Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Phong cách tiểu thuyết lịch sử nguyễn triệu luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (571.27 KB, 126 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học vinh

mai thị thanh hà

phong cách tiểu thuyết lịch sử
nguyễn triệu luật

Chuyên ngành: lý luận văn học
MÃ số: 60.22.32

Luận văn thạc sĩ ngữ văn

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
PGS. TS. Đinh Trí Dũng

Vinh - 2009


Mục lục
Trang
Mở đầu............................................................................................................ 1

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề................................................................................................ 2
3. Đối t-ợng và phạm vi nghiªn cøu ............................................................... 12
4. NhiƯm vơ nghiªn cøu .................................................................................. 12
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu ............................................................................. 12
6. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 13
Ch-ơng 1. Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Lt trong bøc tranh
chung cđa tiĨu thut lÞch sư ViƯt Nam hiện đại ....................... 14


1.1. Giới thuyết về khái niệm tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử ..................... 14
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết ................................................................... 14
1.1.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử ........................................................ 17
1.2. Sự vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại .......................... 20
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xà hội Việt Nam đầu thế kỉ XX ......................... 20
1.2.2. Sự vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam ............................. 26
1.3. VÞ trÝ cđa tiĨu thut lÞch sư Nguyễn Triệu Luật .................................... 33
1.3.1. Vài nét về tác giả Ngun TriƯu Lt .......................................... 33
1.3.2. Nh×n chung vỊ tiĨu thut lịch sử của Nguyễn Triệu Luật ........... 34
Ch-ơng 2. Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhìn từ
ph-ơng diện lựa chọn đề tài và cảm hứng sáng tạo .................. 36
2.1. Kh¸i niƯm phong c¸ch ............................................................................. 36
2.1.1. Kh¸i niƯm ..................................................................................... 36
2.1.2. Các ph-ơng diện biểu hiện phong cách ........................................ 38
2.2. Sự lựa chọn đề tài .................................................................................... 42
2.3. Cảm hứng sáng tạo .................................................................................. 45
2.3.1. Cảm hứng tái hiện chân thực lịch sử............................................. 45
2.3.2. Cảm hứng phê phán ...................................................................... 51
2.3.3. Cảm hứng nhân đạo ...................................................................... 57


Ch-ơng 3. Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhìn từ
ph-ơng diện hình thức nghệ thuật ............................................. 65
3.1. NghƯ tht x©y dùng nh©n vËt ................................................................. 65
3.2. NghƯ tht tạo tình huống ....................................................................... 75
3.3. Quan tâm thể hiện thế giíi néi t©m nh©n vËt .......................................... 80
3.4. NghƯ tht kÕt cấu ................................................................................... 96
3.5. Giọng điệu, ngôn ngữ .............................................................................. 98
3.5.1. Giọng điệu .................................................................................... 98
3.5.2. Ngôn ngữ .................................................................................... 109

Kết luận.................................................................................................... 117
Tài liệu tham kh¶o ............................................................................. 120


1
Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Tìm về với quá khứ là một nhu cầu của con ng-ời hiện đại. Các nhà
văn nắm bắt đ-ợc nhu cầu ấy, vì thế họ tìm đến với đề tài lịch sử, mong muốn
đ-ợc giải mà những bí ẩn của quá khứ. Thể loại tiểu thuyết trở thành lựa chọn
số một cho các nhà văn khi viết về đề tài lịch sử này. Thế kỉ XX đà chứng kiến
sự nở rộ và nhiều thành tựu của tiểu thuyết lịch sử ở ph-ơng diện nội dung tt-ởng và hình thức nghệ thuật. ở ph-ơng diện nội dung t- t-ởng, tiểu thuyết
lịch sử là những trang viết hấp dẫn về lịch sử hào hùng của dân tộc, là lòng
ng-ỡng mộ đối với những ng-ời anh hùng dân tộc, là tấm lòng yêu n-ớc thiết
tha. Trong những năm gần đây, tiểu thuyết lịch sử còn giúp bạn đọc đánh giá
một cách khách quan hơn về những hiện t-ợng, nhân vật lịch sử còn nhiều
nghi vấn. Về phương diện hình thức nghệ thuật, tiểu thuyết viết về đề tài
lịch sử đà rất thành công khi sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật của tiểu
thuyết hiện đại, nh-: cách kết cấu tác phẩm không theo sự kiện mà theo quy
luật tâm lí, có sự đảo lộn trật tự thời gian... nhằm thể hiện rõ nét tâm lí các
nhân vật. Tiểu thuyết lịch sử đà vượt qua những quy phạm cằn cỗi, đem lại
sinh khí cho văn chương về lịch sử [3]. Nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử cđa
Ngun TriƯu Lt gióp chóng ta hiĨu thªm vỊ tiĨu thuyết lịch sử nói chung
và dòng tiểu thuyết lịch sử giai đoạn 1930 - 1945 nói riêng.
1.2. Nguyễn Triệu Luật là một tác giả nổi tiếng thời kì tr-ớc cách mạng.
Ông tham gia viết báo, truyện cho các tạp chí nh- Tiểu thuyết thứ bảy, Trung
Bắc tân văn, Phổ thông bán nguyệt san... Tác giả đặc biệt nổi tiếng với chùm
tiểu thuyết lịch sử về thời kì Lê tàn Trịnh mạt. Tuy nhiên, các công trình
nghiên cứu về sự nghiệp văn học cũng nh- tiểu thuyết lịch sử của ông ch-a
nhiều. Năm 1998, các tiểu thuyết lịch sử của tác giả đ-ợc tập hợp và in lại với

tiêu đề Tuyển tập tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật. Điều đó cho thÊy sù


2
quan tâm của độc giả tới tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật. Đề tài của
chúng tôi nghiên cứu Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, với
mong muốn có một đóng góp nhỏ, khẳng định vai trò cũng nh- thành công
của ông đối với tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này.
1.3. Hiện nay, trong nhà tr-ờng có học các tác phẩm văn học thuộc sử
nh- Trần Bình Trọng, Hoàng Lê nhất thống chí... Tìm hiểu về tiểu thuyết lịch
sử của Nguyễn Triệu Luật sẽ cung cấp thêm cho giáo viên, học sinh tài liệu
học tập, bổ trợ cho sách giáo khoa trong ch-ơng trình. Ngoài ra, tìm hiểu về
tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật còn cung cấp những vốn tri thức
phong phú cho các bạn đọc có lòng yêu mến, mong muốn tìm hiểu lịch sử dân
tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình khảo sát, tìm hiểu t- liệu, chúng tôi nhận thấy các công
trình nghiên cứu tập trung ở hai dạng cơ bản sau: những bài nghiên cứu chung
về tiểu thuyết lịch sử và những bài nghiên cứu trực tiếp về tiểu thuyết lịch sử
Nguyễn Triệu Luật.
2.1. Những bài nghiên cứu chung về tiểu thuyết lịch sử
Tr-ớc hết phải kể đến công trình luận án Tiến sĩ Tiểu thuyết lịch sử Việt
Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945 của Bùi Văn Lợi. Tác giả đà khái quát rất
công phu và đầy đủ quá trình hình thành, vận động, những đặc điểm về nội
dung và hình thức của tiểu thuyết Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm 1945.
Tác giả quan niệm tiểu thuyết lịch sử là những tác phẩm mang trọn đặc trưng
của thể loại tiểu thuyết nh-ng lại lấy nội dung lịch sử làm đề tài, là cảm hứng
sáng tạo nghệ thuật [32,23].
Phan Cự Đệ trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ XX, ch-ơng 3 về
tiểu thuyết lịch sử, đà nhận định: Tiểu thuyết lịch sử có thể soi sáng những

thời kì quá khứ con ng-ời đà trải qua với mục đích rõ ràng là gạn lọc những


3
tình trạng tiến thoái l-ỡng nan của thời đại. Nó giúp ta làm những bảng so
sánh, đối chiếu thời đại nọ với thời đại kia... Tác giả tiểu thuyết lịch sử sử
dụng quá khứ nh- một khí cụ để vẽ lên những điểm t-ơng đồng giữa quá khứ
và hiện tại và do đó làm sáng tỏ hiện tại [11,179]. Tiểu thuyết lịch sử trước
hết phải là tiểu thuyết, là thế sự, là chất văn xuôi, là cuộc sống muôn màu,
muôn vẻ của con người và thiên nhiên [11,192].
Phan Cự Đệ còn phân biệt hai khái niệm : Tiểu thuyết lịch sử (roman
historique) và lịch sử đ-ợc tiểu thuyết hoá (histori romancé). Theo ông, tiểu
thuyết lịch sử là lấy việc tái hiện sự kiện lịch sử, không khí lịch sử làm mục
đích sáng tác. Trong tác phẩm có h- cấu nh-ng bị chi phối bởi cái nhìn chủ
quan của nhà văn. Có khi nhà văn chỉ xem lịch sử là ph-ơng tiện, là chất liệu
để viết tiểu thuyết. Nhà văn dùng lịch sử để thể hiện quan điểm nào đó của
mình hoặc cắt nghĩa vấn đề hiện thực hôm nay. Còn lịch sử đ-ợc tiểu thuyết
hoá nghĩa là nó sử dụng gần nh- toàn bộ sự kiện lịch sử, không khí lịch sử,
nhân vật lịch sử... Ng-ời viết trung thành tuyệt đối với lịch sử, m-ợn hình thức
tiểu thuyết để thể hiện những vấn đề lịch sử. Bởi vậy, trong lịch sử đ-ợc tiểu
thuyết hoá, sự kiện đ-ợc đặt lên hàng đầu, nội tâm, cá tính nhân vật hầu nhkhông đ-ợc miêu tả. Mặt khác, h- cấu là đặc tr-ng của tiểu thuyết, cho dù đó
là tiểu thuyết lịch sử, thế nên trong tiểu thuyết lịch sử vẫn có h- cấu nh-ng
mức độ đậm nhạt thế nào là do ph-ơng pháp sáng tác. Nếu nhà văn sáng tác
theo khuynh h-ớng hiện thực chủ nghĩa thì th-ờng tôn trọng sự kiện, mức độ
h- cấu nhạt hơn. Nếu nhà văn sáng tác theo khuynh h-ớng lÃng mạn chủ
nghĩa thì yếu tố h- cấu đậm đặc hơn, sự kiện lịch sử chỉ là ph-ơng tiện để nhà
văn chuyển tải một thông điệp nào đó đến hiện tại.
Tác giả Văn Giá trong bài viết Tiểu thuyết lịch sử theo lối phác giản đời
th-ờng đà căn cứ vào thái độ tiếp cận lịch sử của các tác giả viết tiểu thuyết
lịch sử và thấy có hai cách phổ biến. Thứ nhất: ngợi ca, tôn vinh triều đại hoặc

nhân vật lịch sử; thứ hai, dựng lại một cách chân thực lịch sử với tất cả những


4
gì mà thông sử cho biết trong hầu hết những mặt tốt xấu vốn có. ở cả hai cách
này có một điểm chung là lấy lịch sử thông lệ làm hệ quy chiếu, từ đó nhìn
lịch sử theo một tâm thế nghiêm trang, thành kính, cách nhìn sử thi. Với
cách nhìn này, các nhà tiểu thuyết lịch sử lấy viêc phục dựng nguyên trạng
lịch sử làm đích. Ng-ời đọc không chỉ đ-ợc thoả mÃn trí t-ởng t-ợng nghệ
thuật sống động mà còn lĩnh hội đ-ợc khá nhiều tri thức lịch sử của các thời
đại đà qua [15].
Cũng nhận định về tiểu thuyết lịch sử, Hoài Nam trong bài viết Tiểu
thuyết lÞch sư ViƯt Nam: Trun kĨ hay tiĨu thut cho rằng: Lịch sử là cái cần
phải đ-ợc tôn trọng, thậm chí kính cẩn... Viết tiểu thuyết lịch sử nhà văn đặt
trọng tâm trong việc tái hiện một cách sinh động chủ nghĩa anh hùng Việt
Nam trong chiến đấu chống ngoại xâm, ca ngợi những võ công oanh liệt, nêu
bật những tấm g-ơng danh nhân đà làm rạng danh cho non sông đất n-ớc, để
qua đó, khơi dậy ở con ng-ời hiện tại niềm tự hào tr-ớc quá khứ đẹp đẽ của
dân tộc (trong tr-ờng hợp ng-ợc lại, khi nhà văn viết về những thất bại trong
lịch sử hoặc tái hiện những nhân vật phản diện, những gương mặt xấu của
lịch sử, khi đó một bài học hoặc một lời cảnh tỉnh đ-ợc rút ra từ quá khứ trao
cho hiện tại). Theo tác giả thì tiểu thuyết là thế giới của cái ở thì hiện tại tiếp
diễn, cái dang dở, cái không hoàn kết. Tiểu thuyết mang sứ mệnh nghi ngờ cái
t-ởng nh- đà ổn định, tra tấn đến cùng những chân lí có sẵn. Vì thế, khi tiếp
cận với những thời đại quá khứ và lấy đó làm chất liệu cho tác phẩm của
mình, một tiểu thuyết gia đích thực là ng-ời đặt ra câu hỏi phản biện tr-ớc
lịch sử. Làm nh- vậy, anh ta không trở thành kẻ đốt ®µn, mµ thùc tÕ lµ ng-êi
chØ ra ý nghÜa cđa quá khứ đối với hiện tại qua việc phát hiện các tác động tích
cực và cả các tác động tiêu cực mà quá khứ đặt trên hiện tại [46]. Hoài Nam
còn dẫn ra quan niệm của Lukacs: Các nhân vật trong tiểu thuyết lịch sử phải

sinh động hơn các nhân vật lịch sử, vì các nhân vật của tiểu thuyết lịch sử
đ-ợc trao cho sự sống, còn các nhân vật lịch sử thì đà sống [46].


5
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác, tác giả của Sông Côn mùa lũ đà khẳng
định: Bản chất của tiểu thuyết là thế sự, dù là tiểu thuyết lịch sử. Một cuốn
tiểu thuyết lịch sử chỉ minh hoạ lịch sử, từ đầu chí cuối chỉ toàn vua quan âm
m-u tranh giành quyền lực, còn đời sống ng-ời dân thế nào, biến cố lịch sử đó
ảnh h-ởng đến họ ra sao, tác giả không quan tâm: tôi cho cuốn sách đó không
phải là tiểu thuyết đúng nghĩa... Tôi biết có ng-ời nêu ra vấn đề: lịch sử nhcái đinh đà đóng vào t-ờng; ng-êi viÕt tiĨu thut lÞch sư cã thĨ t thÝch
“treo” vào đó những bức tranh của mình. Tôi thì quan niệm ng-ời viết tiểu
thuyết lịch sử phải tôn trọng những gì đà được ghi vào lịch sử [17].
Cũng cùng quan điểm với các tác giả trên, Hoàng Quốc Hải cho rằng:
Tiểu thuyết lịch sử trước hết phải giúp người đọc nhận biết được gương mặt
lịch sử của thời đại mà tác giả phản ánh, nh-ng những gì mà tác phẩm đó tái
tạo đều không đ-ợc trái với lịch sử. Có thể có những quan điểm của các tác
giả văn học độc lập, thậm chí trái ng-ợc với quan điểm của các sử gia, song
nó phải đạt tới tính chân thực lịch sử mà ng-ời đọc đ-ơng đại chấp nhận [54].
Trong Lêi ngá cđa tËp tiĨu thut lÞch sư Giã lưa, Nam Dao cho rằng:
Biến cố lịch sử trở thành đối tượng đem soi dưới lăng kính chủ quan, nhào
nặn lại để rồi, qua ngòi bút ng-ời viết, thành tiểu thuyết dà sử. Soi rọi vào
những vấn đề nhân quần xà hội và thân phân phận con ng-ời trong quá khứ là
cách đi tìm sự sống tiềm ẩn trong lịch sử. Lịch sử đó là lịch sử sống... Loại
chính sử biên niên đơn thuần ghi lại lịch sử chết. Nó th-ờng bịt ít nhất một
trong hai con mắt ta lại [7].
Trong bài viết khác với tiêu đề Về tiểu thuyết lịch sử, Nam Dao một lần
nữa đ-a ra quan niệm của mình về tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết lịch sử
mang khả năng phê phán hiện tại qua cách đảo ng-ợc và xoay ngang những
biến cố, cũng nh- tính chất những con ng-ời trong quá khứ. Tiểu thuyết lịch

sử trên giai đoạn này, không chốn chạy. Lẩn vào quá khứ để chiếm hữu và tái
tạo lịch sử. Tiểu thuyết là sự dấn thân của nhà văn nhằm phục sinh một hiện


6
tại cần tháo gỡ hầu thoát khỏi những bế tắc tiêu vong. Vì thế tiểu thuyết lịch
sử hoá ra một tập hợp những dự phóng về một t-ơng lai có thể có được [7].
Cùng quan điểm với Nam Dao, Nguyễn Vy Khanh trong bài Về tiểu
thuyết lịch sử đà quan niệm tiểu thuyết lịch sử là một cách tra hỏi và nghi vấn
quá khứ để biện minh hiện tại và chØ h-íng cho t-¬ng lai, qua trung gian mét
hay nhiỊu tác giả. Nh- vậy, chúng cũng là những tiểu thuyết luận đề khi đặt
lại vấn đề, dữ kiện lịch sử, ®Ị ra ln ®Ị míi, m-ỵn dÜ v·ng ®Ĩ nãi chuyện
hiện tại, có thể có ý chống lại b-ớc lịch sử hoặc trật tự xà hội đang có... [38].
Ngoài việc đ-a ra các nhận định, quan niệm của mình về tiểu thuyết
lịch sử là gì, cách viết tiểu thuyết lịch sử nh- thế nào thì điều làm các nhà
viết tiểu thuyết lịch sử quan tâm là mối quan hệ giữa tính chân thực lịch sử
và h- cấu nghệ thuật. Viết về vấn đề này, Phan Cự Đệ khẳng định: Trong
quá trình sáng tác, các nhà viết tiểu thuyết lịch sử vừa phải tôn trọng các sự
kiện lịch sử, vừa phải phát huy cao độ vai trò của h- cấu sáng tạo nghệ
thuật... Ng-ời nghệ sĩ dùng quyền sáng tạo và h- cấu để bổ sung những chi
tiết, những thời kì mà lịch sử không nói đến... Trong tiểu thuyết, sự kiện lịch
sử và sự kiện h- cấu, nhân vật lịch sử và nhân vật sáng tạo trộn lẫn vào nhau,
vì thế khó lòng có thể đảm bảo một sự chính xác lịch sử đến tuyệt đối
[11,166-170].
Phạm Xuân Thạch lại cho rằng vừa có vừa không cái gọi làtính chân
thực lịch sử của tiểu thuyết. Bởi, điều này còn phụ thuộc vào cách quan niệm
tính chân thực lịch sử là gì. Tác giả cho rằng, những t- liệu về lịch sử luôn
là cái phần quá khứ hiện diện tr-ớc nhận thức của hiện tại. Nó luôn luôn là
một cái gì không đầy đủ. Ngay đến một nhà sử học đích thực thì suy diễn
nhiều khi vẫn là thao tác bắt buộc. Trong tr-ờng hợp này tính chân thực về đề

tài lịch sử của một cuốn tiểu thuyết thực chất là sự xung đột giữa cái nhìn cá
nhân và những giá trị cộng đồng. Chi tiết trong tác phẩm là sản phẩm của hcấu, mặt khác, nó lại thuộc về những trải nghiệm cá nhân và có tính cá biệt.


7
Do đó việc đòi hỏi tính xác thực của những trải nghiệm cá nhân và những hiện
t-ợng cá biệt luôn là câu hỏi khó giải quyết. Mặt khác, chúng ta phải thừa
nhận rằng, lịch sử nhiều khi không phải là cái đích cuối cùng của tiểu thuyết.
Thông qua h- cấu, nhà văn đặt ra vấn đề về sự giải thoát, niềm tin tôn giáo,
tham vọng và hạnh phúc, quyền lực và thân phận con ng-ời... Nhà văn có thể
là kẻ tái hiện lại những phần khuất lấp của lịch sử, là kẻ suy t- về những vấn
đề của lịch sử... Suy cho cùng, lịch sử cũng chỉ là chất liệu để phản chiếu
những vấn đề của Con Ng-ời ở tầm phổ quát [Dẫn theo 60].
Nguyễn Xuân Khánh trong bài trả lời phỏng vấn đà dẫn ra nhiều cách
viết tiểu thuyết lịch sử: Tiểu thuyết hoàn toàn gồm các nhân vật lịch sử, tiểu
thuyết gồm những nhân vật lịch sử trộn lẫn những nhân vật hoàn toàn h- cấu,
tiểu thuyết chỉ toàn là nhân vật h- cấu nằm trong một bối cảnh lịch sử nhất
định. Nh-ng theo tôi, dù ở loại nào, tựu chung đối với ng-ời viết có hai vấn
đề. Thứ nhất là về t- liệu: Cần nắm vững những t- liệu liên quan đến thời kì
mình viết, từ kinh tÕ, chÝnh trÞ, x· héi, triÕt häc... Thø hai, vỊ h- cấu: Ta đà gọi
là tiểu thuyết thì phải h- cấu. Đó là sự t-ởng t-ợng, sự hoà trộn nhuần nhuyễn
giữa thực và h-, giữa lịch sử và hiện tại, giữa tri thức và cảm xúc [40].
Trần Vũ trong bài nghiên cứu Lịch sử trong tiểu thuyết - một tuỳ tiện ý
thức cho rằng tiểu thuyết không nhất thiết phải y chang nh- thËt, cã thĨ pha
trén nưa thËt nưa ảo và có quyền phóng đại thực tế lên đến mức... tiểu
thuyết [66].
Đỗ Ngọc Yên cũng không đi ra ngoài quan niệm trên của các tác giả.
Trong bài Giới hạn giữa h- cấu nghệ thuật và sự thực lịch sử đăng trên báo
Văn nghệ, tác giả nhấn mạnh người nghệ sĩ hoàn toàn có quyền tái hiện lịch
sử theo cách riêng của mình. Nh-ng tuyệt nhiên anh ta không đ-ợc phép bịa

đặt lịch sử, hay nhà nghệ sĩ không chỉ biết tôn trọng đến mức cần thiết sự thật
lịch sử mà cần phải sáng tạo thế giới thứ hai, thế giới của các hình t-ợng văn
học nghệ thuật bằng cảm xúc, tài năng cá nhân của anh ta [67].


8
Ngun Vy Khanh cịng cïng quan ®iĨm khi cho r»ng Văn ch-ơng là
hư cấu, lịch sử là một nỗ lực tìm sự thật chính xác, khách quan, không thiên
lệch, có hay cã dë, cã m¹nh cã yÕu, cã vinh quang thì cũng có thất bại... Do
đó lịch sử không thể khách quan [38]. Điều đó có nghĩa tác giả cho rằng khó
có thể có một sự thật lịch sử khách quan. Vì thế, khi tiếp cận với t- liệu lịch sử
làm nguồn cảm hứng cho sáng tác nghệ thuật, nhà văn hoàn toàn có quyền
t-ởng tượng một sự thật lịch sử thứ hai. Lịch sử dù có khách quan đến đâu
vẫn phải thông qua cái nhìn chủ quan của ng-ời viết. Vì thế, viết tiểu thuyết
lịch sử khó nh-ng cũng rất hấp dẫn đối với các nhà văn.
Nhà văn Nguyễn Mộng Giác khi nói về Sông Côn mùa lũ tâm sự: Khi
viết tiểu thuyết lịch sử tôi chú trọng phần tiểu thuyết hơn phần lịch sử. Nh-ng
trong phần lịch sử, tôi không dám mạnh tay gạt phăng những gì còn ghi lại
trong tài liệu lịch sử. Tôi chia nhân vật Sông Côn mùa lũ thành 2 tuyến: tuyến
những nhân vật lịch sử, tôi giữ lại những nét chính, chỉ giải thích hoặc cải
chính những sự kiện lịch sử theo quan điểm của tôi... Tuyến thứ nhì là đám
đông dân chúng vô danh không ghi trong sử sách. Chính ở tuyến này tôi tự do
t-ởng t-ợng và dùng họ để diễn giải lịch sử theo ý mình, và qua họ, cho lịch
sử thêm phần da thịt của tiểu thuyết [8].
Nh- vậy, thông qua các công trình nghiên cứu cũng nh- các bài phát
biểu trên báo chí, trả lời phỏng vấn... các tác giả đều tập trung khai thác vấn
đề viết tiểu thuyết lịch sử nh- thế nào, mối quan hệ giữa tính h- cấu nghệ
thuật và tính chân thực lịch sử. Về cơ bản, các tác giả đều thống nhất ở quan
điểm: tiểu thuyết lịch sử phải đảm bảo hai yếu tố là tiểu thuyết và lịch sử. Mức
độ đậm nhạt giữa hai yếu tố này còn tuỳ thuộc vào bút pháp mà mỗi nhà văn

lựa chọn khi sáng tác.
2.2. Những bài nghiên cứu trực tiếp về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
Bài viết nghiên cứu đầu tiên về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
phải kể đến là Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Trong công trình nghiªn


9
cøu nµy, Vị Ngäc Phan xÕp Ngun TriƯu Lt vµo danh mục các tác giả viết
kí sự lịch sử cùng với các tác giả Phan Trần Chúc, Đào Trinh Nhất, Trần
Thanh Mại, Trúc Khê... Ông cho rằng, viết lịch sử kí sự thì nhà văn có thể
viết một cách tỉ mỉ những việc cá nhân không ảnh h-ởng gì đến dân chúng mà
chỉ có cái thú vị riêng của nó thôi. Không những thế, khi viết một quyển lịch
sử kí sự, nhà văn lại cần phải l-u tâm đến những việc t- lắm, lối ấy cũng gần
nh- lối chép dà sử vậy... Còn nh- viết tiểu thuyết lịch sử, nhà văn chỉ phải căn
cứ vào vài việc cỏn con đà qua, råi vÏ vêi cho ra mét trun lín, cèt giữ cho
mọi việc đừng trái với thời đại, còn không cần phải toàn sự thật [64,489-490].
Tác giả còn dẫn lời của một nhà văn viết tiểu thuyết lịch sử Pháp Lịch sử với
tôi chỉ là một cái đinh để tôi treo các bức hoạ của tôi thôi.
Từ những dẫn giải vỊ quan niƯm tiĨu thut lÞch sư, Vị Ngäc Phan
nhËn thấy Nguyễn Triệu Luật không coi lịch sử là cái đinh để treo các bức hoạ
tư tưởng, vì thế tôi dám quyết ông cho in mấy chữ lịch sử tiểu thuyết ở
ngoài bìa là sai. Thực ra, cái mà Nguyễn Triệu Luật gọi là lịch sử tiểu thuyết
chỉ là lịch sử kí sự mà thôi. Vũ Ngọc Phan còn đ-a thêm dẫn chứng, Nguyễn
Triệu Luật tự nhận mình là người thợ vụng, có thế nào làm nên thế ấy,
nh-ng đó lại là tất cả điều cốt yếu của ng-ời viết lịch sử kí sự.
Vũ Ngọc Phan cũng nhận thấy những -u điểm trong lối viết của
Nguyễn Triệu Luật: Tôi nhận thấy Nguyễn Triệu Luật đà xếp mọi việc khéo,
có những đoạn tự nhiên, tuy là nhắc nhớ đến một điển tích hay một sự tích mà
không cầu kì, không làm v-ớng động tác. Văn ông sáng suốt, những lời nói
của ng-êi x-a võa hỵp thêi, võa cã ý nghÜa. ThËt là một lối văn thích hợp với

một quyển lịch sử kí sự. Vũ Ngọc Phan đồng thời cũng phê bình Nguyễn
Triệu Luật. Theo ông, tác giả nên để ba quyển Bà Chúa Chè, Loạn Kiêu binh,
Chúa Trịnh Khải vào một quyển thôi. Bởi vì, trong đó có sự trùng lặp câu văn
về cả ý lẫn lời. Ông nhận thấy Nguyễn Triệu Luật rút tài liệu từ Hoàng Lê
nhất thống chí, nhiều đoạn trong Chúa Trịnh Khải gần nh- đ-ợc dịch l¹i,


10
được cái ông dàn việc khéo và biết thận trọng trong dùng tài liệu. Nếu ông
biết loại bớt những cái r-ờm rà ra, nh- lời bàn, những điều so sánh vô lí,
những sự giảng giải không đâu, thì những thiên kí sự của ông sẽ đ-ợc nhẹ
nhàng biết bao! Khi viết về những ng-ời thời x-a, ông đà không thể quên
đ-ợc những cái ông viết về thời nay. Bởi thế ông hay đem những việc cổ kim
ra so sánh, thành ra ông hay bàn suông tán hÃo, lắm khi ra ngoài cả vấn đề.
Tuy vậy, cuối bài viết, Vũ Ngọc Phan vẫn khẳng định trong số các nhà văn
viết lịch sử kí sự, có lẽ lối văn của Nguyễn Triệu Luật là lối văn gọn gàng và
sáng suốt hơn cả [64,396-397].
Trong giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam 30- 45, Nguyễn Đăng Mạnh
khi nói tới trào lưu văn học lÃng mạn có kể tới dòng tiểu thuyết lịch sử. Dòng
tiểu thuyết lịch sử với những cây bút nh- Lan Khai, Phan TrÇn Chóc, Ngun
TriƯu Lt, Ngun Huy T-ëng... ë đây, cảm hứng lÃng mạn có dịp thêu dệt
nên những mối tình lâm li giữa những tráng sĩ và giai nhân thời phong kiến xa
x-a... Nhìn chung, chúng ít để lại đ-ợc những thành tựu nghệ thuật thật sự có
giá trị [55,66]. Tiểu thuyết lịch sử thuộc trào l-u lÃng mạn, đ-ơng nhiên nó
có mang những nét đặc tr-ng của trµo l-u nµy, nh-ng xÕp Ngun TriƯu Lt
vµo khuynh h-íng lÃng mạn là không hợp lí. Bởi trong tiểu thuyết lịch sử còn
phân thành 2 khuynh h-ớng: lÃng mạn và hiện thực. Tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Triệu Luật không nhằm thêu dệt nên những câu chuyện tình lâm li,
lÃng mạn. Lịch sử trong tiểu thuyết của ông là lịch sử chân thực. Ông là nhà
văn viết theo khuynh h-ớng hiện thực chủ nghĩa. Điều này chúng tôi sẽ chứng

minh, làm rõ trong phần nội dung của luận văn, từ đó nhằm khẳng định giá trị
của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nói riêng và tiểu thuyết lịch sử nói
chung, không nh- nhận xét trên.
Năm 1998, các cuốn tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn triệu Luật đ-ợc tập
hợp và in lại, với tiêu đề Tuyển tập tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật.
Trong lời giới thiệu cuốn sách, Đinh Xuân Lâm đà khẳng định những giá trị


11
cđa tiĨu thut lÞch sư Ngun TriƯu Lt. Thø nhÊt, khác với các tác giả cùng
thời đà chọn đề tài xuyên qua nhiều thế kỉ, từ cổ trung đại đến cận đại,
Nguyễn Triệu Luật chỉ tập trung nghiên cứu giai đoạn cuối Lê đầu Nguyễn
(thế kỉ XVIII). Thứ hai, trong tiĨu thut cđa Ngun TriƯu lt cã nhiỊu chi
tiÕt vơn vặt, nh-ng đó chính là thế mạnh của ông. Các sự kiện lịch sử đ-ợc tái
tạo trong đúng bối cảnh của chúng, với cái không khí lịch sử đích thực của
chúng, cả với ngôn ngữ của con ng-ời thời đó, tất cả làm cho ng-ời và việc
nh- hiện lên, sống lại và đang hoạt động tr-ớc mắt chúng ta. Thứ ba, đọc tiểu
thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật, bạn đọc sẽ rất thích thú khi bắt gặp
những tiếng cổ trong giao tiếp, những cảnh cũ, những tên ph-ờng lạ, những
loài hoa hiếm, thấy cả bóng dáng của thành Thăng Long x-a [33,6-8].
Khi cn tiĨu thut Bµ Chóa ChÌ xt bản, Lan Khai là ng-ời đà viết
lời giới thiệu. Bằng cách so sánh trực tiếp với cách viết của mình, Lan Khai đÃ
nhận xét về tiểu thuyết lịch sử Nguyễn TriƯu Lt: “Cịng nh­ t«i, «ng
Ngun TriƯu Lt viÕt tiĨu thuyết lịch sử. Nh-ng, khác với tôi, ông Luật
riêng chú träng vỊ sù thùc, trong khi t«i chØ khuynh h­íng về nghệ thuật.
Đọc các tác phẩm của Lan Khai, độc giả sẽ mơ màng, say đắm bởi những cái
có thể có đ-ợc, thì khi đọc tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Triệu Luật người
ta phải sống đầy đủ những cái đà có rồi... Các truyện và ng-ời của ông hoạt
động hiển nhiên, không đ-ợc ông tô điểm cho, nh-ng cũng không bị ông làm
cho mất đi bản sắc. Đọc các tiểu thuyết của ông, tức là xem những bức ảnh.

Ng-ời có thể mất đi rồi, cảnh có thể mất đi rồi, mà hình ảnh vẫn là của những
người và cảnh đà có thực [33,15].
Ngoài ra, các bài viết của Nguyễn Vy Khanh, Bùi Văn Lợi khi viết về
các giai đoạn phát triển của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam, cũng đà đánh giá
Nguyễn Triệu Luật là cây bút có phong cách, có đóng góp cho tiểu thuyết lịch
sử Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945.
Chúng tôi nhận thấy, các bài nghiên cứu về tiểu thuyết lịch sử của
Nguyễn Triệu Luật còn quá ít ỏi và mới chỉ dừng lại ở những vấn đề có tính


12
chất khái quát. Có khi là những nhận định, đánh giá ch-a đúng mức về giá trị
của tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật. Tuy nhiên, đấy lại là những gợi ý
có tính chất định h-ớng, làm tiền đề để chúng tôi tiến hành khảo sát, nghiên
cứu tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật. Từ đó, ghi nhận phong cách riêng
của nhà văn Nguyễn Triệu Luật.
3. Đối t-ợng và phạm vi nghiên cứu
Phong cách của một tác giả đ-ợc thể hiện rõ nhất qua tác phẩm. Vì thế,
để xác định phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, chúng tôi tiến
hành khảo sát các cuốn tiểu thuyết lịch sử của tác giả. Bao gồm: Bà Chúa
Chè, Loạn Kiêu binh, Chúa Trịnh Khải, Hòm đựng ng-ời.
Nguyễn Triệu Luật còn một cuốn tiểu thuyết lịch sử nữa, có tên là
Ng-ợc đ-ờng Tr-ờng Thi (1939). Tuy nhiên, chúng tôi không tìm đ-ợc văn
bản. Vì vậy, tất cả các dẫn chứng trong luận văn này đều đ-ợc lấy từ Tuyển
tập tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật, Nxb Văn học, 1998, bao gồm 4
cuốn tiểu thuyết lịch sử kể trên.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Xác định vị trí của tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật trong dòng tiểu
thuyết lịch sử Việt Nam 1930 - 1945.
4.2. Tìm hiểu phong cách tiểu thuyết Nguyễn Triệu Luật nhìn từ

ph-ơng diện lựa chọn đề tài và cảm hứng sáng tạo.
4.3. Tìm hiểu phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhìn từ
ph-ơng diện hình thức nghệ thuật.
5. Ph-ơng pháp nghiên cứu
Chúng tôi sử dụng các ph-ơng pháp sau: Ph-ơng pháp cấu trúc - hệ
thống, ph-ơng pháp phân tích - tổng hợp, ph-ơng pháp so sánh - đối chiếu,
ph-ơng pháp thống kê, phân loại.


13
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của luận văn gồm có 3 ch-ơng
Ch-ơng 1. Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn TriƯu Lt trong bøc tranh chung
cđa tiĨu thut lÞch sư Việt Nam hiện đại
Ch-ơng 2. Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhìn từ
ph-ơng diện lựa chọn đề tài và cảm hứng sáng tạo
Ch-ơng 3. Phong cách tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật nhìn từ
ph-ơng diện hình thøc nghÖ thuËt.


14
Ch-ơng1
Tiểu thuyết lịch sử Nguyễn Triệu Luật
trong bức tranh chung của tiểu thuyết lịch sử
Việt Nam hiện đại

1.1. Giới thuyết về khái niệm tiểu thuyết và tiểu thuyết lịch sử
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại ra đời muộn so với các thể loại khác trong hệ

thống thể loại văn học hiện đại. Tuy nhiên, tiểu thuyết lại đạt đ-ợc những
thành tựu nổi bật, v-ợt trội, mà các thể loại ra đời tr-ớc đó ch-a làm đ-ợc. Lí
do, là ở chính bản thân thể loại của nó.
Theo như M. Bakhtin thì Tiểu thuyết là thể loại văn chương duy nhất
đang biến chuyển và còn ch-a định hình... Nòng cốt thể loại tiểu thuyết này
ch-a hề rắn lại và chúng ta ch-a hề dự đoán đ-ợc khả năng uyển chuyển của
nó [6,23]. Điều đó có nghĩa tiểu thuyết là một thể loại năng động, có khả
năng thích ứng và biến đổi theo từng giai đoạn lịch sử. Tiểu thuyết biến đổi
không ngừng, nhiều khi nó kéo theo các thể loại khác xâm nhập vào nó. Vì
thế, tiểu thuyết là thể loại có khả năng cách tân lớn về mọi mặt.
ở Việt Nam, khái niệm tiểu thuyết đ-ợc sự quan tâm rất đặc biệt của cả
ng-ời sáng tác lẫn giới nghiên cứu phê bình.
Nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh ngay từ hồi đầu thế kỉ, khi nhận định về
tiểu thuyết đà nói: Tiểu thuyết là một truyện viết bằng văn xuôi đặt ra để tả
tình tự ng-ời ta, phong tục xà hội, hay là những sự lạ tích kì, đủ làm cho ng-êi
®äc cã høng thó” [52,123]. TiÕp sau ®ã, rÊt nhiều nhà văn, nhà nghiên cứu đều
đ-a ra những nhận định, quan điểm của mình về tiểu thuyết nh- Hoàng Ngọc
Phách, Thiếu Sơn, Thạch Lam, Vũ Trọng Phụng, Hải Triều, Nam Cao,
Nguyễn Đình Thi... Cho đến nay, định nghĩa về tiểu thuyết của nhóm tác giả


15
Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) đ-ợc xem là đầy đủ
và toàn diện hơn cả.
Như vậy, có thể thấy, Tiểu thuyết không phải là một thể loại đà hoàn
bị. Nó luôn biến đổi, v-ợt ra khỏi mọi khuôn mẫu của chính bản thân nó. Bởi
vậy, khó có thể có một định nghĩa duy nhất và đông cứng về tiểu thuyết.
Trong luận văn này, chóng t«i quan niƯm vỊ tiĨu thut nh- sau: “TiĨu thuyết
là một tác phẩm tự sự cỡ lớn, có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở cả
mọi không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh số phận nhiều cuộc

đời, những bức tranh phong tục, đạo đức xà hội, miêu tả các điều kiện sinh
hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng [21,227].
Tiểu thuyết hiện đại đ-ợc nhận diện trên những đặc tr-ng cơ bản sau.
Thứ nhất, tiểu thuyết nhìn cuộc sống d-ới góc độ đời t-. Nếu nh- sử thi
quan tâm tới những vấn đề lớn lao của dân tộc, của cộng đồng, thì tiểu thuyết
quan tâm tới số phận cá nhân của con ng-ời. Nhân vật tiểu thuyết không nên
là anh hùng trong cái nghĩa sử thi và bi kịch của từ đó, mà nên thống nhất
trong bản thân các nét vừa chính diện vừa phản diện, vừa tầm th-ờng, vừa cao
cả, vừa buồn cười, vừa nghiêm túc [34,391]. Đời t- chính là tiêu điểm để
miêu tả cuộc sống một cách tiểu thuyết. Con ng-ời tìm đến tiểu thuyết nhtìm về với chính mình hoặc tìm đến với lòng người và trường đời. ở đó, tiểu
thuyết miêu tả cuộc sống một cách chân thực những mẫu người của xà hội
với tất cả da thịt và hơi thở, với tất cả những mầu vẻ của những mối quan hệ
xà hội bên ngoài và những gì đang đ-ợc dấu kín và cũng đang giao tranh với
nhau ở bên trong: những lí t-ởng và dục vọng, trí tuệ và bản năng, thiện và ác,
những phần con ng-ời ý thức đ-ợc và những phần vô thức của con ng-ời mà
chỉ ngòi bút nhà văn mới có thể soi sáng, lí giải và báo hiệu [61,363].
Thứ hai, chất văn xuôi làm cho tiểu thuyết khác với các thể loại khác.
Tiểu thuyết tái hiện đời sống, không thi vị hoá, lÃng mạn hoá, lí tưởng hoá.
Miêu tả cuộc sống nh- một thực tại cùng thời đang sinh thành, tiÓu thuyÕt hÊp


16
thu vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc sống, bao gồm
cái cao cả lẫn tầm th-ờng, nghiêm túc và buồn c-ời, bi và hài, cái lớn lẫn cái
nhỏ [34,391]. Chất văn xuôi đ-ợc thể hiện rõ trong tiểu thuyết hiện đại của
Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyễn Công Hoan... Chính yếu tố miêu tả cuộc
sống nh- một thực tại cùng thời đang sinh thành, làm cho tiểu thuyết không bị
giới hạn vào nội dung mà nó phản ánh.
Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với nhân vật sử thi, nhân
vật kịch... là ở chỗ, trong khi các nhân vật kia là nhân vật hành động thì nhân

vật trong tiểu thuyết là những con người nếm trải, luôn luôn chịu những
đau khổ, dằn vặt của cuộc đời. Tiểu thuyết miêu tả các nhân vật nh- những
ng-ời đang tr-ởng thành, lăn lộn giữa đời, đ-ợc đời dạy bảo và khôn lớn dần
lên. Con ng-ời trong tiểu thuyết đ-ợc tác giả miêu tả ở rất nhiều góc cạnh của
đời sống, thế nên, tâm lý nhân vật rất phức tạp. Nhân vật càng có nhiều mối
quan hệ với đời sống thì tâm lí càng phong phú. Vì thế, tâm lí nhân vật, bộc lộ
nội tâm nhân vật là ph-ơng diện rất đặc tr-ng cho tiểu thuyết.
Thứ t-, tiểu thuyết có những yếu tố ngoài cốt truyện. Đó là: sự suy tcủa nhân vật về thế giới, về con ng-ời, là sự phân tích cặn kẽ những diễn biến
tình cảm, trình bày t-ờng tận các tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết về quan hệ
giữa ng-ời và ng-ời, về đồ vật và môi tr-ờng... nói chung là toàn bộ sự tồn tại
của con ng-ời. Những chi tiết t-ởng nh- là thừa ấy thực chất lại rất có ý nghĩa.
Nó gắn với những suy t-, triết lí về cuộc đời. Ta bắt gặp điều này ở những tác
phẩm nh- Sống mòn (Nam Cao), Số đỏ (Vũ Trọng Phụng)...
Thứ năm, tiểu thuyết xoá bỏ khoảng cách giữa ng-ời trần thuật và nội
dung trần thuật. Vì tiểu thuyết miêu tả cuộc sống nh- một thực tại cùng thời
đang sinh thành, vì thế mà ng-ời trần thuật nhìn các nhân vật một cách hết sức
gần gũi, nh- những con ng-ời bình th-ờng chứ không phải là những anh hùng
lí t-ởng. Và, chúng ta có thể hiểu nhân vật bằng chính kinh nghiệm và tâm
hồn của mình. Chính khoảng cách gần gũi này, làm cho tiểu thuyết trở thành


17
một thể loại dân chủ. Cuộc sống trong tiểu thuyết là một cái gì ch-a xong
xuôi [34,394]. Bởi vậy, kết cấu trong tiểu thuyết th-ờng là kết cấu mở chứ
không khép kín nh- các thể loại khác. Trong tiểu thuyết, tác giả có thể sử
dụng nhiều giọng khác nhau, tạo nên sự đối thoại nhằm bộc lộ tính cách nhân
vật, có khi còn xoá nhoà ranh giới giữa lời trong văn học và lời ngoài văn học.
Tiểu thuyết là thể loại đa thanh, đa giọng điệu.
Thứ sáu, tiểu thuyết là thể loại có khả năng tổng hợp nhiều nhất những
đặc trưng, những thủ pháp nghệ thuật của các loại văn học khác. Tiểu thuyết

là thể loại duy nhất đanh hình thành và ch-a xong xuôi [34,395]. Một khi
chiếm lĩnh đ-ợc địa vị thống trị trong đời sống văn học, tiểu thuyết trở thành
chất xúc tác làm đổi mới tất cả các thể loại khác, nó làm chúng lây nhiễm
tính biến đổi và tính không hoàn thành [6,30]. Tiểu thuyết thế kỉ XX có hiện
t-ợng cộng sinh thể loại và tiểu thuyết là thể loại có năng lực nhất trong vấn
đề này. Có thể kể đến tiểu thuyết tâm lí, tiểu thuyết phóng sự, tiểu thuyết
chính luận...
Vì là một thể loại có cấu trúc linh hoạt nên tiểu thuyết có khả năng mở
rộng hay thu hẹp không gian, thời gian, sự kiện. Người viết tiểu thuyết hầu
nh- không bị một hạn chế nào. Tiểu thuyết có thể miêu tả mọi sự vật lớn nhất
hoặc nhỏ nhất trong tự nhiên và trong xà hội, những sự vật có thật và những sự
vật hoàn toàn t-ởng t-ợng ra, những sự vật đà đi qua hẳn rồi, cũng nh- những
sự vật đang diễn biến, và cả những sự vật ch-a có nữa... Viết tiểu thuyết là
sáng tạo ra một thế giới [61,306].
Tất cả các đặc tr-ng trên làm cho tiểu thuyết trở thành thể loại giàu khả
năng phản ánh đời sống vào bậc nhất trong các thể loại văn học. Từ những đặc
tr-ng này, chúng ta sẽ có những nhận định đúng về tiểu thuyết lịch sử.
1.1.2. Khái niệm tiểu thuyết lịch sử
Tiểu thuyết lịch sử là một thể của tiểu thuyết bên cạnh tiểu thuyết tình
cảm, tiểu thuyết trinh thám hay tiểu thuyết hiện thực... Bởi vậy, lẽ dĩ nhiên,
tiểu thuyết lịch sử cũng mang trọn những đặc tr-ng của thể loại tiểu thuyÕt.


18
Nói đến lịch sử là nói đến quá khứ, đến những gì đà xảy ra. Tiểu thuyết
lịch sử xuất hiện trong văn học Việt Nam từ thế kỉ XVIII với Nam triều công
nghiệp diễn chí, Thiên Nam liệt truyện, Hoàng Lê nhất thống chí, Việt Lam
xuân thu... Tuy nhiên, các tác phẩm này đ-ợc viết theo lối ch-ơng hồi, các tác
giả sử dụng thi pháp nghệ thuật của văn học Trung đại. B-ớc sang thế kỉ XX,
tiểu thuyết lịch sử có sự phát triển. Với sự ra đời của hàng loạt các tác phẩm,

có những tác phẩm trở thành dấu ấn trong sự nghiệp của tác giả nh- Tiếng sấm
đêm đông (Nguyễn Tử Siêu), Bà Chúa Chè (Nguyễn Triệu Luật), Đêm hội
Long Trì (Nguyễn Huy T-ởng), BÃo táp triều Trần (Hoàng Quốc Hải)... Có
những tác giả lấy lịch sử làm đề tài sáng tác chính trong sự nghiệp của mình
nh- Nguyễn Tử Siêu, Phan Trần Chúc, Nguyễn Triệu Luật...
Tuy lịch sư thc vỊ qu¸ khø, nh-ng ng-êi viÕt tiĨu thut lịch sử lại ở
thời hiện tại. Bởi vậy, nhà văn không phải là một ng-ời chép sử đơn thuần.
Những người ghi chÐp lÞch sư gièng nh­ “ng­êi th­ kÝ trung thành của thời
đại, ghi chép một cách xác thực, đầy đủ sự kiện của thời đại đó. Một nguyên
tắc cơ bản của nhà sử gia là không đ-ợc phép xen lẫn cảm nhận chủ quan của
mình khi ghi chép các sự kiện, hiện t-ợng hay nhân vật lịch sử. Các sự kiện
trong sách lịch sử đ-ợc ghi chép theo trục thời gian tuyến tính, có ngày tháng
năm cụ thể, những địa điểm và con ng-ời có thật. Nó cho phép ng-ời đọc tiếp
nhận các tri thức lịch sử một cách chân thực nhất. Với nhà văn, viết tiểu thuyết
lịch sử thuộc về lĩnh vực nghệ thuật. Lịch sử chỉ là chất liệu để nhà văn thể
hiện một t- t-ởng nào đó trong nghệ thuật. Nói nh- Chế Lan Viên thì tiểu
thuyết lịch sử phải nhẩy qua hai vòng lửa, vòng lửa lịch sử và vòng lửa nghệ
thuật. Đó là hai nhiệm vụ mà nhà văn phải thực hiện khi lựa chọn thể loại tiểu
thuyết lịch sử. Nói đến nghệ thuật là nói đến sự h- cấu, nh-ng vì bị giới hạn
trong vòng lửa lịch sử, nên sự h- cấu trong tiểu thuyết lịch sử phải dựa trên sự
thật lịch sử, tôn trọng lịch sử, h- cấu chỉ ở một mức ®é nhÊt ®Þnh. ChÝnh sù h-


19
cấu có giới hạn này, đôi khi cho phép ta nhìn lịch sử một cách sáng rõ và
khoáng đạt hơn.
Viết tiểu thuyết lịch sử đòi hỏi nhà văn phải có vốn kiến thức sâu rộng
về lịch sử, văn hoá, dân tộc, văn học... nhằm tái hiện lại bức tranh lịch sử
thông qua cảm nhận của cá nhân mình.
Định nghĩa về tiểu thuyết lịch sử, Từ điển thuật ngữ văn học viết nhsau: Các tác phẩm viết về đề tài lịch sử này có chứa đựng các nhân vật và các

chi tiết h- cấu, tuy nhiên nhân vật chính và sự kiện chính thì đ-ợc sáng tạo
trên các sử liệu xác thực trong lịch sử, tôn trọng lời ăn tiếng nói, phong tục tập
quán phù hợp với giai đoạn lịch sử ấy. Tác phẩm văn học lịch sử th-ờng m-ợn
chuyện x-a nói chuyện đời nay, hấp thu những bài học của quá khứ, bày tỏ sự
đồng cảm với những con ng-ời trong thời đại đà qua. Song không vì thế mà
hiện đại hoá ng-ời x-a, phá vỡ tính chân thực lịch sử của thể loại này. Đặc
điểm này của tiểu thuyết lịch sử và kịch lịch sử đòi hỏi nhà văn vừa phải là
ng-ời nghệ sĩ, vừa là nhà nghiên cứu, có vốn sống và hiểu biết phong phú, có
quan điểm lịch sử đúng đắn và tiến bộ [21,256].
Từ điển văn học (Bộ mới) đà đ-a ra khái niệm về tiểu thuyết lịch sử có
những yếu tố bổ sung so với khái niệm đ-ợc dẫn ra trong Từ điền thuật ngữ
văn học. Tiểu thuyết lịch sử là một thuật ngữ chỉ một loại hình tiểu thuyết
hoặc tác phẩm tự sự h- cấu lấy đề tài lịch sử làm nội dung chính... Những tiêu
điểm chú ý của các sử gia lẫn các nhà văn quan tâm đến đề tài lịch sử, th-ờng
là sự hình thành, h-ng thịnh, diệt vong của các nhà n-ớc, những biến cố lớn
trong đời sống xà hội cộng đồng quốc gia, trong quan hệ giữa các quốc gia
nh- chiến tranh, cách mạng... cuộc sống và sự nghiệp của những nhân vật có
ảnh h-ởng đến tiến trình lịch sử... [23,1728].
Nhà nghiên cứu Phan Cự Đệ trong công trình Văn học Việt Nam thế kỉ
XX, ch-ơng 3, về tiểu thut lÞch sư, cho r»ng: TiĨu thut lÞch sư lÊy việc tái
hiện sự kiện lịch sử, không khí lịch sử làm mục đích sáng tác. Tiểu thuyết lịch


20
sư vÉn cã h- cÊu nh-ng chÞu sù chi phèi bởi cái nhìn chủ quan của nhà văn.
Có khi nhà văn chỉ xem sự kiện lịch sử là ph-ơng tiện, chất liệu để sáng tác.
Do đó, chất h- cấu trong tiểu thuyết lịch sử đậm đặc hơn. Nhà văn chỉ m-ợn
lịch sử để thể hiện một quan điểm nào đó của mình, hoặc để cắt nghĩa vấn đề
hiện thực hôm nay [DÉn theo 11].
Cßn rÊt nhiỊu ý kiÕn, quan niƯm của các nhà văn, nhà nhiên cứu về tiểu

thuyết lịch sử. Trên cơ sở đó, chúng tôi quan niệm về tiểu thuyết lịch sử nhsau: Tiểu thuyết lịch sử là những sáng tác văn học khai thác từ đề tài lịch sử
(nhân vật lịch sử, sự kiện lịch sử) đ-ợc nhà văn tái hiện lại một cách chân thực
lịch sử, hoặc lấy lịch sử làm chất liệu, ph-ơng tiện để thể hiện quan điểm tt-ởng của mình. Lịch sử trong tiểu thuyết không còn là lịch sử khách quan
nh- nó vốn có, mà đà bị khúc xạ qua lăng kính chủ quan của nhà văn.
1.2. Sự vận động của tiểu thuyết lịch sử Việt Nam hiện đại
1.2.1. Bối cảnh lịch sử xà hội Việt Nam đầu thế kỉ XX
Đầu thế kỉ XX, Việt Nam là thuộc địa của thực dân Pháp. Sau hai cuộc
khai thác thuộc địa, lần thứ nhất (1987-1914), lÇn hai (1919-1929), kinh tÕ
ViƯt Nam cã sù chun biến. Đó là một cơ cấu kinh tế thuộc địa, mang sắc
thái hiện đại (đa ngành, đa lĩnh vực), nh-ng thực chất, đó là cơ cấu kinh tế
thuộc địa mất cân đối, què quặt.
Trên ph-ơng diện xà hội, d-ới tác động của hai cuộc khai thác thuộc
địa, xà hội Việt Nam có sự phân hoá sâu sắc. Giai cấp địa chủ phong kiến bản
xứ cấu kết chặt chẽ với chính quyền thực dân, thực hiện những chính sách cai
trị hà khắc, bóc lột ng-ời nông dân. Giai cấp nông dân chiếm tới 90% dân số,
bị áp bức và bóc lột nặng nề nhất. Cuộc sống bị đè nén khiến một bộ phận
ng-ời nông dân bị bần cùng hoá. Giai cấp công nhân Việt Nam làm việc trong
các nhà máy của ng-ời Pháp ngày càng đông. Điều kiện làm việc và sinh hoạt
vô cùng cực khổ. Xuất thân từ ng-ời dân của một đất n-ớc nô lệ, mang sẵn
mối thù dân tộc, lại thêm bị giai cấp t- sản Pháp áp bøc, hä mang thªm mèi


21
thù giai cấp. Vì vậy, giai cấp công nhân có sự giác ngộ sớm ý thức giai cấp và
nhanh chóng trở thành giai cấp tiên phong trong phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Giai cấp tiểu t- sản ra đời cùng với sự xuất hiện của các thành
thị, nền giáo dục mới. Giai cấp này gồm ba bộ phận: trí thức, tiểu th-ơng và
thợ thủ công. Giai cấp t- sản Việt Nam sau chiến tranh có sự phát triển nhanh
chóng. Hầu hết họ là t- sản dân tộc, có tinh thần dân tộc. Tuy nhiên, do số
l-ợng doanh nhân không nhiều, số vốn lại ít, nên bị cạnh tranh bởi t- sản Pháp

và t- sản Hoa kiều.
Cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đà hình thành nên ở Việt
Nam một hệ thống thành thị kiểu ph-ơng Tây. Trong quá trình sinh sống, tầng
lớp thị dân đà tạo ra một lối sống riêng, vừa kế thừa những giá trị truyền
thống, đồng thời xuất hiện những lối sống mới khác với lối sống của ng-ời
nông dân.
Hệ thống thành thị phát triển, thị dân đông đúc là điều kiện để tiếp nhận
văn hoá ph-ơng Tây. Từ đó dẫn đến sự ra đời các nhà xuất bản, báo chí, văn
học, kịch nói, điện ảnh, kiến trúc mới... Thập kỉ 20 trong thế kỉ XX trong lịch
sử Việt Nam đ-ợc xem là giai đoạn giao thoa, đan xen nh-ng giá trị văn hoá
truyền thống và văn hoá ngoại nhập, giữa nền văn hoá thực dân, nền văn hoá
chính thống và nền văn hoá mới, văn hoá tiến bộ, cách mạng đang định hình
[50,254].
Với sự xuất hiện rầm rộ của hệ thống các nhà xuất bản, báo chí... mà
các tác phẩm văn học mới đ-ợc đón nhận một cách hồ hởi. Năm 1925, tiểu
thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách ra đời, với lối viết mới theo quy luật
tâm lý, không theo kết cấu ch-ơng hồi, nội dung đả kích lễ giáo phong kiến
lỗi thời, đề cao tình yêu, tự do cá nhân. Tiếp đó, hàng loạt tác phẩm ra đời
h-ớng tới việc phê phán xà hội đ-ơng thời bằng cách bóc trần cuộc sống tủi
nhục, lầm than của ng-ời lao động, miêu tả những xung đột của lễ giáo
phong kiến với tự do cá nhân t- sản, công khai bộc lộ tình cảm yêu n-ớc


22
th-ơng nòi. Những yếu tố đó làm tiền đề cho sự ra đời của dòng văn học hiện
thực phê phán.
Trong bối cảnh đó, phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra hết
sức sôi nổi. Các giai cấp, tầng lớp đều có phong trào đấu tranh chống chính
quyền thực dân. Tr-ớc khí thế đó, thực dân Pháp tiến hành đàn áp, khủng bố
phong trào. Cuộc đàn áp này đà đẩy những ng-ời yêu n-ớc liên kết lại với

nhau trong các tổ chức cách mạng. Trong n-ớc có ba tổ chức cách mạng gồm:
Hội Việt Nam cách mạng thanh niên, Tân Việt Cách mạng Đảng, Việt Nam
Quốc dân Đảng. Trong số ba tổ chức này thì Việt Nam Quốc dân Đảng là tổ
chức chính trị tiêu biểu nhất của khuynh h-ớng dân chủ t- sản ở Việt Nam
trong cuối những năm 20.
Thành phần chủ yếu của Việt Nam Quốc dân Đảng là trí thức, viên
chức, học sinh, thân hào thân sĩ ở nông thôn và binh lính Việt Nam trong quân
đội Pháp. Tổ chức này lấy việc ám sát khủng bố cá nhân để kích động phong
trào cách mạng, điển hình là vụ ám sát tên trùm Badanh (Bazin). Vụ ám sát
thành công đà làm nức lòng các tầng lớp nhân dân. Thực dân Pháp vô cùng
hoảng sợ. Chúng tiến hành khủng bố, bắt bớ những ng-ời yêu n-ớc. Các cơ sở
của tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng hầu nh- bị phá vỡ. Tr-ớc tình hình
nguy cấp đó, Nguyễn Thái Học - đảng tr-ởng - đà quyết định khởi nghĩa ở các
nơi, tập trung lực l-ợng tấn công các thành phố lớn là trung tâm quân sự của
Pháp. Thời gian đ-ợc ấn định vào ngày 2/9/1930.
Do bị địch khủng bố nên kế hoạch khởi nghĩa không diễn ra cùng lúc
đ-ợc. Đêm 9/2 khởi nghĩa nổ ra ở Yên Bái. Quân khởi nghĩa cũng chiếm đ-ợc
một số vị trí nh-ng không làm chủ đ-ợc tình hình. Sáng hôm sau, quân Pháp
tập trung lực l-ợng và dập tắt đ-ợc cuộc khởi nghĩa.
Sau cuộc khởi nghĩa, thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng rất dÃ
man, nhằm xoá sổ tổ chức Việt Nam Quốc dân Đảng, nhiều đảng viên bị cầm
tù, tra tÊn rÊt d· man.


×