nam Bộ có
số lượng tín đồ ít hơn (45 triệu người) vùng ĐBSCL với số tín đồ là (54 triệu người)
Nhìn vào bản đồ thể hiện quy mô và cơ cấu sự phân bố các tôn giáo Đông Nam Bộ và
Đồng Bằng Sông Cửu Long kết hợp vớ bảng số liệu có thể thấy rằng: Số lượng người
theo tôn giáo rất đông và phân bố hầu khắp tất cả các tỉnh của cả hai vùng. Xét về quy
mô các tỉnh có nhiều người theo tôn giáo chiếm số lượng và quy mô lớn là An Giang
2.02 triệu người, TP Hồ Chí Minh là 1.98 triệu người và Đồng Nai là 1.167 triệu người.
Xét về cơ cấu: Trong mỗi vùng có các thành phần tôn giáo khác nhau và có các tôn
giáo chiếm số lượng lớn, tôn giáo chiếm số lượng nhỏ phân bố khác nhau thể hiện qua sự
phân bố của một số loại tôn giáo sau:
Phật giáo: có thể xem là tôn giáo chính, chiếm số lượng đông nhất so với các tôn
giáo khác ở vùng Đông Nam Bộ (43.9%) và Đồng Bằng Sông Cửu Long (55.89%). Đặc
biệt Phật giáo tập trung với số lượng lớn nhất ở các tỉnh Hồ Chí Minh (1.164 nghìn
người), tiếp đến là An Giang (894 nghìn người). Sở dĩ Phật giáo được xem là tôn giáo
chính và chiếm số lượng đông nhất so với các tôn giáo khác trong cả hai vùng là do Phật
giáo là tôn giáo được truyền vào nước ta từ rất sớm khoảng thế kỉ thứ II đời vua Hùng từ
Trung Quốc và Ấn Độ khi mà chưa có sự xuất hiện của các tôn giáo khác. Lúc bấy giờ
dưới chế độ phong kiến đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn, bị áp bức bóc lột
chính vì vậy mà họ cần một chỗ dựa tinh thần vững chắc, niềm tin trong cuộc sống và
Phật giáo ra đời đã đáp ứng được nhu cầu đó với những giáo lí nêu cao vấn đề bình đẳng,
chế ngự dục vọng hướng tín đồ vào sự chịu đựng những đau khổ đời thường. Đồng thời
khi Phật giáo truyền vào Việt Nam được nhiều tầng lớp hưởng ứng tích cự đặc biệt vào
thời Đinh , Tiền Lê phật giáo đã được nhà nước phong kiến coi trọng và đề cao. Đến thời
nhà Lý – Trần Phật giáo Việt Nam phát triển cự thịnh được suy tôn làm quốc giáo. Phật
giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất Việt Nam.
SVTH: Hoàng Thị Xuân 2
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
Công giáo: là tôn giáo với số lượng tín đồ đứng thứ hai sau Phật giáo ở vùng Đông
Nam Bộ (43.66%) và đứng thứ ba ĐB Sông Cửu Long (55.59%) phân bố đều khắp trên

19 tỉnh của cả hai vùng. Trong đó Công giáo tập trung với số lượng lớn nhất Đồng
Nai(797 triệu người), tiếp theo là TP Hồ Chí Minh (745 triệu người). Công giáo được
truyền vào nước ta khoảng thế kỉ XVI đến giữa thế khỉ XVII vào năm 1615 khi trung tâm
truyền giáo của Bồ Đào Nha cử hai giáo sĩ sang Hải Phố - Quảng Nam việc truyền bá
đạo Thiên chúa giáo vào Việt Nam được thực sự bắt đầu. Trong quá trình truyền giáo,
các giáo sĩ đã lồng hệ thống tổ chức giáo hội vào trong tổ chức làng xã Việt Nam cùng
với việc kết hợp chữa bệnh cho người dân chính vì vậy Công giáo nhanh chống được
người dân hưởng ứng mạnh mẽ, hình thành nên các xứ họ, xứ đạo. Đến thế kỉ XIX( thời
Nguyễn) thiên chúa giáo về cơ bản đã bước sang thời kì truyền bá và được bảo về với
việc bãi bỏ phong trào “sát đạo” của các văn thân. Trong những năm gần đây Công giáo
nước ta có chiều hướng phát triển với số lượng tín đồ khoảng 5 triệu người.
Phật giáo hòa hảo: so với Đông Nam Bộ thì ở ĐB Sông Cửu Long phật giáo hòa hảo
là tôn giáo có số lượng tín đồ đứng thứ hai sau Phật giáo chiếm (141 triệu người) tập
trung nhiều ở các tỉnh An Giang (46.27%), Cần Thơ (48,9%), Đồng Tháp (35.1%) . %).
Là một tôn giáo chỉ mới thành lập sau này nhưng lại có sự ảnh hưởng lớn đối với người
dân sống vùng ĐB Sông Cửu Long. Đây là tôn giáo bản địa Phật giáo Hòa Hảo ra đời
vào năm 1939 tại làng Hòa Hảo, Châu Đốc, An Giang và phát triể chủ yếu ở ĐB Sông
Cửu Long. Ra đời trong bối cảnh cảnh nhất định về tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở
Nam Bộ đặc biệt là trong khoảng thời gian từ sau CTTG1 đến trước Cách mạng tháng
tám 1945. Đời sống nhân dân đói khổ đặc biệt là nông dân chịu hậu quả của chính sách
khai thác thuộc địa, vơ vét thuế khóa nặng nề, đồng thời sự sa sút mệt mỏi của các tôn
giáo tín ngưỡng đương thời nhất là sự suy vi của Phật Gíáo đã tạo ra khoảng trống về tâm
linh. Sự ra đời của Phật Gíáo Hòa Hảo là sự kế thừa và phát triển từ những giáo lý của
nhà Phật. Ngoài ra Phật giáo Hòa Hảo gắn với đặc điểm tâm lý, lối sống đạo đức, tính
cách, đời sống tín ngưỡng của nông dân Nam Bộ và liên quan đến môi trường kinh tế - xã
hội - chính trị ở đây trong khoảng thời gian hai cuộc chiến tranh thế giới. Vì vậy mà Phật
giáo Hòa Hảo Hảo phát triển rất mạnh mẽ ở vùng ĐB Sông Cửu Long
Cao Đài là tôn giáo có số lượng tín đồ khá đông sau Phật giáo,Công giáo và Phật giáo
hoa hảo. Đặc biệt Cao Đài phân bố rộng hầu khắp cả 19 tỉnh của cả hai vùng . Ở Đông
Nam Bộ chiếm số lượng tín đồ (443 triệu người) cao hơn Đồng bằng sông Cửu Long(304

SVTH: Hoàng Thị Xuân 3
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
triệu người). Tập trung nhiều ở các tỉnh Tây Ninh (74.12%) Long An (21.46%) Bến Tre
(14.71%) còn lại chủ yếu ở các tỉnh khác chiếm tỉ lệ rất ít Tà Vinh (2.7%), Cà Mau
(3.1%)……. Đây là tôn giáo bản địa với tên gọi đầy đủ là “Đại đạo Tam kỳ Phổ độ” ra
đời vào 1925 trong bối cảnh đất nước ta đang bị khủng khoảng về đường lối và lực lượng
lãnh đạo còn chính sách cai trị thực dân Pháp đang đây nông dân Nam Bộ vào con đường
cùng không lối thoát trong khi các tôn giáo khác dần dần bị mất uy tín.
Một số tôn giáo khác như Minh Lý Đạo, Minh Sư Đạo,Bà la Môn…. Chiếm số lượng
tín đồ rất ít ở các tỉnh, chưa gây tầm ảnh hưởng lớn trong cuộc sống của nhân dân .
Nguyên nhân chủ yếu là do các tôn giáo này ra đời hay du nhập muôn hơn các tôn giáo
khác cũng như phát triển trong điều kiện và hoàn cảnh có các tôn giáo khác phát triển và
gây tầm ảnh hưởng lớn hơn.
>>> Nhìn chung Vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng sông Cửu Long tôn giáo phát triển
khá mạnh mẽ, lớn về số lượng và đa dạng về cơ cấu với nhiều thành phần tôn giáo khác
nhau. Trong đó có các tôn giáo chính như Phật giáo, công giáo, hòa hảo chiếm số lượng
tín đồ lớn và phân bố rộng rãi ở hầu khắp các tỉnh. Bên cạnh đó hầu như ở tất cả các tỉnh
đều có các tín đồ theo tôn giáo phân bố rộng khắp trên cả hai vùng.
2. Đặc điểm văn hóa các tôn giáo ở các vùng Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long
2.1 Các đặc trưng chính về tôn giáo
- Tính đa dạng : Do tiếp biến tôn giáo của các dân tộc khác nhau trong lịch sử, tôn
giáo của vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có tính đa dạng chứ không
thuần nhất. Hầu hết các hình thức tôn giáo nguyên thủy đến hiện đại đều có mặt ở đây:
tôn giáo nguyên thủy, tôn giáo dân tộc, tôn giáo thế giới, tôn giáo thờ cúng nhiên thần,
tôn giáo thờ cúng nhân thần, tôn giáo đa thần, tôn giáo độc thần.
- Tính dung hợp, đan xen hòa đồng, khoan dung của tín ngưỡng tôn giáo. Do tiếp biến
tôn giáo của nhiều dân tộc người bản địa và ngoại lai nên tôn giáo của cư dân vùng Đông
Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long có đặc tính dung hợp rất cao.Ví dụ như truyền
thống “Tam giáo đồng nguyên”, “Ngũ chi hợp nhất” được kết tinh trong đạo Cao Đài.
Những tôn giáo độc thần như : Công Giáo, Tin Lành du nhập vào hai vùng này cũng như

tôn giáo nội sinh: Cao Đài, Hòa Hảo…ít nhiều có sự đan xen, dung hợp và kế thừa của
nhau.
SVTH: Hoàng Thị Xuân 4
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
- Tính dân tộc: Do gắn bó mật thiết với văn hóa tộc người, hoạt động tôn giáo của các
dân tộc người ở Việt Nam nói chung và Đông Nam Bộ, Đồng Bằng Sông Cửu Long nói
riêng đều có tính dân tộc rõ rệt. Các dân tộc, các nhóm địa phương dễ dàng nhận ra nhau
qua các hoạt động tôn giáo chung. Sự biến đổi tôn giáo và bất đồng tôn giáo thường tạo
ra nguy cơ chia tách các tộc người thành các nhóm địa phương.
- Tính hệ thống: Hoạt động tôn giáo của dân tộc người Việt Nam nói chung và Nam
Bộ nói riêng không tồn tại riêng rẽ mà luôn gắn bó với chủ thể văn hóa và thể hiện qua
các hoạt động văn hóa khác nhau như tổ chức cộng đồng, phong tục, lễ hội, truyền
thuyết….trong các hệ thống văn hóa tộc người.
-Theo tín ngưỡng tâm linh thần thánh hóa nhứng người có công với gia đình làng nước.
thuộc loại này có các tôn giáo thờ cúng nhân thần như thờ cúng tổ tiên, Quan Thánh Đế
quân (gia đình) Bà Thiên Hậu, Ông Bổn(chùa, miễu), tổ nghề nghiệp….Người dân vốn
có tinh thần yêu nước, trọng tình nghĩa nên các tín ngướng, tôn giáo ở Việt Nam nói
chung, Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng luôn thấm đượm tinh thần
ấy.
- Trong những năm gần đây khi mà đời sống của con người không ngừng nâng cao,
kinh tế phát triển nhu cầu du lịch tâm linh của con người không ngừng tăng lên chính vì
vậy mà hoạt động tôn giáo trong những năm gần đây của vùng mang tính chất thị trường
như việc tu sữa đền, chùa đáp ứng nhu cầu tham quan, du lịch, việc tăng cường mở các
lễ, hội nhằm mang lại doanh thu lớn.
- Sự bất ổn về tình hình chính trị khi mà một số tôn giáo bị các thế lực thù địch phản
động trong và ngoài nước lợi dụng vì mục đích chính trị. Tôn giáo luôn có hai mặt nhận
thức tư tưởng và chính trị. Các thế lực trong và ngoài nước đang lợi dung điểm yếu này
để hòng phá vỡ, chia rẽ sự đoàn kết dân tộc xóa bỏ XHCN ở nước ta. Nên một mặt phải
tăng cường đáp ứng nhu cầu tín ngướng chính đáng của nhân dân. Một mặt phải luôn
cảnh giác với mọi âm mưu lợi dụng tôn giáo cảu các thế lực thù địch

- Các tín đồ tôn giáo ở vùng Đông Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu long đều là nông
dân lao động. Nhìn chung các tín đồ ít chuyên sâu hiểu các giáo lí sâu sắc chủ yếu là thực
hiện các lễ nghi tôn giáo và sinh hoạt cộng đồng tín ngưỡng một cách nhiệt tâm.
2.2 Tìm hiểu đặc điểm văn hóa của một số loại tôn giáo của vùng
Là vùng có thể nói là đa dân tộc, nới chứa đựng nhiều bản sắc văn hóa độc đáo riêng
của mỗi vùng. Là vùng có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc phát triển và sinh sống của
con người với các luồng di cư từ miền Bắc vào Miền Nam để khai hoang , lập nghiệp như
SVTH: Hoàng Thị Xuân 5
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
người Việt, Khơ me, Hoa…Chính vì vậy đây là điều kiện thuận lợi cho sự du nhập và
phát triển các tôn giáo có nguồn gốc Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ với đầy đủ các loại hình
tôn giáo. Cùng với đời sống tâm linh đã làm nên sự đa dạng trong tôn giáo và tín ngướng
của vùng.
2.2.1 Các tôn giáo du nhập từ bên ngoài
2.2.1.1 Phật giáo
Phật giáo truyền vào nước ta từ rất sớm. Theo hiểu biết hiện nay của giới nghiên cứu
lịch sử thì Phật giáo truyền vào Việt Nam từ những năm đầu công nguyên khoảng cuối
thế kỉ thứ II và đầu thế kỉ thứ II.
Phật giáo được truyền vào Việt Nam theo hai con đường:
- Đường biển từ Ấn Độ sang: vào đầu công nguyên Phật giáo từ Ấn Độ đã trực tiếp
truyền vào Việt Nam theo đường biển cùng với thương nhân.
- Đường bộ từ Trung Quốc sang có phần muộn hơn vào khoảng thế kỉ IV –V đó là phật
giáo Đại thừa Bắc Tông.
Trong đó vùng Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long phật giáo du nhập từ Trung
Quốc sang. Trong quá trình di dân từ miền Trung vào miền Nam khai phá vùng đất mới
bên cạnh những người Việt còn có cả người Trung Quốc đến Việt Nam định cư vào nhiều
thời điểm khác nhau. Người dân Trung Quốc đã mang theo tín ngướng tôn giáo của mình
đến một vùng đất mới kể từ đó mà Phật giáo được du nhập vào đây tiêu biểu là sự hiện
diện của nhiều Thiền sư Trung Hoa đến Việt Nam truyền đạo từ gần hai thiên niên kỉ
trước. Điểm dừng chân của các Thiền sư Trung Hoa vào Đàng Trong từ những thế kỉ

XVI, XVII đã được ghi lại nhiều trên vùng đất Hội An thuộc Quảng Nam – Đà Nẵng. Ở
Đông Nam Bộ và Đồng Bằng sông Cửu Long nhiều chùa cổ còn đặt bài vị và nhắc đến
sự có mặt của Thiền sư Bổn Quả và Thiền sư Nguyên Thiều .
 Đặc điểm của Phật giáo
- Sự sùng mộ Phật giáo: trong 200 vị danh tăng Việt Nam thế kỉ XX được tôn vinh có đến
71 vị danh tăng sinh quán ở Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long. Có 70-80% người
dân có cảm tình, thiên hướng, có tâm thức với Phật giáo. Các danh tăng chủ yếu xuất
SVTH: Hoàng Thị Xuân 6
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
phát trong gia đình có truyền thống nho giáo, kính tín Tam Bảo. Sự sùng mộ Phật giáo
của người dân được thể hiện qua nhiều hoạt động như việc thiết kế, tu bổ chùa chiền.
- Phật giáo có tính dung hợp và tính năng động cao: Tính tổng hợp của Phật giáo Đông
Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long thể hiện qua khả năng dung hợp cao với những giáo
phái khác
+ Sự cộng cư của người Việt, Hoa, Khơ me nên Phật giáo phần nào mang dấu ấn của
giao lưu, tiếp biến những ảnh hưởng văn hóa Phật giáo của người Việt, Hoa, Khơ me thể
hiện trong kiến trúc đền chùa của người Khơ me có thêm kiến trúc Việt Nam
+ Tính năng động của tôn giáo thể hiện rất rõ qua phong trào chấn hưng Phật giáo
hình thành và phát triển mạnh mẽ 1920 – 1930. Với nhiều tri thức, nho giáo phạm vi ảnh
hưởng của các danh tăng có tầm ảnh hưởng rất lớn trên cả nước.
>> Tính năng động, tính mở thể hiện rất rõ nét Phật giáo Nam Bộ mang tính khai phá chứ
không chỉ giữ gìn truyền thống.
- Phât giáo có tính nhập thế mạnh mẽ: Nổi bật lên tinh thần “Vì đạo pháp – Vì dân
tôc” 1920 nhiều vị danh tăng trong chùa đã gắn với hoạt động yêu nước, chống ngoại
xâm của các hội kín như Thiên địa hội , phong trào Đông kinh nghĩa thục. Rất nhiều danh
tăng đã đóng góp hết mình cho dân tộc như chế tạo vũ khí (Thích Pháp Tràng) tham gia
truyền đơn (Thích hàng minh). Tính nhập thế còn thể hiện trong sự gắn bó Phật giáo với
khoa học đời sống, nhiều danh tăng trước và sau khi xuất gia đều hôc riêng thêm một số
nghề như nghề y học cổ truyền….
+ Phật giáo với tính thực tiễn, bình dân và bình chủ . hướng đến việc truyền bá phật

pháp sao cho đáp ứng nguyện vọng và phù hợp trình độ của đông đảo cư dân vùng Đông
Nam Bộ và Đồng Bằng Sông Cửu Long vốn chủ yếu là nông dân . Những công trình dịch
tất cả đều được biên soạn bằng chữ quốc ngữ
2.2.1.2 Tin Lành
So với các tôn giáo khác thì Tin Lành ra đời muộn hơn được du nhập vào Việt Nam
khoảng cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX do tổ chức Tin lành “Liên hiệp phúc âm truyền
giáo”. Quá trình du nhập đạo Tin Lành vào Việt Nam trải qua một khoảng thời gian từ
1887 đến 1991. Đặc biệt trong những năm 1954 – 1975 lợi dụng chiến tranh xâm lược đế
SVTH: Hoàng Thị Xuân 7
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
quốc mĩ CMA đã lập ra Tống liên hội thánh Tin lành Việt Nam thường gọi là Hội thánh
Tin lành Việt Nam vào Nam Bộ
 Đặc điểm của đạo Tin lành
Về giáo lý: Đạo Tin lành đề cao lý trí trong đức tin, là một nhánh của Kitô giáo nên
cũng lấy kinh thánh Cựu ước và Tân ước làm nền tảng giáo lý. Khác với Công giáo, Tin
lành đề cao vị trí kinh thánh, coi đó là chuẩn mực căn bản duy nhất của đức tin và sự
hành đạo, nhưng không coi kinh thánh là cuốn sách của riêng giáo sĩ mà tất cả các tín đồ,
giáo sĩ đạo Tin lành đều đọc, sử dụng, nói và làm theo kinh thánh, cũng thờ Thiên chúa
và thừa nhận chúa 3 ngôi: Cha, Con, Thánh thần; tin muôn vật đều do thiên chúa tạo
dựng. Nhưng trong tín điều về Đức Bà hoài thai chúa GiêSu một cách mầu nhiệm, họ
phản đối mọi sự thờ phụng bà Maria.
Với lối sống nhẹ nhàng đơn giản, không rườm rà và ràng buộc khắt khe như đạo công
giáo lại đề cao tinh thần dân chủ trong các hoạt động về tổ chức nên đạo tin lành mang
màu sắc mới mẻ thích hợp với lối sống của giai cấp tư sản, tiểu tư sản, công chức thị dân
nói chung trong xã hội công nghiệp
Về nhân sự, đạo Tin lành cũng có giáo sĩ như công giáo. Giáo sĩ đạo Tin lành có hai
chức: mục sư và giảng sư, không áp dụng luật độc thân như giáo sĩ đạo Công giáo. Và có
một điều đặc biệt là giáo sĩ Tin lành có nhiều người là nữ. Các giáo sĩ tuy cũng được coi
là người chăm sóc linh hồn cho tín đồ nhưng không có quyền thay mặt Chúa để ban phúc
hay tha tội cho con chiên.

Mặc dù được đánh giá là một tôn giáo “tiến bộ”, “năng động” và dễ thích nghi nhưng
vì đạo Tin lành đề cao vai trò của kinh thánh, thậm chí có một số hệ phái Tin lành tỏ ra
rất bảo thủ, không chấp nhận những điều gì trái với kinh thánh nên dẫn đến sự phản ứng
đối kháng với văn hoá tín ngưỡng truyền thống của các tín đồ ở những nơi đạo Tin lành
truyền bá.
Sự va chạm, xung đột với các tập tục gia đình, xã hội, tín ngưỡng cổ truyền và các tôn
giáo khác ở Việt Nam. Đối với mỗi người Việt Nam, thờ cúng ông bà, tổ tiên, thành
hoàng và những người có công với làng, nước là sự thiêng liêng, thậm chí đã thành tiêu
chí hàng đầu về đạo đức của mỗi thành viên trong gia đình, họ tộc, làng xóm. Những tập
tục xuất phát từ trong nghi lễ chịu ảnh hưởng của Nho giáo, thể hiện lòng hiếu thảo của
SVTH: Hoàng Thị Xuân 8
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
con cái đối với ông bà, cha mẹ như giỗ chạp, ma chay, cưới xin đã góp phần vào nết đẹp
văn hoá mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc.
Hơn nữa, hiện nay các thế lực thù địch và lực lượng chống đối muốn thông qua đạo
Tin lành để thực hành chủ nghĩa li khai, giải lãnh thổ. Ở Việt Nam, điều này đã trở thành
hiện thực khi người ta thấy Tin lành lan toả một cách nhanh chóng ở những vùng đất
“phên dậu” của tổ quốc: tại đồng ĐB Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ.
2.2.1.3 Hồi giáo
Đạo hồi được du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỉ X – XIV. Do vị trí địa lí và
hoàn cảnh truyền đạo, điều kiện sống và sự giao lưu của đồng bào Chăm với bên ngoài
thế giới Hồi giáo mà hình thành hai khối người chăm theo Hồi giáo với nhiều khác biệt
đáng kể về mặt tôn giáo từ kinh sách đến các tín điều và nhất là các luật lệ, lễ nghi.
+ Khối người chăm theo hồi giáo vùng Ninh Thuận, Bình Thuận là Hồi giáo không
chính thống gọi là Chăm Bàni
+ Khối người Chăm theo Hồi giáo ở TP Hồ Chí Minh, An giang, Đồng Nai, Tây Ninh
là hồi giáo chính thống gọi là Chăm Islam
>> Đặc điểm hồi giáo vùng Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long
- Người Chăm Hồi giáo ở Việt Nam đặc biệt là những người Chăm Hồi giáo ở Nam
Bộ tuân thủ khá chặt chẽ những giáo lý, giáo luật của Hồi giáo chính thống. Họ đã thay

đức tin “Thánh chiến để bảo vệ Hồi giáo” bằng đức tin “Tin tưởng Thượng đế Allah là
tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng của Allah, là người khai sáng Islam”.
- Trong xã hội Chăm truyền thống cũng như hiện tại ở nước ta vấn đề hôn nhân và gia
đình của người Chăm Hồi giáo (đặc biệt là Chăm Bàni ở miền Trung Việt Nam) có rất
nhiều cải biến để phù hợp với truyền thống dân tộc và luật pháp Việt Nam, thập chí có
những tác động để cải biến các giáo lý Hồi giáo khắt khe.
- Người Chăm ở Việt Nam theo mẫu hệ, con cái tính theo dòng mẹ, người phụ nữ
trong nhà nắm giữ nhiều của cải, quyết định mọi hình thức cưới hỏi. Đạo Hồi đã đem phụ
hệ, phụ quyền vào đời sống Chăm nhưng đã dung hoà với phong tục truyền thống Chăm:
SVTH: Hoàng Thị Xuân 9
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
+ Trong hôn nhân có sự bình quyền tương đối giữa nhà trai và nhà gái, cho tự do tìm
hiểu giữa nam nữ trước hôn nhân.
+ Cho phép kết hôn con chú, con gì.
+ Cho phép con mang cả họ mẹ và họ cha.
- Người Chăm Hồi giáo ở Việt Nam nói chung và kể cả những tín đồ Chăm Hồi giáo
nhiệt thành ở Nam Bộ, do ảnh hưởng truyền thống chuộng hoà bình của dân tộc và các
chính sách phù hợp đối với tôn giáo của Đảng và Nhà nước nên việc thực hiện năm hành
vi tôn giáo đã được cải biến:
+ Tin tưởng Thượng đế Allah là tối cao duy nhất, và Muhammad là sứ giả cuối cùng
của Allah, là người khai sáng Islam.
+ Mỗi ngày đêm phải cầu nguyện đủ 5 lần.
+ Phải ăn chay trọn tháng Ramadan.
+ Phải bố thí để giúp đỡ người khó khăn hơn mình.
+ Nếu có khả năng thì ít nhất một lần trong đời hành hương về thánh địa Mecca
(Saudi Arabia) để làm lễ Haji
- Đối với người phụ nữ Giáo lý Hồi giáo có những quy định khắt khe đối với phụ nữ
trong hôn nhân và vai trò của họ trong gia đình và xã hội. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo
trong cộng đồng người Chăm ở Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long đối với người phụ
nữ khá dung hoà trong quan hệ giới và quan hệ xã hội.

2.2.1.4 Công giáo
Công giáo được truyền vào Việt Nam bằng nhiều tên gọi khác nhau như Thiên Chúa
Giáo, công giáo, Đạo Hoa Lang vào khoảng thế kỉ XVI thi thoảng có các giáo sĩ Tây ban
nha hay Bồ Đào Nha dừng chân giảng đạo tại Việt NamNăm 1696 – 1710 Người theo
đạo Thiên Chúa giáo là một trong những nhóm người Việt đầu tiên di chuyển và định cư
tại vùng Đông Nam Bộ và ĐB Sông Cửu Long. Người có công nhiều nhất trong việc xây
SVTH: Hoàng Thị Xuân 10
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
dựng giáo hội Thiên Chúa giáo Nam Bộ từ những buổi ban đầu, đến phụ trách việc
truyền đạo ở đây là linh mục José Garcia, dòng Phan-si-cô.
 Đặc điểm của Công giáo
Về Giáo lý: Giáo lý của Công giáo được thể hiện trong kinh thánh, một bộ sách gồm
hai phần: Cựu ước và Tân ước với 46 quyển chứa đựng những giáo lý, quan niệm về con
người của Cơ đốc giáo. Phần Tân ước với 27quyển, trình bày toàn bộ giá trị văn hóa của
người Do Thái . Giáo lý với 12 điều cơ bản xoay quanh một điều chủ chốt là niềm tin vào
Đức Chúa trời và sự màu nhiệm của Thiên chúa. Người là đấng tối cao, mọi sự tồn tại,
biến đổi trong vũ trụ đều do chú sắp xếp, an bài.
Về nhân sự : Giáo hội Công giáo được tổ chức thống nhất trên phạm vi toàn thế giới
với 3 cấp cơ bản. Đó là giáo triều ở cấp toàn cầu (toàn bộ quyền lực tập trung vào người
đứng đầu gọi là Giáo Hoàng với bộ máy giúp việc tài tòa thánh Vantican), giáo hội địa
phương ( tức là giáo phận với người đứng đầu gọi là Giám mục) và giáo hội cơ sở ( tức là
giáo xứ hay xứ đạo, với người đứng đầu là linh mục)
2.2.1.5 Minh sư đạo
Giáo hội Phật Đường Nam Tông minh Sư đạo là một giáo hội tôn giáo có giáo lý dựa
trên Phật giáo Thiên Tông, Đạo giáo và Nho giáo tại Việt Nam là nhánh chính trong năm
nhánh của Ngũ chi Minh đạo. Phương châm tu của đạo là “Phổ đọ chúng sinh – Chân tu
giải thoát”. Năm 1863 Kim Tổ Sư đưa đạo này du nhập vào Việt Nam. Kim Tổ Sư đã lập
tại Cầu Kho (Chợ Lớn) một Phật Đường gọi là Chiếu Minh Phật Đường trong thời gian
ngắn Minh sư đã có ảnh hưởng tới cộng đồng người Việt ở Nam Bộ
Về giáo lí: Quan điểm về thế giới quan của Minh Sư chia thành ba cõi: Thượng giới

là cõi trời. Ngọc Hoàng Thượng Đế là vị chủ tê ngự trị ở cõi trời. Chư Phật và các vị bồ
Tát ỡ cõi Tây Phương các vị Thần tiên ở cõi Bông Lai
+ Tôn chỉ mục đích là tự tu, tự độ tự tha thuân túy tu hành, tu chơn giải thoát, nhằm
hiệp nhất tinh hoa của ba nên tôn giáo lớn Nho – Thích – Đạo để tìm lại cội gốc là đạo
+ Đạo Minh Sư biểu hiện qua 3 hình thức: Lễ phục là săn phục của tu sỹ, tín đố khi
hành lễ bái, áo dài màu đen, quần trắng, chân mang hài vải màu đen hoặc vớ, khi hành lễ
từ bậc Sám hối trở lên phải mặc áo rộng màu đen, quần trắng.
+ Pháp tu Minh Sư rất nghiêm, tín đồ khi nhập môn vào đạo đều ăn chay trường, tuyệt
dục, tuân thủ giới luật.
SVTH: Hoàng Thị Xuân 11
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
+ Pháp tu Minh Sư rất nghiêm, tín đồ khi nhập môn vào đạo đều ăn chay trường, tuyệt
dục, tuân thủ giới luật.
Về giáo luật : Minh Sư đạo chia ra hai thành phần trong Giáo hội:
- Thành phần giáo phẩm (xuất gia tu Phật, trường trai cấm giới) gồm Thiên ân, Chứng
ân, Dẫn ân, Bảo ân, Đảnh hàng, Bổ thiệt, Thập địa, Thái Lão sư đã được Giáo hội tấn
phong.
- Thành phần đại chúng (tại gia tu Phật) gồm có thiện nam, tín nữ trọn đời vì đạo cầu
sám hối, nhất bộ, nhị bộ, tam bộ được gọi là tu sỹ, những nam nữ cầu qui y hộ đạo, chưa
được thọ giới luật của hàng tu sỹ gọi chung là tín đồ. Cấp tu trong Minh Sư đạo gồm ba
bậc:
- Bậc Thượng thừa: Thái Lão sư , Thập Địa Lão sư, Bổ Thiệt Lão sư, Đảnh hàng Lão

- Bậc Trung thừa: Bảo ân, Dẫn ân, Chứng ân, Thiên ân.
- Bậc Hạ thừa: Tam bộ, Nhị bộ, Nhất bộ, Sám hối (ăn chay trường giữ giới đạo), Quy
y Hộ đạo (ăn chay theo kỳ).
- Nữ phái chỉ được cầu đạo trong phạm vi hai bậc là Hạ thừa và Trung thừa (phẩm cao
nhất là Bảo ân). Nữ phái ở phẩm Thiên ân, Chứng ân, Dẫn ân được gọi bằng Cô; phẩm
Bảo ân được gọi bằng Cô Thái hoặc Bà Thái.
2.2.2 Các tôn giáo bản địa

2.2.2.1 Đạo Cao Đài
Đạo Cao Đài là tên gọi tắt của một tôn giáo bản địa Việt Nam, có tên đầy đủ là “Đại
đạo Tam kỳ Phổ độ”. Đạo Cao Đài ra đời vào đêm Noel năm 1925 trong bối cảnh cách
mạng nước ta đang bị khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo, còn chính sách
cai trị thực dân Pháp đang đẩy nông dân Nam Bộ vào con đường cùng không lối thoát,
trong khi các tôn giáo khác dần dần bị mất uy tín. Đó còn là hệ quả trực tiếp và điển hình
của tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” (Phật – Lão – Nho) vốn có ở nước ta từ lâu đời
được phục hưng ở Nam Bộ vào đầu thế ký XX qua sự hoạt động của Ngũ chi Minh
đạo( minh sư, Minh lý, Minh Thiện, Minh đường, Minh Tân) là sự hòa nhập giữa trào
lưu “Thần linh học” – một hình thức mê tín của dân phương Tây với tục cầu hồn, cầu tiên
của người Việt trong những năm 1924 – 1926, đã tạo nên phong trào cầu cơ – chấp bút
SVTH: Hoàng Thị Xuân 12
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
(gọi tắt là cơ bút), khá sôi nổi ở vùng Nam Bộ. Nhu cầu lúc bấy giờ của nhân dân Nam
bộ là muốn có một tôn giáo mới phù hợp với tâm trạng của họ và đạo Cao Đài ra đời đã
đáp ứng được vấn đề tư tưởng tình cảm và tôn giáo của nông dân nơi đây. Vì lẽ đó ngay
lập tức đạo Cao đài ra đời đã được đông đảo quần chúng đón nhận và được thống đốc
Nam Kỳ đồng ý vào tháng 10 năm 1926. Đạo Cao đài do một số người thuộc tầng lớp
trên (tư sản, địa chủ, tiểu tư sản), công chức chủ trương, ban đầu vốn là một trào lưu
chính trị với mục đích thành lập đạo để tập hợp lực lượng quần chúng mà chủ yếu là
nông dân chống lại sự kỳ thị, bóc lột, chèn ép của thực dân Pháp. Song sau đó trào lưu
này đã nhanh chóng trở thành một tôn giáo lớn tại Nam bộ cho đến tận ngày nay.
 Đặc điểm của đạo Cao Đài
- Giáo lý và thờ phụng
+ Nội dung giáo lý của đạo Cao Đài là sự vay mượn, chắp vá, kết hợp, nhào trộn các
giáo lý của các tôn giáo đã có từ cổ chí kim, từ đông sang tây.
+ Đạo Cao đài có chủ trương “Qui nguyên tam giáo” (Phật – Lão – Nho, đây có thể
coi là nền tảng tư tưởng của đạo, đạo Cao Đài hợp nhất ba tư tưởng lớn của ba đạo (từ bi
của đạo Phật, bác ái của Đạo giáo, công bằng của đạo Nho) và có ý đồ “hợp nhất ngũ
chi” – thống nhất 5 ngành đạo (nhân đạo – Khổng tử, thần đạo – Khương Thái Công,

thánh đạo – Giê su, tiên đạo – Lão Tử, Phật đạo - Thích ca Mầu ni) và đấy là trung tâm
giáo lý của đạo. Từ đó đạo Cao Đài bộc lộ ý đồ là “tôn giáo của tôn giáo” và làm cho
giáo lý mang tính dung hợp rất phức tạp.
+ Đạo Cao Đài thờ thượng đế bằng hình ảnh con mắt gọi là thiên nhãn và cho rằng
thiên nhãn trong sáng như gương nên không mảy may gì xảy ra dưới phàm trần, dù lớn
nhỏ, lành dữ mà thượng đế không biết. Hình ảnh con mắt được coi là biểu tượng của đạo
Cao.
- Luật lệ, nghi lễ của đạo Cao Đài
+ Đạo Cao Đài đặt ra nhiều quy định về luật lệ, lễ nghi để hướng dẫn người theo đạo
tu tâm và xử thế
+ Ngũ giới cấm: bất sát sinh, bất du đạo, bất tữu nhục, bất tà dâm, bất vọng ngữ.
Ngoài ra còn những quy định về nhập môn cầu đạo, xây dựng thánh thất, tổ chức tang tế,
hôn nhân
+ Bốn điều trau dồi đức hạnh: tuân lời dạy bề trên, lấy lẽ hòa người. Chớ khoe tài kiêu
ngạo giúp người nên đạo. Đứng vay mượn không trả, cần khiêm cung. Đứng kính trước
SVTH: Hoàng Thị Xuân 13
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
khinh sau, đừng cậy quyền mà trù dập người tài.Ăn chay từ sáu ngày (lục trai) đến 10
ngày (thập trai)
- Tổ chức
+ Mỗi hệ có tổ chức giáo hội riêng. Thành phần của giáo hội Cao Đài gồm chức
sắc,chức việc và tín đồ
+ Tổ chức trung ương gồm 3 đài là: Bát quái Đài, Hiệp thiên Đài, Cửu Trùng Đài
>> Trong thời kỳ đổi mới, các hệ phái đã sinh hoạt trở lại với sự giúp đỡ của Đảng và
Nhà nước. Nhiều hệ phái được thừa nhận tư cách pháp nhân như: Tiên thiên, Minh Chơn
đạo, Bạch Y Liên Đài… Qua đó, lòng tin vào chính sách tôn giáo của Đảng được củng cố
trong tín đồ. Xu thế chung là tín đồ đạo Cao Đài muốn hành đạo thuận lợi trong khuôn
khổ luật pháp và làm tròn nghĩa vụ công dân
2.2.2.2. Phật giáo hòa hảo
Phật giáo hòa hảo ra đời vào năm 1939 tại làng Hòa Hảo, Châu Đốc, An Giang và

phát triển chủ yếu ở Đồng bằng sông cửu Long. Người sáng lập ra phật giáo hòa hảo là
ông Huỳnh Phú Sổ . tên gọi “Hòa Hảo” vừa để chỉ địa danh quê Huỳnh Phú Sổ vừa nói
lên tinh thần liên kết trên cơ sở hiếu hòa và giao hảo.
 Đặc điểm của Phật giáo hòa hảo
- Giáo lý: lấy pháp môn Tịnh Độ Tông của Phật giáo làm căn bản kết hợp với đạo ông
bà dân tộc
Nội dung giáo lý gồm hai phần: Học Phật và Tu nhân.
- Phần Học Phật: chủ yếu dựa vào giáo lý Phật giáo nhưng được giản lược bớt và có
sửa đổi đôi chỗ, có 3 pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện pháp
- Phần Tu nhân: Phần thực hành đạo đức “Tứ ân hiếu nghĩa” để tu thân. Đó là thực
hành ân tổ tiên cha mẹ, ân đất nước, ân tam bảo, ân đồng bào và nhân loại.
- Tổ chức và nghi lễ
+ Chủ trương tu hành tại gia tránh mọi nghi lễ rườm rà, không cất chùa đúc tượng,
không tổ chức lễ hội tốn kém
+ Việc thờ phụng và hành đạo rất đơn giản, thờ phụng chủ yếu tại gia đình
+ Theo bảng hiến chương 2004 cơ cấu tổ chức giáo hội phật giáo Hòa Hảo được
hình thành hai giai cấp: Ban trị sự trung ương, Ban trị sự xã, ngoài ra cấp tỉnh có Đại
Diện
SVTH: Hoàng Thị Xuân 14
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
2.2.2.3 Bửu sơn kì hương
Đạo Bửu Sơn Kỳ Hương (BSKH) là tôn giáo đầu tiên ra đời ở Việt Nam được thành
lập năm Năm 1849. Người sáng lập là Đoàn Văn Huyên, pháp hiệu là Minh Huyên và
Pháp Tạng (1807 – 1856), người làng Tòng Sơn, Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng
Tháp). Danh từ Bửu Sơn Kỳ Hương này được truyền ra là từ khi ông về tại chùa Tân An
ở núi Sam, An Giang.
 Đặc điểm Bửu Sơn Kì Hương
Giáo phái BSKH là một tôn giáo nhập thế, một tôn giáo yêu nước có ảnh hưởng lớn
đến lịch sử chính trị và tôn giáo tại Nam Kỳ từ giữa thế kỷ 19. Hậu thân của giáo phái
này là các giáo phái Phật giáo Hòa Hảo, Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa.

Về giáo lý” : BSKH được thành lập bằng cách đơn giản hóa đạo Phật – cả về giáo lý
cũng như về nghi thức như khuyên mọi người tu nhân, học Phật (rèn luyện để làm người
tốt, thực hành lời Phật dạy) và đền đáp tứ đại trọng ân (bốn ơn lớn: ơn tổ tiên cha mẹ, ơn
đất nước, ơn tam bảo và ơn đồng bào nhân loại).
Ông không yêu cầu tín đồ cạo đầu, ăn chay, tụng kinh, gõ mõ, thờ ảnh tượng… mà chỉ
yêu cầu họ niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thờ trần điều (tấm vải màu đỏ), cúng bông hoa,
nhang đèn, nước lã, mặc áo quần màu đen, có thể để râu, tóc, cưới vợ, lấy chồng, khuyên
tín đồ khẩn đất hoang, lập trại ruộng, xây dựng cuộc sống mới
2.2.2.4 Tịnh độ cư sĩ hội phật giáo Việt Nam
Tịnh độ cư sĩ Phật hội Việt Nam là một tổ chức tôn giáo - xã hội dựa trên nền tảng
là Phật giáo nhưng độc lập với Giáo hội Phật giáo Việt Nam hoạt động với phương châm
hành đạo là “Tu học-hành thiện-ích nước-lợi dân được thành lập đầu năm 1934. Người
sáng lập và là giáo chủ Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam là Đức Tông Sư Minh Trí tên
thật là Nguyễn Văn Bồng
 Đặc điểm của Tịnh độ cư sĩ phật hội Việt Nam
- Giáo lí cơ bản: Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam lấy Phật giáo làm gốc, nhưng diễn
đạt ngắn gọn, dể hiểu phù hợp với đời sống của đa số người dân. Giáo lí tập trung ở các
quyển kinh, luật căn bản như: Lễ bái lục phương khuyên người cư sĩ tại gia sống tích cực
nhập thế giữa đời thường mà không đánh mất tâm tính thanh tịnh.
- Về lễ tiết Tịnh độ Cư sĩ Phật hội Việt Nam hành lễ đơn giản nhưng thành kính.
Hàng năm có hai ngày lễ lớn là lễ Phật đản và lễ kỉ niệm ngày viên tịch của Đức Tông Sư
SVTH: Hoàng Thị Xuân 15
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
Minh Trí. Hằng tháng ngày mồng một và mười lăm âm lịch là những ngày sóc vọng làm
lễ quy y cho các tín đồ mới nhập đạo.
- Về cơ cấu giáo hội: Quản lý theo hệ thống từ trung ương xuống đến các chi hội tại
21 tỉnh/thành phố từ Khánh Hòa đến Cà Mau. Có 4 cấp quản lý là Ban Trị sự trung ương,
cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã. đứng đầu Ban Trị sự Trung ương là ông Chánh Hội trưởng
lãnh đạo chung. Đứng đầu các Ban Trị sự Tỉnh hội là ông Hội trưởng. Đứng đầu các ban
cấp quận, huyện hội gọi là Trưởng ban Y tế phước thiện

2.2.2.6 Minh lý đạo
Minh Lý Đạo là một tôn giáo Việt Nam được sáng năm 1924 . Sáu vị chức sắc có
công khai đạo Minh lý gồm: ông Âu Kiệt Lâm, pháp danh Minh Chánh; ông Nguyễn Văn
Xưng, pháp danh Minh Giáo; ông Nguyễn Văn Đề, pháp danh Minh Đạo; ông Lê Văn
Ngọc, pháp danh Minh Truyền; ông Nguyễn Văn Miết, pháp danh Minh Thiện; ông Võ
Văn Thạnh, pháp danh Minh Trực…Nơi thờ cúng và sinh hoạt của đạo là Tam Tông
Miếu ở số 82 đường Cao Thắng, phường 4, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.
 Đặc điểm Minh Lý Đạo:
Về giáo lý : Giáo lý của Minh Lý đạo là sự kết hợp tinh hoa của ba tôn giáo lớn ở
phương Đông là đạo Thích - Lão – Nho làm một (Qui nguyên tam giáo) để hướng dẫn tín
đồ, môn sanh tu hành, tự độ, vị tha độ dẫn loài người xây dựng một xã hội hòa bình, an
lạc và được tạo thành trên ba nguyên tắc: Tam giáo hiệp nhứt (Thích - Lão - Nho); Tam
giáo qui nguyên,;Chấp trung thủ. Minh Lý đạo chỉ dùng Việt ngữ để người đọc dễ hiểu,
dễ nhớ, dễ thuộc. Bộ kinh được chia làm năm: Kinh Bố cáo, Kinh Sấm hối, Kinh Tịnh
nghiệp vãn, Kinh Nhựt tụng, Kinh Giác thế.
Về tổ chức: Hội đồng Hội thánh là cơ quan cao nhất của đạo; Viện Bảo đạo lo phần
tu tịnh, giữ gìn hượng đế, Hồng quân Lão tổ; cấp thứ ba thờ Tam Giáo tổ sư: Thích Ca
Phật tổ, Thái Thượng Lão quân, Văn Tuyên Khổng thánh; cấp thứ tư thờ Tứ đại Bồ tát:
Địa tạng Bồ tát, Văn Thù Bồ tát, Phổ Hiền Bồ tát, Quan Âm Bồ tát; cấp thứ năm thờ 7
bài vị của Ngũ đẩu Tinh quân và chư Phật, chư Tiên.
đạo pháp do vị Tổng lý đứng đầu; Viện Hành đạo lo về công việc hành chính của đạo do
vị Hiệp lý đứng đầu.
Về cấp tu trong Minh Lý đạo gồm 8 bậc là: Hướng tịnh sư (tín đồ mới nhập môn);
Chí tịnh sư, Tâm tịnh sư, Thanh tịnh sư (hàng Môn sanh); Khiết tịnh sư, Vĩnh tịnh sư,
Siêu tịnh sư (hàng Giáo sư); Giác tịnh sư (ngôi Giáo tổ).
SVTH: Hoàng Thị Xuân 16
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
Về đạo phục: Đạo phục của đạo có màu đen và trắng, nam mặc áo dài đen, quần
trắng, khăn đóng đen; nữ mặc áo dài đen, quần đen.
Về giáo luật : Tín đồ của Minh Lý đạo bắt buộc phải ăn chay 6 ngày trong tháng.

Hàng Môn sanh ăn chay ít nhất là 10 ngày trong tháng. Hàng Giáo sư phải ly gia cắt ái.
Người tu đạo Minh Lý phải tuân thủ Giới luật để tập sửa tính tình, đồng thời có hình phạt
để trị người phạm tội. Tuỳ từng phẩm vị mà đạo qui định việc chấp hành Giới luật, bao
gồm Mười điều trọng giới (Sát giới, Đạo giới, Dâm giới, Vọng ngữ giới, Cô tửu giới,
Thuyết tứ chúng quá giới, Tự tán huỷ tha giới, Sân tâm bất thọ hối giới, Báng tam bửu
giới) và Bốn mươi tám điều khinh giới.
KẾT LUẬN

Tôn giáo ra đời được truyền bá ở các quốc gia khác nhau trên cở sở chung về giáo lí
chúng luôn không ngừng có sự biến đổi trong các hoàn cảnh khác nhau nhưng vẫn giũ
nguyên được bản chất .Ở Việt Nam nói chung và Đông Nam Bộ,ĐB Sông Cửu Long nói
riêng tôn giáo ra đời và được truyền bá dưới mọi hình thức trong các điều kiện hoàn cảnh
khác nhau nên đặc điểm văn hóa về các tôn giáo có sự khác nhau giữa các vùng từ đó làm
đa dạng thêm bản sắc văn hóa cùng tồn tại và phát triển cho đến ngày nay
Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, ra đời và phát triển từ hàng ngàn năm nay tồn tại
cùng với loài người, nó nghiêng về phần thế giới tâm linh và sự tín ngưỡng của con
người, do đó chúng ta cần có cái nhìn đúng đắn không lợi dụng tín ngưỡng để làm điều
xấu.Các chính sách tôn giáo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kì hiện nay là hết
sức đúng đắn và phù hợp với nguyện vọng đại bộ phận tín đồ. Sự đoàn kết các đồng bào
tôn giáo tạo thành sức mạnh nội lực chống phá thế lực thù địch, đang lợi dụng tôn giáo
vào mục đích “diễn biến hòa bình”. Đồng thời phát huy mặt tích cực tôn giáo, cũng như
mặt hạn chế của tôn giáo. Vì tôn giáo hàng năm vẫn sống cùng con người.
SVTH: Hoàng Thị Xuân 17
GVHD: Th.S Trương Văn Cảnh
Tài liệu tham khảo
Một số tôn giáo ở Việt Nam: Nhà xuất bản tôn giáo Hà Nội 2007 của Nguyễn Thanh
Xuân
Đề cương học phần: các tôn giáo ở Việt Nam của TH.s Lê Thị Thu Hiền trường
ĐHSP Đà Nẵng
Các trang Web:



 !"#$%&!%'"($)#%!*(!*"#+"(!% ) !#,!'$)%%!-
 /001/
SVTH: Hoàng Thị Xuân 18

×