Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Điêù tra cây thuốc của đồng bào dân tộc xã mường lống và một số xã lân cận thuộc huyện kỳ sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 95 trang )

LỜI CẢM ƠN

Để hồn thành luận văn này tơi đã nhận được sự hướng dẫn, giúp đỡ và
chỉ đạo tận tình của thầy giáo PGS.TS Ngơ Trực Nhã, tơi xin bày tỏ lịng biết ơn
sâu sắc tới thầy.
Qua đây tơi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô giáo,
ban chủ nhiệm tổ Thực vật, khoa Sinh học, khoa Sau Đại Học - Trường Đại Học
Vinh cùng bạn bè người thân đã giúp đỡ, ủng hộ, động viên, tạo điều kiện cho tôi
trong thời gian qua.
Đồng thời thông qua đây cho phép tôi gửi lời cảm ơn tới nhân dân xã
Mường Lống và các xã lân cận đã tận tình giúp đỡ để tơi có thể hồn thành được
luận văn này.
Trong quá trình thực hiện đề tài do cịn hạn chế về thời gian, trình độ,
kinh phí nên luận văn cịn nhiều thiếu sót. Tơi mong nhận được sự đóng góp ý kiến
q báu của thầy cơ giáo, các nhà khoa học và đồng nghiệp.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn!

1


MỤC LỤC
Đặt vấn đề................................................................................................................4
Chƣơng I: Tổng quan tài liệu.................................................................................6
1.1. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở một số nước...............................6
1.2. Tình hình nghiên cứu và sử dụng cây thuốc ở Việt Nam.................................11
1.3. Tình hình nghiên cứu cây thuốc ở Nghệ An.....................................................16
Chƣơng II: Đối tƣợng, mục đích, nội dung, địa điểm, thời gian và phƣơng
pháp........................................................................................................................17
2.1. Đối tượng nghiên cứu.......................................................................................17
2.2. Mục tiêu nghiên cứu.........................................................................................18
2.3. Nội dung nghiên cứu........................................................................................18


2.4. Địa điểm và thời gian nghiên cứu.....................................................................18
2.4.1. Địa điểm........................................................................................................18
2.4.2. Thời gian........................................................................................................18
2.5. Phương pháp nghiên cứu..................................................................................18
2.5.1. Phương pháp điều tra thực địa.......................................................................18
2.5.1.1. Phương pháp phỏng vấn và thu thập mẫu vật.............................................18
2.5.1.2. Xử lý mẫu vật.............................................................................................19
2.5.2. Phương pháp nghiên cứu trong phịng thí nghiệm........................................19
2.5.2.1. Chỉnh lý tên khoa học.................................................................................19
2.5.2.2. Xây dựng danh mục....................................................................................20
2.5.2.3. Đánh giá tính đa dạng sinh học của cây thuốc...........................................20
Chƣơng III: Điều kiện tự nhiên và xã hội khu vực nghiên cứu........................21
3.1. Điều kiện tự nhiên............................................................................................21
3.1.1. Vị trí địa lí......................................................................................................22
3.1.2. Địa hình.........................................................................................................21
3.1.3. Đất đai............................................................................................................22
2


3.1.4. Khí hậu, thuỷ văn...........................................................................................24
3.1.5. Thảm thực vật................................................................................................26
3.2. Điều kiện xã hội................................................................................................27
3.2.1. Dân số, cư dân ..............................................................................................27
3.2.2. Văn hoá xã hội...............................................................................................29
Chƣơng IV: Kết quả nghiên cứu..........................................................................33
4.1. Thành phần taxon cây thuốc.............................................................................34
4.2. Đánh giá tính đa dạng cây thuốc của ...............................................................67
4.2.1. Đa dạng về các bậc phân loại ( họ, chi, loài ) của các cây thuốc..................67
4.2.2. Đa dạng về mức độ ngành.............................................................................68
4.2.3. Đa dạng về mức độ họ...................................................................................70

4.2.4. Sự đa dạng ở mức độ chi...............................................................................71
4.3. Đa dạng về dạng thân của các cây làm thuốc..................................................72
4.4. Đa dạng bộ phận sử dụng của cây làm thuốc...................................................73
4.5. Sự phân bố các cây thuốc theo mơi trường sống..............................................74
4.6. Đa dạng về các nhóm bệnh được chữa trị........................................................76
4.7. Đa dạng phương pháp bào chế và sử dụng......................................................77
4.8. Các lồi cây thuốc q hiếm có nguy cơ đe doạ tuyệt chủng..........................78
4.9. Các bài thuốc thông dụng và tình hình khai thác cây thuốc của đồng bào dân
tộc xã Mường Lống và các xã lân cận thuộc huyệm Kỳ Sơn..................................81
Kết luận và kiến nghị.............................................................................................83
I. Kết luận................................................................................................................83
II. Kiến nghị.............................................................................................................84
Tài liệu tham khảo.................................................................................................85
Phụ lục....................................................................................................................89

3


ĐẶT VẤN ĐỀ
Khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm đã tạo nên cho đất nước Việt Nam một
thảm thực vật vơ cùng phong phú và đa dạng. Đó là nguồn tài nguyên vô cùng quý
giá cung cấp cho con người mọi nhu cầu thiết yếu phục vụ cuộc sống như lương
thực, thực phẩm, dược liệu và các nguyên liệu khác.
Chúng ta ai cũng biết rằng sức khoẻ là vốn quý nhất của con người. Từ
những thời xa xưa, ông cha chúng ta đã biết cách khai thác dược liệu từ thiên nhiên
để làm thuốc.
Đã xuất hiện nhiều thầy thuốc ở miền xuôi và các ông lang bà mế ở miền núi
qua nhiều đời đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm chữa bệnh cứu người, lưu giữ
được nhiều bài thuốc q cho con cháu đời sau.
Ngày nay thời kì cơng nghiệp hố ơ nhiễm mơi trường đã ảnh hưởng khơng

nhỏ tới sức khoẻ cộng đồng, sự gia tăng bệnh tật ngày một nhiều, nhiều căn bệnh
mà y học trong nước cũng như ngồi nước phải bó tay khi điều trị bằng thuốc tây.
Nhưng một số bài thuốc nam của y học cổ truyền lại chữa khỏi và không gây tác
dụng phụ. Chữa bệnh bằng tây y hiện đại lại tồn kém nhân dân ta đã khai thác các
loại thực vật dùng làm thuốc đã để lại nhiều kinh nghiệm dân gian để chữa bệnh.
Nhưng kinh nghiệm qúi báu đó tích lích từ các ơng lang bà mế từ bà con các dân
tộc ngày càng mai một, cây thuốc khai thác từ của rừng ngày một nhiều, các kinh
nghiệm qúi báu từ các người già mất đi không được lưu truyền cho các thế hệ sau.
Chữa bệnh bằng thuốc tây dần dần làm cho người ta quên đi những phương pháp
chữa bệnh truyền thống và bỏ phí tài nguyên cây thuốc có sẵn, các lương y nổi
tiếng của nước ta có công bảo tồn nhữg phương pháp chữa bệnh bằng kinh nghiệm
truyền thống và bằng cây cỏ có sẵn chữa bệnh cứu người như Tụê Tĩnh, như Hải
Thượng Lãn Ông trước đây để lại cho con cháu nhiều pho thuốc và kinh nghiệm
chữa bệnh quý giá, nhiều tài liệu về cây thuốc của nhiều danh y để lại giúp con
cháu đi sâu tìm hiểu từng hoạt chất có trong cây cỏ, trong các bài thuốc dân gian từ
4


đó chiết xuất tạo ra các dược phẩm có giá trị chữa bệnh có hiệu quả nhưng việc sử
dụng cây cỏ và các bài thuốc dân gian truyền thống vẫn được duy trì.
Do đó việc điều tra các loại cây cỏ có tác dụng chữa bệnh theo kinh nghiệm
dân gian là rất cần thiết. Việc thu thập kinh nghiệm dùng cây cỏ chữa bệnh có ý
nghĩa về mặt văn hố truyến thống nhân văn của các dân tộc truyền lại cho thế hệ
sau.
Xuất phát từ lí do đó mà chúng tôi chọn đề tài:" Điều tra cây thuốc của
đồng bào dân tộc xã Mƣờng Lống và các xã lân cận thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh
Nghệ An " làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình.

5



CHƢƠNG I
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở MỘT SỐ
NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI.
Khi con người xuất hiện, để tồn tại phải đấu tranh chống chọi với thiên
nhiên, con người đã phải sử dụng các cây cỏ phục vụ cho cuộc sống của mình như
làm thức ăn, làm nhà ở, làm thuốc chữa bệnh.... Từ đó những kinh nghiệm sống
dần dần được tích luỹ cho mỗi dân tộc và sau này tạo thành một bộ môn khoa học
mới là DÂN TỘC THỰC VẬT HỌC. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong quá trình
phát triển đều có nền y học cổ truyền riêng.
Từ xa xưa ( vào năm 3216 hoặc 3080 TCN ) Thần Nông - một nhà dược học tài
năng - đã chú ý tìm hiểu đến tác động của cây cỏ đến sức khoẻ của con người. Ông
đã dùng các loại cây thuốc để thử nghiệm lên chính bản thân mình, bằng cách
uống, nếm sau đó ghi lại những đặc điểm và biểu hiện mà ông cảm nhận được
trong cuốn sách " Thần nơng bản thảo " gồm 365 vị thuốc rất có giá trị.
Vào đầu thế kỉ thứ II nhân dân Trung Quốc đã biết dùng các loại cây cỏ để chữa
bệnh như: nước chè đặc, rễ cây cốt khí củ ( Polygonum cuspidatum ); vỏ rễ cây
Táo tầu ( Zizyphus vulgris ) ... để chữa vết thương; dùng các loại nhận sâm (Panax)
để phục hồi ngũ quan, trấn tĩnh tinh thần, chế ngự cảm xúc, chặn đứng kích động,
giải trừ lo âu, sáng mắt, khai sáng trí tuệ, gia tăng sự thông thái được sử dụng phổ
biến từ lâu ở Trung Quốc. [26, 45 ]
Trương Trọng Cảnh là một vị thánh trong Đông y vào thời Đông Hán cách đây
1700 năm, đã viết " Thương hàn tập bệnh luận " chỉ các bệnh dịch và các bệnh về
thời tiết nói chung, đề ra các cách chữa trị bắng thảo dược.
Cuốn " Cây thuốc Trung Quốc " (1985) đã liệt kê một danh lục các cây cỏ chữa
bệnh như rễ Gấc (Momordica cochimchinensis) chữa nhọt độc, viêm tuyến hạch,
hạt trị sưng tấy đau khớp, sốt rét, vết thương tụ máu; Cải Xoang (Rorippa

6



aquaticum (L.)) giải nhiệt, chữa lở mồm, chảy máu chân tay, chữa bướu cổ, ho,
lao...Cây Chè (Camellia sinensis) làm hưng phấn thần kinh, giảm mệt mỏi, kháng
lị trực khuẩn; Cây Lẩu ( Psychotria rubra) toàn thân giã nhỏ làm thuốc chữa gãy
xương, tiêu sưng, rửa mụn nhọt độc . Mới đây trong luận án tiến sỹ của Teddy
Yang Tatchi ( Hồng Kông) kết luận rằng Catechin trong chè xanh chưa lên men
chứa hoạt chất làm giảm lipit trong máu và làm giảm bệnh tim mạch do cholesterol
gây ra. [30]
Ở đời Hán (năm 186 TCN) đã liệt kê ra 52 bài thuốc chữa bệnh từ các cây cỏ. Lý
Thời Trần trong tập " Bản thảo cương mục " đã liệt kê 12000 vị thuốc xuất bản
năm 1595 giúp cho việc lưu truyền cách chữa bệnh bằng cây cỏ tới ngày nay.
Không chỉ ở Châu Á mà việc sử dụng cây cỏ làm thuốc cùng xuất hiện tại các nước
Châu Âu. Theo y học dân gian của Liên Xô con người đã sử dụng nước sắc vỏ quả
cây Bạch Dương (Bentula alba), vỏ cây Sồi (Quecus robus)- các nước Nga, Đức
đã dùng cây Mã Đề (plantogo major) sắc nước hoặc giã lá tươi đắp chữa trị vết
thương, viêm tiết niệu, sỏi thận[26]. Ở Bungari thì Hoa hồng (Rosa sinensis) chỉ là
loại hoa của tình u mà nó cịn được sử dụng như một loại thảo dược chữa trị
nhiều bệnh như làm tan huyết, chữa phù thũng. Ngày nay các nhà khoa học đã
chứng minh trong cánh Hoa hồng có chứa các chất như tanin, glucosit, tinh dầu.
Theo các nhà khoa học ở Viện hàn lâm Hồng Gia Anh thì trong Chè Xanh (Thea
sinensit L.) có hợp chất của phenol là Gallatépigallocatechol(GEGC) [30] có tác
dụng ngăn chặn sự phát triển các loại tế bào ung thư gan, dạ dày.
Từ lâu người Pêru đã dùng hạt cây Sen cạn ( Tropaeolum majus) để trị bệnh về
phổi và đường tiết niệu[48]. Ở Bắc Mỹ từ những thế kỷ trước thổ dân da đỏ đã biết
dùng củ cây Echinacea angustifolia chữa bệnh nhiễm khuẩn và thuốc chế từ củ cây
này chữa trị vết thương mưng mủ và vết rắn cắn. Và sau này(1950) Stoll và cộng
sự đã tách được một glucosit gọi là Echinacoit, kiềm chế được tụ cầu gây bệnh.

7



Cách đây khoảng 3000-5000 năm, Ấn Độ đã dùng phổ biến cây cỏ làm thuốc, dùng
lá cây Ba chẽn (Desmodium tringulare) sao vàng sắc đặc để chữa kiết lỵ và tiêu
chảy rất hiệu nghiệm[35].
Từ năm 400 TCN, người Hy Lạp và La Mã cổ đại đã biết đến Gừng (Zingiber
Officinale) để chữa bệnh cúm, cảm lạnh, kém ăn, viêm khớp. Thời cổ xưa các
chiến binh Hy Lạp và La Mã đã biết dùng nhựa cây Lô Hội (Aloe vera) để làm
thuốc tẩy xổ.
Người Hy Lạp cổ dùng rau Mùi Tây (Coriandrum Officinale) để đắp vết thương
mau lành. Dùng vỏ quả Óc chó (Juglans regia L.) để chữa vết loét, vết thương[28].
Gelien một thầy thuốc thời cổ đại Ai Cập đã dùng Tỏi (Allium Sqtìvum L.) làm
thuốc chữa bệnh có tác dụng lợi tiểu, trị giun, giải độc, chữa hen suyễn và đau
răng.
Cũng từ lâu người Haiti (Dominíc- Trung Mỹ) dùng cây Cỏ lào (Eupatorium
odoratum) làm thuốc đắp vào các vết thương bị nhiễm khuẩn dùng để cầm máu,
chữa đau nhức răng, làm lành các vết loét lâu ngày không liền sẹo... [39]
Ở vùng Đông Nam Á, người Malaixia dùng cây Húng chanh (Coleus amboinicus)
sắc cho phụ nữ sau khi đẻ uống, lấy lá giả nhỏ văt nước cho trẻ uống trị sổ mũi,
đau bụng, ho gà....Trong chương trình điều tra cơ bản nguồn tài nguyên thiên nhiên
tại khu vực Đông Nam Á, Perry đã nghiên cứu và ghi nhận nhiều cây thuốc của y
học cổ truyền và đã kiểm chứng tổng hợp thành cuốn "Medicinal plants ò East and
Sountheast Asia" 1985 giới thiệu cây thuốc vùng Đông Nam Á. Các nhà khoa học
trên thế giới đi sâu nghiên cứu các cơ chế và các hợp chất hoá học trong cây cỏ
như Tokin, Klain, Penneys đều công nhận rằng hầu hết cây cỏ đều có tính kháng
sinh, đây là một trong các yếu tố miễn dịch tự nhiên, do các hợp chất hay gặp như:
Phenolic, antoxyan, các dẫn xuất quinin, alkaloids, heterozit, saponin[45]....Theo
Anon(1982) trong vịng 200 năm lại đây có ít nhất 121 hợp chất hoá học tự nhiên
con người đã nắm được cấu trúc được chiết xuất từ cây cỏ và tổng hợp nên các loại


8


thuốc chữa trị bệnh có hiệu quả. Vị dụ như cây Lô hội (Aloe vera) theo Gotthall
(1950) đã phân lập được chất glucosit barbaloin có tác dụng diệt vi khuẩn lao ở
người. Lucas và Lewis (1944) đã chiết xuất được từ Kim ngân (Lonicera tataria)
một hoạt chất tiêu diệt được các loài vi khuẩn gây bệnh tả lị. Các nhà khoa học
cũng đã chiết xuất được Becberin từ cây Hoàng Liên ( Coptis teeta ) chữa bệnh
đường ruột. Lebeder nhận xét Becberin có tác dụng đối với Tụ cầu, Liên cầu và
Trực khuẩn họ gà, Trực khuẩn lị, Thuơng hàn và Trực khuẩn lao[37]. Năm 1948
Shen-chi-Shen phân lập được một hoạt chất Odorin từ cây Hẹ ít độc đối với động
vật cao cấp nhưng lại có tính kháng khuẩn mạnh. Trong cây Hẹ cịn phát hiện ra
Alaloids có tác dụng với vi khuẩn Gram+, Gram--, nấm. Trong nhiều loại Ba gạc
(Rauvolfia spp.) chiết được chất Resecpin, Serpentin làm thuốc hạ huyết áp.
Vinblastin, vincristin được chiết từ cây Dừa cạn (Cathantthuss roseus) vừa có tác
dụng hạ huyết áp vừa chống ung thư. Digitakin strophantin được chiết từ các loại
Sừng dê (Steophanthus spp.) dùng làm thuốc trợ tim từ nhiều thập kỉ nay. Vài chục
năm gần đây, các thành tựu nghiên cứu cấu trúc, hoạt tính của các hợp chất hố
học tự nhiên bằng con đường tổng hợp hoặc bán tổng hợp và một số loại thuốc
chữa trị bệnh có hiệu quả cao lần lượt ra đời.
Ở quốc đảo Cuba người ta đã dùng bột Papain lấy từ cây Đu đủ (Carica papaya )
để làm rụng hoại tử, kích hoạt tổ chức hạt ở vết thương phát triển[26].
Ở Campuchia, Malayxia dùng cây hương nhu tía ( Ocinum sanctum) trị đau bụng,
sốt rét; lá tươi ép lấy nước long đờm, giã nát đắp trị bệnh đau khớp. Tại vùng Á
Đông, cách đây hơn 6000 năm dùng củ Nghệ (Curcuma longa) vừa làm chất màu
gia vị, bảo quản thứ ăn tốt. Phụ nữ Philippin dùng củ Nghệ chữa kinh nguyệt
không đều; lá cùng với hoa chữa ho, giun, giúp tiêu hoá tốt. Cây Ngãi cứu
(Artemisia vhilgris) dùng trị thổ huyết, chữa trực tràng, tử cung xuất huyết, còn
chữa đau bụng, bế kinh, phụ nữ bị động thai. Những cây mọc hoang phổ biến như
cây Bồ cu vẽ (Breynia fruticosa) sắc vỏ cây làm thuốc cầm máu hoặc tán bột rắc


9


chữa mụn nhọt, vết lở loét chóng khỏi[35]. Nhân dân Campuchia dùng củ Khoai
sáp (Alocasi macrrhiza) chữa ghẻ, ngứa. Nhân dân Lào ngâm vỏ cây Đại
(Plumeria rubra) với rượu để chữa ghẻ lở. Dân Thái Lan dùng nhựa mủ cây Đại
cùng với dầu Dừa bơi ngồi da trị viêm khớp[35].
Gần đây theo thống kê của tổ chức y tế thế giới (WHO) thì đến năm 1985 đã có
gần 20000 lồi thực vật (trong tổng số 250000 loài đã được biết) được dùng làm
thuốc hoặc cung cấp hoạt chất để chế biến thuốc. Trong đó Ấn Độ có khoảng 6000
lồi, Trung Quốc 5000 loài, vùng nhiệt đới Châu Mỹ hơn 1900 lồi thực vật có
hoa[33]. Theo số liệu của WHO thì nhu cầu sử dụng cây thuốc ngày càng cao. Ở
Trung Quốc hàng năm tiêu thụ khoảng 700000 tấn dược liệu, sản phẩm thuốc y
học dân tộc đạt giá trị hơn 1,7 tỉ USD vào năm 1986. Tổng giá trị về thuốc có
nguồn gốc thực vật trên thị trường Âu - Mỹ và Nhật Bản vào năm 1985 là hơn 43 tỉ
USD. Tạo các nước có nên cơng nghiệp phát triển tăng từ 335 triệu USD (1976)
lên 551 triệu USD (1980). Còn ở Nhật Bản nhập khẩu dược liệu tăng 21000 tấn
(1979) lên 22640 tấn (1980) tương đương 50 triệu USD. Ở Mỹ 4,5% tổng giá trị
GDP( tương đương 75 triệu USD) thu được từ cây hoang dại làm thuốc phục vụ
cho nền y học cổ truyền[41].
Trên thế giới có rất nhiều loại cây thuốc quý hiếm nhưng do con người khai thác
khơng hợp lí, cây thuốc càng trở nên khan hiếm, nguy cơ chúng bị tuyệt chủng
hoặc sẽ tuyệt chủng. Ước tính từ năm 1990 đến năm 2020 có khoảng 5-10% số loại
cây thuốc trên thế giới sẽ bị biến mất và số loài tuyệt chủng sẽ tăng lên 25% vào
khoảng năm 2050.
Vì vậy song song với việc nghiên cứu sử dụng cây thuốc, vấn đề cấp bách là bảo
tồn các loại cây thuốc cần đặt ra cho tất cả các nước. tại hội nghị các nước về bảo
tồn quỹ gen cây thuốc họp từ ngày 21 đến ngày 27 tháng 3 năm 1983 tai
Chengmai(Thái lan), hàng loạt các công trình nghiên cứu về tính đa dạng và sự sụt

giảm nguồn gen cây thuốc trên toàn thế giới được đặt ra cấp thiết[41].

10


Thế kỉ XXI, để bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho con người, sự phát triển không
ngừng của xã hội, để chồng lại các bệnh tật trong đó có bệnh nan y, cần nhiều cây
thuốc và cách sử dụng chúng phải kết hợp Đông và Tây y, giữa y học hiện đại với
kinh nghiệm cổ truyền của dân tộc. Cho nên việc khai thác kết hợp với bảo tồn các
cây thuốc là hết sức quan trọng[41].
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ SỬ DỤNG CÂY THUỐC Ở VIỆT
NAM
Trên 4000 năm dựng nước và giữ nước, nền y học nước nhà đã phát triển
không ngừng ngày càng phong phú, đa dạng góp phần chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ
của người dân.
Ngay từ thời vua Hùng (2900 năm TCN) qua các văn tự hán nơm cịn sót lại
(Đại Việt sử kí ngoại kí, Linh Nam chính quái liệt truyện) tổ tiên ta đã biết sử dụng
cây cỏ để dùng chữa bệnh. Theo Long Uý chép lại vào đầu thế kỉ II TCN có hàng
trăm vị thuốc từ đât Giao Chỉ như: ý dĩ, Hoắc hương, Sơn khương, Đậu khấu...
được giới thiệu và sử dụng[23].
Kinh nghiệm sử dụng cây thuốc của nhân dân gắn liền với sự phát triển của
các danh y nổi tiếng đương thời.
Vào đời nhà Lí (1010-1224) nhà sư Nguyễn Minh Khổng (tức Nguyễn Chí
Thành) đã dùng cây cỏ chữa bệnh cho nhân dân và cho nhà vua nên được tấn
phong là "Quốc sử" - Triều Lí.
Vào đời nhà Trần (1225-1339) Phạm Ngũ Lão thừa lệnh Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn xây dựng một vườn thuốc lớn gọi là "Sơn dược" để chữa bệnh cho
quân sĩ, nay còn di tích tại một quả đồi thuộc xã Hưng Đạo - Chí Linh - Hải Hưng.
Chu Tiên lần đầu tiên biên soạn cuốn " Bản thảo cương mục toàn yếu" đây là cuốn
sách thuốc đầu tiên của nước ta được xuất bản năm 1429.
Ở thế kỉ XIII hai danh y nổi tiếng đương thời là Phạm Công Bân và Tuệ

Tĩnh đã từng nêu quan điểm " Nam dựơc trị Nam nhân" dùng thuốc nam chữa bệnh

11


cho người Việt Nam. Ông để lại cho đời nhiều cuốn sách qúi tập hợp những bài
thuốc hay, những kinh nghiệm qúi báu đặc biệt là phương pháp chữa bệnh cứu
người bằng thuốc nam. Tuệ Tĩnh biên soạn bộ " Nam dược thần hiệu" gồm 11
quyển với 496 vị thuốc nam trong đó có 241 vị thuốc có nguồn gốc thực vật và
3932 phương thuốc để trị 184 chứng bệnh của 10 khoa lâm sàng. Ơng cịn viết
cuốn "Hồng nghĩa Giác tự y thư" tóm tắt cơng dụng của 130 loài cây thuốc cùng
13 phương gia giảm và cách trị cho các chứng bệnh. Trong "Nam dược thần hiệu"
có mơ tả và ghi tác dụng chữa bệnh của nhiều cây thuốc như: Tô mộc (Caesalpinia
Sappan) bổ huyết;Thanh hao (Artemisia apiacea) chữa chứng sốt, lị.... Sử quân tử
(Quisqualis) sát khuẩn, chữa tả lị; Sầu đâu (Brucea javanica) sát trùng, trị đau ruột
non; Cây lá móng (Lawsonia inermis) chữa viêm đường hơ hấp... Bạc hà (Mentha
arvensis) chữa sốt nhức đầu[48].
Tuệ Tĩnh được coi là một danh y kì tài trong lịch sử y học nước ta, là "vị
thánh thuốc nam". Ông chủ trương lấy "Nam dược trị nam nhân". Tuy nhiên bộ
sách q của ơng về sau bị qn Minh thu hết chỉ còn lại "Nam dược thần hiệu",
"Tuệ Tĩnh y thư", "Thập tam phương gia giảm", "Thương hàn tam thập thất trùng
pháp"[23, 48] .
Sau Tuệ Tĩnh đến thời Lê Dụ Tông có Hải Thượng Lãn Ơng - tên thật là Lê
Hữu Trác ở thế kỉ XVIII - cũng là một danh y nổi tiếng. Ông đã kế thừa, tổng kết
và phát triển tư tưởng của Tuệ Tĩnh trong việc dùng thuốc nam để trị bệnh. Ông là
người am hiểu y học, sinh lí học, đọc nhiều sách thuốc. Trong 10 năm khổ cơng
tìm tịi nghiên cứu, ơng viết ra cuốn "Lãn Ông tâm lĩnh" hay "Y tôn tâm lĩnh" gồm
66 quyển đề cập tới nhiều vấn đề về y dược. Như "Y huấn cách ngân", "Y lý thân
nhân", "Lý ngôn phụ chính", "Y nghiệp thần chương" xuất bản năm 1772. Trọng
bộ sách này ngoài sự kế thừa "Nam dược thần hiệu" ông còn bổ sung thêm 329 vị

thuốc mới. Trong quyển "Lĩnh nam bản thảo" ông đã tổng hợp được 2854 bài
thuốc chữa bệnh bằng kinh nghiệm dân gian. Mặt khác ông còn mở trường đào tạo

12


y sinh, truyền bá tư tưởng và hiểu biết mới về y học. Ơng được xem là ơng tổ của
nghề thuốc Việt Nam[21].
Cùng thời với Hải Thượng Lãn Ơng cịn có 2 trạng ngun là Nguyễn Nho
và Ngơ Văn Tĩnh đã biên soạn bộ "Vạn phương tập nghiêm" gồm 8 quyển xuất bản
năm 1763.
Vào thời kỳ Tây Sơn và nhà Nguyễn (1788-1883) có tập " Nam dược",
"Nam dược chí danh truyền", "La kê phương dược"... của Nguyễn Quang Tuân ghi
chép 500 vị thuốc nam trong dân gian dùng để chữa bệnh. Tập "Nam dược tập
nghiêm quốc âm" của Nguyễn Quang Lượng viết về các loại bài thuốc nam đơn
giản thường dùng[23]. Nguyễn Đình Chiểu với cuốn "Ngư tiều vấn đáp y thuật"
mô tả nhiều bài thuốc và thuật chữa bệnh của Nam bộ. "Nam thiên đức bảo toàn
thư" của Lê Đức Huệ mô tả 511 vị thuốc nam và cách chữa bệnh[23]. Trần Nguyên
Phương đã mô tả công dụng của trên 100 bài thuốc trong cuốn "Nam bang thảo
mộc" (1858) [23]. Thời kì 1884 - 1945 dưới ách đơ hộ của thực dân Pháp, việc
nghiên cứu cây thuốc gặp nhiều khó khăn. Duy chỉ có một số nhà thực vật học,
dược học người Pháp nghiên cứu nhưng với mục đích chính là khai thác tài
ngun. Điển hình là các nhà dược học nổi tiếng như: Erevost,Petelot, Perrot
Hurrier đã xuất bản bộ "Catalogue des produits de L'indochine" (1928 - 1935)
trong đó tập V (Produits medicanaux, 1928) đã mô tả 368 cây thuốc và vị thuốc.
Đến năm 1952 Petelot bổ sung và xây dựng thành bộ "Les plantes medicinales du
Cambodge, du Laos et du Viet Nam" gồm 4 tập thống kê 1482 vị thuốc thảo mộc
có ở ba nước Đơng Dương.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, với phương châm của Đảng
ta "Tự lực cánh sinh, tự cung tự cấp" phong trào dùng thuốc nam đã được phát huy

vai trò to lớn của các bài thuốc dân gian được nghành y tế đã xây dựng nên các
"Toa căn bản", chữa bệnh bằng 10 vị thuốc thông thường được phổ biến rộng rãi.

13


Sau khi nước nhà dành độc lập Đảng và Bác Hồ rất quan tâm đến việc chữa
bệnh cho nhân dân bằng thuốc nam. Bác Hồ đã phát động phong trào "Nhà nhà
trồng thuốc nam, người người dùng thuốc nam". Ngày 27/2/1955 trong thư của chủ
tịch Hồ Chí Minh gửi hội nghị ngành y tế, người đã đề ra đường lối xây dựng nền
y học Việt Nam là khoa học, dân tộc, đại chúng kết hợp giữa y học cổ truyền của
dân tộc và y học hiện đại. Đông y phát triển việc nghiên cứu thuốc nam được thúc
đẩy mạnh mẽ. Mạng lưới y học từ trung ương đến địa phương được thành lập, viện
y học dân tộc ra đời để đào tạo y, bác sỹ Đông y, thành lập các bệnh viện y học dân
tọc, hội Đông y, sưu tầm thuốc nam, tổ chức điều tra, phân loại, tìm hiểu dược tính,
thành phần hố học, lập bản dồ dược liệu trong cả nước và sản xuất các loại thuốc
từ nguồn gốc cây cỏ trong tự nhiên.
Viện dược liệu của bộ y tế cùng với hệ thống trạm nghiên cứu dược liệu đã
điều tra ở 2795 xã thuộc 351 huyện, thị xã của 47 tỉnh trong cả nước đã có những
đóng góp đáng kể trong cơng tác điều tra sưu tầm nguồn tài nguyên cây thuốc và
kinh nghiệm sử dụng cây thuốc trong y học cổ truyền. Kết quả nghiên cứu trêbn
được đúc kết trong "Danh lục cây thuốc miền Bắc Việt Nam", "Danh lục cây thuốc
Việt Nam", "Tập atlas cây thuốc" đã công bố danh sách về cây thuốc từ 1961 1972 ở miền Bắc là 1114 loài, từ 1977 - 1985 ở miền Nam là 1119 loài. Tổng hợp
trong cả nước đến năm 1985 trong cả nước có 1863 loài và dưới loài thuộc 1033
chi, 136 họ, 101 bộ, 17 lớp, 11 ngành và mỗi lồi giới thiệu cơng dụng, cách sử
dụng[3, 4].
Đỗ Tất Lợi (1969) cho xuất bản bộ "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam"
giới thiệu trên 500 vị thuốc có nguồn gốc thực vật, động vật và khống vật. Ơng
tiếp tục nghiên cứu bổ sung về cây thuốc lần tái bản thứ 11 (2003) gồm 792 lồi
cây thuốc được mơ tả hình thái, phân bố, thành phần hố học và cơng dụng chữa

các nhóm bệnh khác nhau[35].

14


Võ Văn Chi (1976) trong luận văn TS đã thống kê 1360 loài cây thuốc thuộc
192 họ trong ngành hạt kín ở miền Bắc. Đến năm 1991 trong báo cáo tham gia hội
thảo quốc gia về cây thuốc lần 2 tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh tác giả đã giới thiệu
một danh sách các loại cây thuốc Việt Nam với 2280 lồi cây thuốc bậc cao có
mạch thuộc 254 họ trong 8 ngành. Năm 2000 trong "Từ điển cây thuốc Việt Nam"
ông đã giới thiệu 3200 loại cây thuốc, mơ tả tỉ mỉ về hình thái, các bộ phận sử
dụng, cách chế biến, các đơn thuốc đi kèm. Tác giả còn nghiên cứu cây thuốc ở
một số địa phương như "Cây thuốc của tỉnh Lâm Đồng"(1982), "Danh lục cây
thuốc vùng núi huyện Ninh Sơn và vùng biển huyện Tuy Phong tỉnh Thuận
Hải"(1984), "Hệ cây thuốc Tây Nguyên"(1985), "Cây thuốc Đồng Tháp
Mười"(1987), "Cây thuốc An Giang"(1991) [12].
Đỗ Huy Bích, Bùi Xuân Chương và cộng sự đã cho ra cuốn "Sổ tay cây
thuốc Việt Nam"(1980) [4] và "Tài nguyên cây thuốc Việt Nam"(1993) [3] đã
thống kê hàng năm có khoảng 300 loại cây thuốc được khai thác và sử dụng ở các
mức độ khác nhau trong tồn quốc.
Năm 1994 trong cơng trình nghiên cứu cây thuốc Lâm Sơn - Lương Sơn- Hà
Sơn Bình, Nguyễn Nghĩa Thìn đã giới thiệu 112 loại thuộc 50 họ[57]. Năm 1990 1995 trong hội thảo quốc tế lẩn thứ 2 về dân tộc sinh học tại Côn Ninh - Trung
Quốc tác giả đã giới thiệu lịch sử nghiên cứu dân tộc dược học và giới thiệu 2300
loài thuộc 1136 chi, 234 họ, 6 ngành thực vật có mạch bậc cao ở Việt Nam được sử
dụng làm thuốc và giới thiệu hơn 1000 bài thuốc thu thập được ở Việt Nam.
Sử dụng cây thuốc trong y học dân tộc ở Việt Nam đang có nhiều triển vọng
phát triển, nó là nguồn cơng nghiệp dược, chiết xuất các hợp chất để làm thuốc.
Chỉ tính riêng trong vịng 20 năm lại đây đã có 701 loại thuốc chính thức được sản
xuất đại trà.


15


Một số cây được đưa vào sản xuất như: Thanh Cao (Artemisia anneea), Vằn
Đắng (Coscinium fenestratum), Sứng Dê (Strophanthus diavari catus), Ba gạc
(Rauvolfia tetraphylla) phục vụ tốt nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Nhiều cây thuốc đã được nghiên cứu hoạt chất của chúng, chứng minh tác
dụng dược lý và đã trở thành mặt hàng xuất khẩu. Một số loại hoạt chất đã được
chiết xuất như rutin, Strophantin, bebecrin, palmatin, L-tetrahydopalmatin,
rtemisinin, đã đựơc chế biến thành nhiều loại thuốc khác nhau có hoạt tính chữa
bệnh tốt[5], [20].
Theo cơng bố của Trần Ngọc Ninh (1994), Lê Trần Đức (1995) ngành hoá
dược Việt Nam bắt đầu cũng đã chiết được hợp chất Taxol từ lồi Thơng Đỏ
(Taxus Sp.) có tác dụng chống ung thư[3].
Hiện nay ở nước ta cây cỏ dùng làm thuốc rất đa dạng và phong phú, đã
vượt qua 3200 lồi với 2100 chi trên 300 họ, trong đó phần lớn là thực vật có hoa
với hơn 2500 lồi thuộc 1050 chi trên 320 họ[5].
1.3. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÂY THUỐC Ở NGHỆ AN
Ở Nghệ An các cơng trình nghiên cứu về cây thuốc cịn chưa nhiều. Hội
Đơng y Nghệ An đã có những đóng góp trong việc giữ gìn phát huy những di sản
nền y học dân tộc tỉnh nhà bằng kinh nghiệm sử dụng cây cỏ làm thuốc.
Một số tài liệu về cây thuốc và các bài thuốc như: "Kinh nghiệm chữa bệnh
của Đông y Nghệ Tĩnh" (1978) của tổng hội Đông y Nghệ Tĩnh, "Sổ tay dùng
thuốc gia đình" của Nguyễn Văn Nhung, Đinh Sỹ Hồn được nhân dân ứng dụng
nhiều trong đời sống hàng ngày. Nhiều luận văn, luận án khoa học về điều tra cây
thuốc, bài thuốc của thầy trò khoa Sinh trường Đại học Vinh cũng được triển khai
trên nhiều địa phương. Có thể kể đến như: "Điều tra cây thuốc và kinh nghiệm sử
dụng chúng của đồng bào dân tộc Thái xã Yên Khê - Con Cuông - Nghệ An"
(1996) luân văn thạc sỹ của Tô Vương Phúc đã thống kê được 223 loại cây thuốc
thuộc 81 họ và 113 bài thuốc chữa 29 nhóm bệnh. Trong luận án tiến sỹ sinh học


16


của Nguyễn Thị Hạnh năm 1999 với đề tài "Nghiên cứu các cây thuốc của đồng
bào dân tộc Thái huyện Con Cng- Nghệ An" đã cơng bố 544 lồi thực vật làm
thuốc thuộc 363 chi, 121 họ của 4 ngành thực vật bậc cao và thu thập được 154 bài
thuốc chữa trị 16 nhóm bệnh khác nhau cảu đồng bào dân tộc Thái huyện Con
Cng - Nghệ An.
Nguyễn Nghĩa Thìn, Nguyễn Thị Hạnh và Ngô Trực Nhã với cuốn "Thực
vật dân tộc - cây thuốc của đồng bào dân tộc Thái huyện Con Cuông - Nghệ An"
nhà xuất bản Nông Nghiệp 2001 công bố 551 loại cây thuốc thuộc 361 chi của 120
họ[43]. Nghiên cứu tính kháng khuẩn của 50 loài cây thuốc và giá trị chữa bệnh
phổ biến của các cây thuốc nghiên cứu và thống kê được nhiều bài thuốc của đồng
bào dân tộc Thái huyện Con Cuông - Nghệ An.
Còn riêng ở vùng Tây Bắc Nghệ An, Đặng Quang Châu và cộng sự thực
hiện đề tài thuộc chương trình nghiên cứu cơ bản cấp nhà nước "Đa dạng cây thuốc
dân tộc Thái các huyện Tây Bắc Nghệ An" (2001). Từ 2001 - 2003 cơng trình đã
thống kê được 117 loài thuộc 149 chi và 71 họ.
Nguyễn Thị Kim Chi trong luận văn thạc sỹ năm 2002 với đề tài "Điều tra
cây thuốc của dân tộc Thổ ở 3 xã Nghĩa Hồng, Nghĩa Yên, Nghĩa Lâm huyện
Nghĩa Đàn" đã cơng bố 244 lồi thuộc 205 chi với 88 họ của 3 ngành thực vật bậc
cao.
Ngồi ra cịn có Bùi Hồng Hải với "Điều tra cây thuốc đồng bào dân tộc 3 xã
Châu Lộc, Thọ Hợp và Văn Lợi huyện Quỳ Hợp tình Nghệ An" (2004).
CHƢƠNG II
ĐỐI TƢỢNG, MỤC TIÊU, ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
Các loại thực vật được dùng làm thuốc của đồng bào dân tộc xã Mường Lống và xã


17


Huội Tụ, xa Mỹ Lý, xã Bảo Nam, xã Bảo Thắng, xã Bắc Lý, xã Pha Đánh huyện
Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An
2.2. MỤC TIÊU:
Điều tra cây thuốc của đồng bào đan tộc xã Mường Lống huyện Kỳ Sơn tỉnh
Nghệ An và các xã lân cận. Đồng thời mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc giữ
gìn các kinh nghiệm q báu của dân tộc và phát triển nguồn dược liệu của tỉnh
Nghệ An.
2.3. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
- Điều tra, thu thập, hệ thống các cây thuốc của đồng bào dân tộc xã Mường
Lống huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An và các xã lân cận.
- Phân tích tình đa dạng về thành phần Taxon, môi trường sống, sự phân bố
và bộ phận sử dụng..
2.4. ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
2.4.1. Địa điểm:
Các bản thuộc xã Mường Lống và các xã Bảo Nam, Bảo Thắng, Bắc Lý, Mỹ
Lý, Huội Tụ và Phà Đánh thuộc huyện Kỳ Sơn tỉnh Nghệ An.
2.4.2. Thời gian:
Thời gian tiến hành từ thàng 4/2009 đến 11/2009. Quá trình nghiên cứu
được chia thành 2 giai đoạn.
Đợt 1: Từ tháng 4 - 7/2009 tiến hành sưu tập tài liệu và các thông tin, thu
thập các mẫu cây thuốc (đọt 1).
Đợt 2: Từ tháng 8 - 11/2009 tiến hành thu mẫu đợt 2, xử lí thơng tín và viết
luận văn, chuẩn bị bảo vệ.
2.5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.5.1. Phƣơng pháp điều tra thực địa.
2.5.1.1. Phƣơng pháp phỏng vấn và thu thập mẫu vật.


18


- Phát phiếu điều tra và phỏng vấn bà con dân tộc tại địa bàn nghiên cứu
nhất là các ông lang bà mế và các lương y để sưu tầm cây thuốc sử dụng trong dân
bản.
- Các mẫu cây thu được cho vào cặp ép có nhãn.
2.5.1.2. Xử lý mẫu vật.
Mẫu các loại cây thuốc được thu hái và xử lí theo các phương pháp :
- Phương pháp điều tra cây thuốc và vị thuốc theo "Những cây thuốc và vị
thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi.(1995) [35].
- Quy trình điều tra dược liệu qua "Sổ tay thuốc nam thường dùng ở cơ sở"
của Bộ y tế (1973) [8],
- Phương pháp điều tra thực vật qua "Cẩm nang nghiên cứu đa dạng thực
vật" của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [43]
- Phương pháp làm tiêu bản thực vật theo "Kĩ thuật thu hái mẫu vật làm tiêu
bản cây cỏ" của Nguyễn Văn Dưỡng - Trần Hợp (1971) [19]
Mỗi mẫu cây được thu 3 -5 mẫu, thành nhiều đợt, có đánh số liệu và đặt vào
tờ báo gấp 4 lần, kẹp vào cặp mắt cáo 29×41 cm. Mỗi cặp khoảng 20 - 30 mẫu,
phía ngồi có lót báo. Mẫu cây được phơi nắng để làm khô.
- Phương pháp giám định họ và chi ngoài thiên nhiên theo tài liệu "Cẩm
nang nghiên cứu đa dạng sinh vật" của Nguyễn Nghĩa Thìn (1997) [43] và "Cẩm
nang tra cứu và nhận biết các họ thực vật hạt kín ở Việt Nam" của Nguyễn Tiến
Bân (1997) [2].
2.5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu trong phịng thí nghiệm
2.5.2.1. Xác định tên khoa học.
Mẫu được phân loại và xác định tên khoa học dựa theo các tài liệu sau:
- Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hổ, 3 tập (1991 - 1993) [25].
- Tạp chí sinh học , chuyên đề, 6 quyển (1994 - 1995).


19


- Cây cỏ thường thấy ở Việt Nam, 6 tập do Lê Khả Kế chủ biên (1969 - 1976)
[28].
- Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (2003) [13].
Mẫu được định loại và xử lí xong đính trên giấy croki trắng kích thước
29cm×41cm và dán nhãn kích thước 7cm × 10cm. Trên nhãn có các thơng tin sau:
Số mẫu..............Ký hiệu.................................................................................
Ngày lấy mẫu...........Nơi thu mẫu...........................Người thu mẫu...............
Tên Việt Nam.................................................................................................
Tên dân tộc.....................................................................................................
Tên KH..............................................................Họ........................................
Người định loại...............................................................................................
2.5.2.2. Xây dựng danh mục.
Sau khi định loại các loại cây thuốc được sắp xếp vào các họ và các chi theo
R.K.Brummit (1992) [54].
Trật tự các cột danh mục được sáp xếp như sau: Số TT, tên khoa học, tên
dân tộc, tên phổ thông, dạng thân, bộ phận sử dụng, nơi mọc, nơi gặp, mức độ gặp,
cơng dụng, cách dùng.
2.5.2.3. Đánh giá tính đa dạng sinh học của cây thuốc.
* Đa dạng chữa trị các nhóm bệnh.
Việc phân loại các cây thuốc và bài thuốc chữa trị theo các nhóm bệnh dựa
vào tài liệu của Đỗ Tất Lợi (2003).
* Đa dạng về cách bào chế và chữa bệnh.
Cách bào chế và sử dụng dựa vào tài liệu "Từ điển cây thuốc Việt Nam" của
Võ Văn Chi (2003) [13], "Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam" của Đỗ Tất Lợi
(2003) [35].


20


CHƢƠNG III
ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN:
3.1.1.Vị trí địa lý:
Kỳ Sơn là một huyện thuộc khu vực miền núi phía Tây Nam Nghệ An, có
toạ độ địa lý từ 19008' đến 190 41' vĩ độ Bắc và từ 103051' đến 104026' kinh độ
Đơng.
Tổng diện tích đất tự nhiên của tồn huyện là 209.433,84 ha chiếm 12,69%
tổng diện tích tự nhiên của toàn tỉnh ( Theo nguồn số liệu: Thống kê tháng
01/2008, đã tính điều chỉnh diện tích tự nhiên theo Quyết định số 272/QĐ-TTg
ngày 27/02/2007 của Thủ tướng Chính phủ).
Huyện Kỳ Sơn có 20 xã và 01 thị trấn, phân bố trên diện tích rộng, trung tâm
huyện cách thành phố Vinh khoảng 250 Km, xã xa nhất cách trung tâm huyện 70
Km. Huyện có 10 xã tiếp giáp với nước Cộng Hoà Dân Chủ Nhân Dân Lào với
tổng chiều dài đường biển là 192 Km.
Xã Mường Lống nằm trong toạ độ địa lí từ 19027' đến 19036' vị độ Bắc và
104019' đến 104028' kinh độ Đông. Cách thị trấn Mường Xén khoảng 40 Km cách
TP.Vinh khoảng 290 Km. Các xã tiếp giáp với xã Mường Lống là Huội Tụ, Bảo
Nam, Bảo Thắng, Mỹ Lý thuộc huyện Kỳ Sơn và các xã Luận Mai, Mai Sơn thuộc
huyện Tương Dương.
Với vị trí như trên chúng ta có thể nhận thấy địa bàn của xã Mường Lống và
các xã lân cận đều thuộc vào khu vực vùng sâu vùng xã cịn nhiều khó khăn của
huyện Kỳ Sơn.
3.1.2 Địa hình:
Kỳ Sơn là huyện có địa hình hiểm trở, có nhiều núi cao bao bọc tạo nên
những thung lũng nhỏ và hẹp. Huyện nằm trong địa bàn của đới kiếm tạo : Đới
phức nếp lồi Trường Sơn và phức nếp lồi sơng Cả, nên địa hình có nhiều lớp lượn


21


sóng, với độ dộc trung bình 350, độ cao trung bình là 700m, có đình núi
Fuxailaileng cao 2.722,9 m là ngọn núi cao nhất của dãy Trường Sơn.
Địa hình của huyện có thể phân thành các dạng sau:
- Dạng địa hình thuong lũng bằng: diện tích ít chỉ chiểm khồng 0,02%
diệntích tự nhiên của huyện. Phân bố rải rác ở một số nơi bãi bồi dọc theo các con
sông và các khe suối.
- Dạng địa hình đồi: Chiếm khoảng 4,58% diện tích tự nhiên của tồn huyện.
Phân bố chủ yếu vùng dọc theo tuyến QL7 và nằm ở triền núi. Phần lớn ở dạng đồi
lượn sóng, có độ cao 300 - 700 m.
- Dạng địa hình núi: chiếm khoảng 95,4% diện tích tự nhiên của tồn huyện.
Trong đó khoảng 31,8% núi thấp từ 800 - 1.000m, 68,2% núi cao trên 1.000m.
Nhìn chung địa hình của huyện Kỳ Sơn chủ yếu là núi cao, độ dốc tương đối
lớn, rất phức tạp, gây khó khăn cho sản xuất nơng- lâm nghiệp, xây dựng cơ sở hạ
tầng phục vị sinh hoạt, sản xuất và phát triển kinh tê- xã hội.
3.1.3. Đất đai:
Huyện Kỳ Sơn có tổng diện tích đất tự nhiên là 209.433,84 ha, chiếm
12,69% diện tích đất tự nhiên của tồn tỉnh. Trong đó diện tích đất thổ nhưỡng là
202.199ha chiếm 96,54%, khơng kể diện tích núi đá, sơng suối. Bao gồm các nhóm
đất sau:
- Nhóm đất phù sa:
Diện tích 37ha, chiếm 0,02% tổng diện tích đất tự nhiên của huyện, loại này
được hình thành do sự bồi đắp phù sa của sông Nậm Nơn, sông Nậm Mộ và một số
nhánh khe suối của hai con sông này, phân bố chủ yếu ở các xã Tạ Cạn, Hữu
Kiệm, Hữu Lập, Chiêu Lưu, Na Loi và các thung lũng dọc theo các khe suối. Khác
với phù sa các huyện đồng bằng, vùng này do mưa lớn, nước rút nhanh chỉ kịp lắng
đọng những hạt lớn, thành phần cơ giới thường là thịt nhẹ hoặc cát pha. Loại đất


22


này dùng trồng cây nông nghiệp hàng năm, chủ yếu là lúa nước và một số hoa màu
khác.
- Nhóm đất vùng đồi (170-200m):
+ Đất Feralít vàng đỏ phát triển trên đá phiến sét: Diện tích khoảng 1.180 ha
chiếm 0,56% tổng diện tích tự nhiên của tồn huyện, phân bố chủ yếu ở các xã Phà
Đánh, Chiêu Lưu và Nà Ngoi. Đất có màu vàng hoặc vàng đỏ, thành phần cơ giới
là thịt nhẹ đến thịt nặng, sức giữ nước và khả năng giữ nước tương đối tốt. Đây là
loại đất tương đối tốt về mặt lý tính cũng như hố tính, có nhiều khả năng để trơng
cây lâu năm.
+ Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá cát kết: Diện tích khoảng 4.485ha
chiếm 2,14% tồng diện tích tự nhiên của toàn huyện, tập trung chủ yếu ở các xã
Chiêu Lưu, Hữu Kiệm, Mường Xén, Nậm Cắn, Mỹ Lý, Keng Du.
+ Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá vôi: Diện tích khoảng 3.400ha chiếm
1,62% tổng diệntích tự nhiên tồn huyện. Phân bố chủ yếu ở các xã Bắc Lý, Mỹ
Lý, Na Ngoi và Nậm Càn. Đây là đất tốt, thuận lợi cho sản xuất nơng nghiệp. Có
thể trồng cây cơng nghiệp, cây ăn quả, cũng có thể trồng cây hoa màu, cây lương
thực.
- Nhóm đất vùng núi thấp(200-1.000m)
+ Đất Feralit vàng đỏ phát triển trên đá phiến sét: Diện tích khoảng 18.387
ha chiếm 7,78% tổng diện tích của tồn huyện. Phân bố chủ yếu ở các xã Bảo
Thắng, Chiêu Lưu, Na Loi, Bảo Nam, Phà Đánh, Nậm Cắn, Tà Cạn, Mường Típ,
mỹ Lý, Nà Ngoi và Mường Lống. Thành phần cơ giới chủ yếu là đất thịt nặng màu
phớt tím, độ dốc từ 20-300, đất chua, độ ẩm khá cao. Thực vật phần lớn là rừng thứ
cấp xen lẫn nương rẫy.
+ Đất Feralit màu vàng xám phát triển trên đá cát kết: Diện tích khoảng
37.868 ha chiếm 18,08% tổng diện tích tự nhiên của tồn huyện. Phần lớn tập

trung hai bên triền sông Nậm Nơn và Nậm mộ. Thường là núi thấp, đá mẹ chủ yếu

23


là sa thạch hạt mịn. Thực vật chủ yếu là rừng gỗ tạp, giang, nứa. Loại đất này ở
vùng dốc cao chỉ dùng cho sản xuất lâm nghiệp, vùng đất ít dốc có thể khai thác để
trồng cây cơng nghiệp dài ngày hoặc cây ăn quả.
+ Đất Feralit đỏ vàng phát triển trên đá Macma axit: Diện tích khoảng
5.110ha chiếm 2,44% tổng diện tích tự nhiên của tồn huyện, chủ yếu thường là
những dãy núi cao, nhiều khe sâu, đi lại khó khăn. Phân bố chủ yếu ở các xã Nậm
Căn, Nà Ngoi, Tây Sơn, Bắc Lý, Bảo Nam. Đất này chỉ dành cho khai thác phát
triển lâm nghiệp.
- Đất Feralit mùn vàng trên núi (1.000 - 1.700m): Diện tích khoảng 124.252
ha chiếm 59,32% tổng diện tích tự nhiên của toàn huyện. Phân bố chủ yếu ở
Mường Lống, Bảo Thắng, Boả Nam, Huội Tụ, Mỹ Lý, bắc Lý, Keng Đu, Na Loi,
Nậm Cắn, Phà Đánh, Mường Típ, Mường Ải, Tà Cạ, Tây Sơn, Hữu Kiệm, Nà
Ngoi và Nậm Càn. Đất có tỷ lệ mùn cao, trên mặt có lớp xác thực vật độ phân giải
kém. Hướng sử dụng loại đất này chủ yếu là khoanh nuôi bảo vệ rừng.
- Đất Feralit mùn trên núi (1.700 - 2.722,9m): Diện tích khoảng 7.480ha
chiếm 3,57% tổng diện tích tự nhiên của tồn huyện. Phân bố ở Tây Sơn, Mường
Ải, Nà Ngoi và Nậm Càn. Loại đất này quanh năm có sương mù bao phủ, rừng ẩm
ướt nên trữ lượng bốc hơi nước thấp, lượng mùn khá cao. Loại đất này chủ yếu
dành để phát triển lâm nghiệp, bảo vệ môi trường sinh thái, ít có khả năng cho sản
xuất nơng nghiệp.
3.1.4. Khí hậu, thuỷ văn:
3.1.4.1. Khí hậu:
Khí hậu của huyện ảnh hưởng khí hậu Tây Nam Nghệ An, mang đặc trưng
khí hậu nhiệt đới gió mùa, song lại có một số vùng mang đặc thù riêng như xã
Mường Lống khí hậu lại mang tính chất á ơn đới, thường xun có mây mù bao

phủ. Khí hậu huyện Kỳ Sơn một năm chia làm 2 mùa rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 4
đến tháng 10, mùa khô từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau.

24


- Chế độ nhiệt:
+ Nhiệt độ khơng khí tương đối cao, trung bình năm là 23,60C, nhiệt độ
khơng khí đo ngày cao nhất trong năm là 35,80C đo ngày 23/04/2007, nhiệt độ
khơng khí đo ngày thấp nhất trong năm là 11,50C đo ngày 04/02/2007.
+ Nhiệt độ nước trung bình năm là 22,40C, nhiệt đọ nước đo ngày cao nhất
trong năm là 30,80C đo ngày 23/06/2007, nhiệt độ nước ngày thấp nhất là 13,90C
đo ngày 04/02/2007.
- Chế độ mưa: Hàng năm bình quân lượng mưa thấp, trong 5 năm trở lại đây
cho thấy lượng mưa trung bình năm của huyện là 1147,04mm đông thời phân bố
không đều theo không gian và thời gian. lượng mưa lớn thương tập trung vào tháng
8 và tháng 9 hàng năm chiếm 75-80% lượng mưa cả năm. Các khu vực điển hình
như ở thị trấn Mương Xén lượng mưa thấp, khu vực xã Mường Lống lượng mưa
cao.
- Chế độ gió: Ở huyện Kỳ Sơn hàng năm hầu như khơng có bão, thỉnh
thoảng có những đợt gió lốc ở các thung lũng nhỏ phạm vi hẹp. Chịu ảnh hưởng
một phần của gió Tây Nam(gió Lào) thổi từ tháng 4 đến tháng 10 làm cho nhiệt độ
tăng đột ngột và kéo dài nhiều ngày, mạnh nhất là vào tháng 7; gió mùa Đơng Bắc
thổi mạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, gây khô hạn.
- Lượng nước bốc hơi: So với lượng mưa thì hàng năm lượng nước bốc hơi
lại rất lớn, nhất là vào tháng 4,5,6 và 7. Tổng lượng nước bốc hơi trung bình hằng
năm là 1.000 - 1.100 mm.
- Độ ẩm khơng khí: Bình quân là 83%, chênh lệch giữa các tháng trong năm
là khơng đáng kể. Hàng năm vẫn có hiện tượng sương muối thường xẩy ra, chủ yếu
là các tháng 12, 1 và 2.

- Nắng: Số giờ nắng trung bình trong năm là 1.573,3 giờ. Các tháng nắng
nhiều là 5,6 và 7, bình quân lên tới 7 đến 8 giờ/ ngày. Tháng ít nắng nhất là tháng 2
bình quân khoảng 2 giờ/ ngày và thướng có mưa phùn.

25


×