Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Quá trình hợp tác an ninh quân sự nhật bản hoa kỳ từ 1991 đến 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 140 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học vinh

Nguyễn thiện tuấn

quá trình hợp tác an ninh quân sự
nhật bản - hoa kỳ từ 1991 đến 2008

Luận văn thạc sĩ khoa häc lÞch sư

Vinh - 2009


Bộ giáo dục và đào tạo
Tr-ờng đại học vinh

Nguyễn thiện tuấn

quá trình hợp tác an ninh quân sự
nhật bản - hoa kỳ từ 1991 đến 2008

Chuyên ngành: lịch sử thế giới
MÃ số: 60.22.50

Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:

ts. phạm ngọc tân

Vinh - 2009




Lời cảm ơn

Để hoàn thành luận văn này, tôi đà nhận đ-ợc sự giúp đỡ của TS. Phạm
Ngọc Tân, tập thể các thầy, cô giáo trong khoa Lịch sử, Khoa Sau Đại học
Tr-ờng Đại học Vinh, các GS Lịch sử tr-ờng Đại học Khoa học XÃ hội và
Nhân văn, Th- viện Tr-ờng Đại học Vinh, các bạn học viên và gia đình.
Nhân dịp này, tôi xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả mọi
ng-ời đà giúp đỡ tôi trong thời gian qua, đặc biệt là
TS. Phạm Ngọc Tân ng-ời đà trực tiếp h-ớng dẫn tôi hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Xin gửi lời tri ân tới tất cả quý thầy, cô và các bạn cùng ng-ời
thân. Chúc mọi ng-ời luôn mạnh khoẻ, hạnh phúc và thành đạt.
Vinh, tháng 12 năm 2009
Học viên
Nguyễn Thiện Tuấn


MỤC LỤC
Trang
A. MỞ ĐẦU ...................................................................................................... 1

1.

Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1

2.

Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................... 3


3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................... 6

4.

Giới hạn của đề tài ............................................................................... 7

5.

Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu ......................................... 8

6.

Đóng góp của luận văn......................................................................... 9

7.

Bố cục của luận văn ............................................................................. 9

B. NỘI DUNG ................................................................................................. 10

Chương 1. Những nhân tố tác động đến quá trình hợp tác an ninh
quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh ................................... 10
1.1.

Nhân tố Lịch sử .................................................................................. 10

1.2.


Nhân tố quốc gia ................................................................................ 15

1.3.

Nhân tố quốc tế và khu vực................................................................ 29

* Tiểu kết chương 1........................................................................................ 35
Chương 2. Hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau
Chiến tranh lạnh đến 2008 .......................................................................... 37
2.1.

Mục đích của hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ .............. 37

2.1.1. Đối với Nhật Bản ............................................................................... 37
2.1.2. Đối với Hoa Kỳ .................................................................................. 39
2.2.

Các giai đoạn của quá trình hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến 2008 ......................................... 44

2.2.1. Giai đoạn 1991 - 2001 ........................................................................ 44
2.2.2. Giai đoạn 2001 - 2008 ........................................................................ 54


2.3.

Các lĩnh vực hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ ................ 58

2.3.1. Hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố ................................................... 58
2.3.2. Hợp tác giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên ............. 64
2.3.3. Lĩnh vực chuyển giao kỹ thuật quốc phòng ....................................... 68

2.3.4. Vấn đề chia xẻ tài chính trong hợp tác an ninh quân sự Nhật
Bản - Hoa Kỳ ..................................................................................... 77
2.3.5. Một số lĩnh vực hợp tác an ninh quân sự khác .................................. 84
* Tiểu kết chương 2........................................................................................ 89
Chương 3. Một số nhận xét về quá trình hợp tác an ninh quân sự
Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay .............................. 91
3.1.

Quan điểm của một số nước trong khu vực về vấn đề hợp tác an
ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh ..................... 91

3.2.

Vai trò của hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ đối với
hai nước .............................................................................................. 96

3.3.

Tác động của hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ đối
với khu vực châu Á - Thái Bình Dương .......................................... 100

3.4.

Tương lai của hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ ............ 107

* Tiểu kết chương 3...................................................................................... 110
C. KẾT LUẬN .............................................................................................. 113
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................ 118
E. PHỤ LỤC



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ABM

Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo

AFTA

Khu vực mậu dịch tự do Đông Nam Á

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

CHDCND Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHND

Cộng hòa nhân dân

EU

Liên minh châu Âu

FTAA

Khu vực mậu dịch tự do toàn châu Mỹ

IAEA


Cơ quan năng lượng quốc tế

LDP

Đảng dân chủ tự do Nhật Bản

NAFTA

Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ

NATO

Tổ chức hiệp ước quân sự Bắc đại Tây dương

NMD

Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc gia

NPT

Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân

SARC

Khu vực hợp tác kinh tế Nam Á

SCAP

Bộ tổng tư lệnh các lực lượng đồng minh


SDF

Lực lượng phòng vệ Nhật Bản

SEV

Hội đồng tương trợ kinh tế

TMD

Hệ thống phòng thủ tên lửa chiến trường


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1 Từ những năm cuối thập kỷ 80 đến những năm đầu thập kỷ 90 của
thế kỷ XX, tình hình thế giới đã có những biến động to lớn tác động mạnh mẽ
đến chính sách đối nội cũng như đối ngoại của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Đó chính là sự sụp đổ của bức tường Béclin - biểu tượng của Chiến tranh
lạnh kéo dài suốt mấy thập kỷ giữa hai hệ thống xã hội chủ nghĩa và tư bản
chủ nghĩa do Liên Xơ và Hoa Kỳ đứng đầu. Có thể nói Chiến tranh lạnh kết
thúc đã tạo ra một diện mạo mới cho các mối quan hệ quốc tế, ở đó tồn tại xu
hướng mang tính đa dạng, phụ thuộc lẫn nhau, bổ sung cho nhau và thậm chí
là đối lập nhau và loại trừ nhau. Đặc biệt xu hướng đó được thể hiện rõ nét
trong quan hệ song phương và đa phương, trong các quan hệ kinh tế, chính trị
và an ninh. Tuy nhiên cơ sở của các xu hướng này khơng phải là tình hình
căng thẳng nảy sinh từ sự đối đầu của hai hệ thống như thời kỳ trước những
năm 90; Nói cách khác chính sự sụp đổ của Trật tự thế giới “hai cực” đối lập
sang một Trật tự thế giới mới mang tính chất cạnh tranh và hợp tác đã tạo ra
một môi trường quốc tế mới ẩn chứa nhiều cơ hội và khơng ít những thách

thức cho các nước trên thế giới.
1.2. Có thể nói quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ là một trong những mối
quan hệ quốc tế quan trọng nhất từ sau Chiến tranh lạnh đến nay ở khu vực
châu Á - Thái Bình Dương và trên phạm vi tồn cầu. Đây là mối quan hệ
mang tính chiến lược và ln đóng vai trị quan trọng trong chính sách đối
ngoại của hai quốc gia này. Sự kết thúc của Chiến tranh lạnh đã tạo ra những
biến đổi to lớn trong đời sống chính trị thế giới, nó mang lại điều kiện và hồn
cảnh quốc tế mới. Điều đó đã buộc các quốc gia phải thay đổi, điều chỉnh
chính sách đối nội, đối ngoại cho phù hợp với tình hình mới. Trong bối cảnh
đó, quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ cũng có những thay đổi nhất định. Những vấn

1


đề cũ vẫn còn tồn tại, đồng thời lại nảy sinh những vấn đề mới. Tuy nhiên, cả
hai bên đều cố gắng hạn chế những bất đồng và từng bước có những điều
chỉnh để thúc đẩy mối quan hệ song phương trong tình hình mới.
1.3. Trong mối quan hệ hợp tác Nhật Bản - Hoa Kỳ, thì hợp tác trong
lĩnh vực an ninh qn sự ln có một vị trí quan trọng, là nòng cốt của mối
quan hệ song phương giữa hai nước. Nó có ảnh hưởng to lớn đến hồ bình, an
ninh và phát triển ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và quốc tế. Do đó,
hiểu được quá trình hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản Hoa Kỳ và những thay
đổi trong sự hợp tác này từ sau Chiến tranh lạnh đến nay là một việc làm hết
sức cần thiết. Trên cơ sở đó chúng ta có thể thấy rõ hơn q trình hình thành
Trật tự thế giới mới và cơ cấu an ninh ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Có thể thấy rằng cùng với sự kết thúc của Chiến tranh lạnh, tầm quan
trọng của nhân tố an ninh quân sự có phần giảm đi trong khi vai trò của nhân
tố kinh tế ngày càng tăng. Vì thế hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ
cần có những điều chỉnh để phù hợp với tình hình mới. Trên thực tế sự hợp
tác này đã kém “mặn mà” trong giai đoạn đầu những năm 90 khi mâu thuẫn

thương mại giữa hai nước ln chiếm vị trí nổi bật trên báo chí và trong
chương trình nghị sự giữa hai nước. Ngồi ra, trong cuộc chiến tranh vùng
Vịnh, do những ràng buộc của Hiến pháp, Nhật Bản không thể gửi quân đến
vùng Vịnh mà chỉ đóng góp chủ yếu về tài chính cho hoạt động của liên quân
do Hoa Kỳ đứng đầu. Điều này cho thấy một số hạn chế trong việc hợp tác an
ninh quân sự giữa hai nước. Tuy vậy, từ năm 1993, tình hình khu vực có
những diễn biến phức tạp, đó là vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và sự
lớn mạnh của Trung Quốc về kinh tế và chính trị đã tác động đến chính sách
đối ngoại của Nhật Bản và Hoa Kỳ. Do đó, Hoa Kỳ cần tiếp tục củng cố quan
hệ với Nhật Bản, nhất là trong lĩnh vực an ninh quân sự để kiềm chế Trung
Quốc và đề phòng những bất ổn có thể xẩy ra trong khu vực. Vì thế, mối quan

2


hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ trên lĩnh vực hợp tác an ninh quân sự ngày càng xích
lại gần nhau hơn.
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, trong quá trình thực hiện chính sách đổi mới đất nước, khơng ngừng
tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trên thế giới trên cơ sở bình
đẳng và hai bên cùng có lợi. Trong bối cảnh quốc tế hố, tồn cầu hố đang
trở thành xu thế không thể đảo ngược của lịch sử nhân loại, điều đó buộc các
quốc gia phải mở cửa hợp tác với các nước trên thế giới, từ đó làm cho các
nước xích lại gần nhau hơn. Việt Nam cũng khơng nằm ngồi xu thế chung
đó, chúng ta đã và đang từng bước gạt bỏ những bất đồng, những vấn đề mà
lịch sử để lại để thúc đẩy quan hệ với các nước, từng bước nâng cao vị thế
của Việt Nam trên trường quốc tế. Quan hệ giữa Việt Nam với các nước trên
thế giới nói chung và Việt Nam với Hoa Kỳ, Nhật Bản nói riêng thời gian
qua phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu to lớn. Vì vậy, chúng ta cần
phải hiểu hơn về các nước và mối quan hệ giữa các nước với nhau, nhất là

mối quan hệ giữa các nước lớn như quan hệ Nhật Bản - Hoa Kỳ. Qua đó có
thể hiểu hơn về các nước và chính sách đối ngoại của các nước đó, từ đó
giúp chúng ta có thể vạch ra được những chính sách đối ngoại phù hợp nhất
với các nước.
Chính vì những lý do đó mà chúng tơi đã chọn vấn đề: “Q trình hợp
tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991 đến 2008” làm đề tài cho
luận văn thạc sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
2.1. Hợp tác Nhật Bản - Hoa Kỳ nói chung và trong lĩnh vực an ninh
quân sự nói riêng đã thu hút sự quan tâm của nhiều học giả trên thế giới và
Việt Nam. Việt Nam đang trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, với
phương châm “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trên thế giới”, muốn

3


vậy chúng ta cần phải hiểu được các nước và mối quan hệ giữa các nước trên
thế giới. Vì vậy, tìm hiểu về mối quan hệ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ là một
việc làm hết sức cần thiết đối với chúng ta. Qua một số nguồn tài liệu chúng
tôi tiếp cận được viết về vấn đề này tương đối đa dạng như sách chuyên khảo,
sách tham khảo, các luận án, các bài viết đăng trên các báo và tạp chí như
Nghiên cứu Nhật Bản và Đơng Bắc Á, Nghiên cứu Quốc tế, Tạp chí châu Mỹ
ngày nay, Thơng tấn xã Việt Nam, các tài liệu lưu hành nội bộ, các trang
wedsite điện tử v.v...
2.2. Dưới đây là một số tài liệu nghiên cứu có liên quan về hợp tác an
ninh quân sự giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh.
PGS.TS. Ngơ Xn Bình với tác phẩm “Quan hệ Mỹ - Nhật sau Chiến
tranh lạnh” xuất bản năm 1995. Có thể nói đây là cơng trình đầu tiên ở Việt
Nam nghiên cứu một cách có hệ thống về mối quan hệ Hoa Kỳ - Nhật Bản sau
Chiến tranh lạnh. Tác phẩm đã đi vào phân tích các yếu tố tác động đến mối

quan hệ này, các lĩnh vực quan hệ chủ yếu là an ninh quân sự và quan hệ kinh
tế. Ngồi ra tác phẩm cịn đề cập đến một số tác động của mối quan hệ này đối
với khu vực và Việt Nam.
Tác giả Ngơ Xn Bình (chủ biên) và một số tác giả khác đã viết cuốn
“Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ sau Chiến tranh lạnh” xuất bản
năm 2000, đã nêu lên những cơ sở của sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của
Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh, những đặc điểm chủ yếu của chính sách đối
ngoại và đi vào nghiên cứu những chính sách đối ngoại của Nhật Bản với một
số nước lớn trong đó có Hoa Kỳ.
Cuốn “Nhật Bản năm đầu thế kỷ XXI” xuất bản năm 2002, của tác giả
Ngơ Xn Bình và Hồ Viết Hạnh (cb), đã phác hoạ lên tình hình Nhật Bản
năm đầu của thế kỷ 21: Những vấn đề trong nước cũng như các mỗi quan hệ
quốc tế của Nhật Bản.

4


Cuốn “Nhật Bản năm 2002: Cuộc cải cách vẫn còn tiếp tục” xuất bản
2003 do Nguyễn Duy Dũng và Nguyễn Thành Hiền (cb), đã trình bày những
tác động của sự kiện 11/9 ở Hoa Kỳ đối với Nhật Bản và những cải cách trên
tất cả các mặt của xã hội Nhật Bản, trong đó có một số thay đổi trong quan hệ
với Hoa Kỳ.
TS. Phạm Thành Dung với cuốn “Quan hệ giữa ba trung tâm tư bản
(Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản) sau Chiến tranh lạnh” xuất bản 2004, đã giúp
chúng ta hình dung được mối quan hệ giữa ba trung tâm tư bản lớn của thế
giới và vai trị của nó đối với thế giới ngày nay. Ngồi ra tác phẩm còn nêu lên
mối quan hệ giữa Việt nam với ba trung tâm này.
Cuốn “Lịch sử Nhật Bản” của PGS. Nguyễn Quốc Hùng (cb) xuất bản
2007, là cuốn sách viết về đất nước Nhật Bản khá công phu. Nó phác hoạ tồn
bộ lịch sử nước Nhật từ thời nguyên thuỷ đến thời hiện đại, qua đây độc giả sẽ

có một cái nhìn tổng thể về lịch sử của nước này. Tác phẩm còn đề cập đến
mối quan hệ giữa Việt Nam và Nhật Bản từ quá khứ đến hiện tại.
Cuốn “Nhật Bản - Những biến đổi chủ yếu về chính trị trong những năm
90 và triển vọng” của tác giả Nguyễn Thành Hiền, xuất bản 2003. Tác phẩm đã
nêu lên những thay đổi chính trị trong chính trường Nhật Bản từ sau Chiến
tranh lạnh và đưa ra những triển vọng của chính trị Nhật Bản ở thế kỷ 21.
Ngồi những cuốn sách trên, vấn đề này cịn được nhiều tác giả viết bài
đăng trên các báo như: Ngô Xuân Bình với bài viết “Thấy gì trong quan hệ
Mỹ - Nhật Bản trong những năm đầu thập kỷ 90” đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản, số 3-1995. Hay tác giả Nguyễn Phương Bình với bài viết “Một
số suy nghĩ về đối thoại an ninh Mỹ - Nhật Bản” được đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Quốc tế, số 1-1998.
Hồ Châu với bài “Nhật Bản điều chỉnh chiến lược an ninh và phịng vệ
thế kỷ 21” đăng trên tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, số 5-2003.

5


Bài viết “Triển vọng quan hệ Mỹ - Nhật Bản và tác động đến khu vực Đông
Nam Á” của tác giả Nguyễn Thái Yên Hương đăng trên tạp chí Nghiên cứu
Quốc tế, số 3-2006. Nguyễn Văn Lan với bài “Quan hệ an ninh - chính trị,
kinh tế Mỹ - Nhật từ sau Chiến tranh lạnh đến nay”, đăng trên tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản, số 3-2000.
“Hiệp ước an ninh Mỹ - Nhật: Liên minh cho thế kỷ 21” là bài của tác
giả Lê Linh Lan đăng trên tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 12-1998.
Trên tạp chí châu Mỹ ngày nay, tác giả Nguyễn Thiết Sơn có bài
“Chính sách và vai trò của Mỹ ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương” và bài “
Một số vấn đề về quan hệ thương mại Mỹ - Nhật”. Cũng trên tạp chí này tác
giả Lê Thị Thu viết bài “Vài nét về quan hệ Mỹ - Nhật qua một số vấn đề
trong thời gian gần đây” v.v...

Kế thừa những kết quả của các nhà nghiên cứu nêu trên, luận văn
chúng tôi hy vọng sẽ giải quyết một cách thoả đáng, có hệ thống vấn đề hợp
tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991 đến 2008.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa vào nguồn tư liệu nằm rải rác ở một số đầu sách và các bài viết
trên các tờ báo, tạp chí nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tác giả luận văn đã
cố gắng tập hợp, khái quát, đánh giá một cách có hệ thống vấn đề “Q trình
hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991 đến 2008”. Nhằm mục
đích trả lời cho câu hỏi, hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991
đến 2008 diễn ra như thế nào trong điều kiện tình hình khu vực và quốc tế có
nhiều biến động.
Từ đó giúp chúng ta thấy được một cái nhìn tồn cảnh về hợp tác an
ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991 đến 2008 và những ảnh hưởng của
nó đối với khu vực, cũng như đưa ra những dự đoán về sự hợp tác này trong
thời gian tới.
6


3.2. Nhiệm vụ
Để làm rõ được quá trình hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ
từ 1991 đến 2008, tác giả luận văn cố gắng giải quyết một số nhiệm vụ trọng
tâm như sau:
Thứ nhất, Những nhân tố tác động đến quá trình hợp tác an ninh quân
sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh lạnh.
Thứ hai, Hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến
tranh lạnh đến 2008
Thứ ba, Rút ra một số nhận xét về quá trình hợp tác an ninh quân sự
Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh lạnh và những tác động của nó đối với
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cũng như vai trị của q trình hợp tác

này đối với hai nước.
4. Giới hạn của đề tài
Đề tài “Quá trình hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ 1991
đến 2008” được chúng tôi giới hạn bởi những mặt sau:
- Về mặt thời gian: Thời gian nghiên cứu của đề tài được giới hạn bởi
mốc mở đầu là năm 1991 và mốc kết thúc là năm 2008. Sỡ dĩ tơi chọn các
mốc thời gian trên vì: Năm 1991 là năm kết thúc Chiến tranh lạnh và năm
2008 là năm Tổng thống W. Bush kết thúc nhiệm kỳ. Tuy vậy, vì là một đề
tài nghiên cứu dưới góc độ sử học, vì thế luận văn khơng thể khơng đề cập
đến một số nội dung liên quan đến thời kỳ trước năm 1991, nhằm cho chúng
ta có cơ sở để làm sáng rõ vấn đề hợp tác an ninh quân sự giữa Nhật Bản và
Hoa Kỳ.
- Về mặt không gian: Không gian nghiên cứu chủ yếu của đề tài là Nhật
Bản, Hoa Kỳ, khu vực Đông Bắc Á và châu Á - Thái Bình Dương.
- Về mặt nội dung: Quan hệ giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ là mối quan hệ
mang tính chiến lược của cả hai nước. Nó được thể hiện ở rất nhiều lĩnh vực,

7


tuy nhiên trong khuôn khổ của luận văn này tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
về hợp tác trong lĩnh vực an ninh quân sự từ 1991 đến 2008.
5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tài liệu
Luận văn được thực hiện dựa trên các nguồn tài liệu sau đây:
- Nhóm tài liệu gốc: Bao gồm các tuyên bố chung về hợp tác an ninh
Nhật Bản - Hoa Kỳ, phương hướng hợp tác an ninh quân sự giữa hai nước,
các thông cáo chung và các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo hai bên.
- Nhóm tài liệu chuyên khảo về quan hệ quốc tế.
- Nhóm tài liệu gồm các cơng trình nghiên cứu, các sách, báo, tạp chí

Nghiên cứu Nhật Bản và Đơng Bắc Á, tạp chí quan hệ Quốc tế, tạp chí
Nghiên cứu châu Mỹ, các ấn phẩm nghiên cứu chuyên sâu v.v...
- Nhóm tài liệu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp
đại học liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những vấn đề mà đề tài đã đặt ra, chúng tôi dựa vào chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, những quan điểm của
Đảng và Nhà nước về những chính sách trong quan hệ với các nước để làm cở
sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu. Luận văn cố gắng trình bày các sự
kiện trung thực, xem xét sự vận động của chúng trong mối quan hệ chặt chẽ
với nhau, từ đó rút ra những nhận xét và đánh giá.
Đây là một đề tài lịch sử nên phương pháp lịch sử và phương pháp lơ
gích được đặc biệt coi trọng. Luận văn dựa trên cơ sở những tài liệu lịch sử có
thật để phân tích, đánh giá, hệ thống hố, khái qt hố vấn đề.
Ngồi ra chúng tơi cịn sử dụng nhiều phương pháp khác như: Phương
pháp so sánh đối chiếu, phương pháp thống kê... nhằm hỗ trợ cho hai phương
pháp chủ yếu trên.

8


6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là một cơng trình nghiên cứu mang tính chun đề về một
lĩnh vực cụ thể. Trên cơ sở những tài liệu tiếp cận đựơc, luận văn hy vọng sẽ
phác hoạ lên được một bức tranh toàn cảnh về sự hợp tác an ninh quân sự giữa
Nhật Bản và Hoa Kỳ từ 1991 đến 2008.
- Thông qua các văn kiện đã được ký kết và những hoạt động trong lĩnh
vực an ninh quân sự giữa hai nước, luận văn lý giải những nhân tố tác động
đến quá trình hợp tác này, cũng như thấy được bức tranh khái quát nhất về quá
trình của sự hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ. Từ đó rút ra một số

nhận xét về quá trình hợp tác này.
- Là một đề tài nghiên cứu lịch sử theo hướng chuyên đề nên luận văn
có thể phục vụ cho việc giảng dạy và biên soạn bài giảng. Ngồi ra nó sẽ là
một nguồn tư liệu giúp cho những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
luận văn được trình bày thành ba chương:
Chương 1.

Những nhân tố tác động đến quá trình hợp tác an ninh
quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh.

Chương 2.

Hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến
tranh lạnh đến 2008.

Chương 3.

Một số nhận xét về quá trình hợp tác an ninh quân sự
Nhật Bản - Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay.

9


B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH HỢP TÁC
AN NINH QUÂN SỰ NHẬT BẢN - HOA KỲ SAU CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Nhân tố lịch sử

Ngày 15/8/1945, Thiên Hồng tun bố đầu hàng vơ điều kiện qn
Đồng minh, Chiến tranh Thái Bình Dương kết thúc. Theo Tuyên ngôn Posdam
tháng 7 năm 1945 của 4 nước Hoa Kỳ, Anh, Trung Quốc (Liên Xơ sau đó cũng
ký tên vào tuyên ngôn này), từ cuối tháng 8/1945, quân Đồng minh, trên thực tế
chỉ là các lực lượng quân đội Hoa Kỳ, đã tiến sang chiếm đóng Nhật Bản. Lần
đầu tiên trong lịch sử, Nhật Bản bị quân đội nước ngoài chiếm đóng. Người giữ
trách nhiệm “Chỉ huy tối cao Bộ tổng tư lệnh các lực lượng đồng minh”
(General Headquaters of Supreme Commander for the Allied Powers - gọi tắt là
SCAP) là tướng Douglas Mac Arthur, là một người có tầm nhìn chiến lược,
lịng khoan dung và từng có kinh nghiệm chỉ huy quân đội Hoa Kỳ trên chiến
trường Philippines cũng như ở khu vực Thái Bình Dương.
Chính phủ Nhật Bản trên thực tế vẫn được công nhận và lãnh đạo đất
nước mình. Cịn qn đội Đồng minh chiếm đóng tuy chỉ điều khiển bộ máy
hoạt động một cách gián tiếp, nhưng lại thảo ra những chính sách cơ bản, có
ảnh hưởng lớn đến chiều hướng phát triển của Nhật Bản sau chiến tranh.
Ngày 9/10/1945, qn đội chiếm đóng cơng bố thực hiện chính sách
“phi qn sự hố nền kinh tế”, “khuyến khích các lực lượng dân chủ”, “thủ
tiêu sự tập trung” sản xuất và chiếm hữu tài sản v.v...Quân đội Nhật Bản được
giải giáp, hai triệu người được phục viên và gửi về quê quán. Ngoài ra sáu
triệu quân nhân và dân sự từ các nước Đông Nam Á cũng được đưa về nước.
Toà án quân sự quốc tế ở vùng Viễn Đông được thành lập để xét xử những tội

10


phạm chiến tranh. Bên cạnh đó, SCAP cịn thực hiện những cải cách lớn trong
lĩnh vực kinh tế.
Cùng với những cải cách về kinh tế, Ngày 3/11/1946, Hiến pháp mới
được công bố thay thế Hiếp pháp Mâyji (1889). Hiến pháp này do SCAP soạn
thảo và sau đó được Quốc hội Nhật Bản thông qua. Một điểm quan trọng

trong Hiến pháp mới này là Nhật Bản vĩnh viễn không được gây chiến, nước
Nhật Bản khơng có qn đội thường trực mà chỉ có lực lượng phịng vệ. Điều
đó được ghi trong Điều IX của Hiếp pháp: “Nhật Bản khơng duy trì hải lục,
không quân và các lực lượng chiến đấu khác, không công nhận quyền tham
gia chiến tranh với bất cứ nước nào” [33,172]. Chính vì thế mà Hiến pháp mới
cịn có tên gọi là “Hiến pháp hồ bình”.
Cùng với sự kết thúc của Chiến tranh thế giới thứ hai, thắng lợi của các
cuộc cách mạng dân chủ nhân dân ở các nước Đông Âu đã dẫn tới sự ra đời
một loạt nước xã hội chủ nghĩa (XHCN). Chủ nghĩa xã hội (CNXH) từ phạm
vi một nước trở thành hệ thống thế giới do Liên Xô đứng đầu làm đối trọng lại
phe tư bản chủ nghĩa do Hoa Kỳ đứng đầu. Trong bối cảnh đó, cuộc Chiến
tranh lạnh đã ra đời, nhằm mục đích cơ lập bao vây và tiến tới tiêu diệt hệ
thống các nước XHCN.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản phải chấp nhận sự
áp đặt của lực lượng đồng minh, mà thực chất là quân đội Hoa Kỳ về mọi mặt.
Trong những năm đầu sau chiến tranh, Nhật Bản chưa trở thành người bạn
chiến lược của Hoa Kỳ. Phải một thời gian sau, trước những sự kiện xẩy ra
như cách mạng Trung Quốc thắng lợi, cuộc chiến tranh Triều Tiên v.v... Hoa
Kỳ mới quyết định xem xét lại thái độ của mình đối với Nhật Bản, Hoa Kỳ bắt
đầu tập trung xây dựng Nhật Bản thành một đồng minh chiến lược của mình ở
khu vực Đông Bắc Á.
Trước hết là sự kiện cách mạng Trung Quốc thành công năm 1949 và
sự ra đời của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa (CHND Trung Hoa) làm
11


cho Hoa Kỳ thất vọng, nhất là khi Trung Quốc ký hiệp ước thân thiện và hợp
tác với Liên Xô (2-1950) đã làm cán cân lực lượng nghiêng về phía Liên Xô
và các nước thuộc phe XHCN. Trước sự lớn mạnh và tăng cường ảnh hưởng
của Liên Xô và phe hệ thống XHCN ra tồn châu Á - Thái Bình Dương, Hoa

Kỳ đã phải tìm kiếm một đồng minh mới có thể tin tưởng được và có đủ khả
năng để chống lại nguy cơ đó. Hoa Kỳ đã dần thay đổi thái độ với Nhật Bản,
từ chỗ tìm mọi cách áp đặt các hạn chế để xoá bỏ nguy cơ phục hồi của chủ
nghĩa quân phiệt Nhật. Bây giờ đây Hoa Kỳ lại để Nhật Bản được tái vũ trang
để tự vệ và đồng thời tìm cách giúp Nhật Bản khôi phục kinh tế.
Cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra ngày 25/6/1950 đã làm cho Hoa Kỳ
dứt khoát thay đổi thái độ với Nhật Bản. Trước “nguy cơ” Chủ nghĩa cộng sản
lan rộng ra toàn bán đảo Triều Tiên, Hoa Kỳ buộc phải hành động. Do vậy,
Nhật Bản trở thành một căn cứ quân sự lý tưởng cho Hoa Kỳ. Trong cuộc
chiến tranh này, Nhật Bản đóng vai trị là một căn cứ hậu cần quan trọng cho
các lực lượng Hoa Kỳ tham chiến tại Triều Tiên. Nhật Bản đã lợi dụng cuộc
chiến này để củng cố thêm một bước mối quan hệ mọi mặt với Hoa Kỳ. Bên
cạnh đó, Nhật Bản củng lo ngại Chủ nghĩa cộng sản lan sang Nhật Bản sẽ gây
ra những ảnh hưởng xấu tới tình hình trong nước. Chính điều này đã làm cho
Nhật Bản cảm thấy cần phải xích lại gần Hoa Kỳ hơn.
Trước tình hình đó, Hoa Kỳ đã nhanh chóng soạn thảo một bản hoà ước
Hoa Kỳ - Nhật Bản và nó được ký vào ngày 8/9/1951 (Hồ ước San
Francisco). Hồ ước này có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quan hệ an ninh
quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ, bởi vì nó đặt nền móng vững chắc cho việc Nhật
Bản tiến tới ký một hiệp ước an ninh với Hoa Kỳ. Theo bản hoà ước này, Nhật
Bản tuyên bố khơng duy trì các lực lượng hải, lục, khơng qn. Do vậy Nhật
Bản cần một hiệp ước an ninh với Hoa Kỳ để đảm bảo về mặt an ninh và hiệp
ước an ninh Hoa Kỳ - Nhật Bản đã được ký cùng ngày 8/9/1951. Nội dung cơ

12


bản của hiệp ước là Nhật Bản cho phép Hoa Kỳ được đóng qn ở Nhật Bản.
Mục đích của việc đóng quân này là: bảo vệ Nhật Bản chống lại mọi cuộc tấn
cơng từ bên ngồi. Điều này làm hạn chế tính độc lập chính trị của Nhật Bản

mà hồ ước ký ngày 8/9/1951 đã công nhận.
Bản thân Hiệp ước an ninh Hoa Kỳ - Nhật Bản năm 1951 cũng quy
định nguyên tắc Nhật Bản sẽ tiến dần tới việc đảm nhận sự phịng thủ của
mình chống lại sự xâm lược trực tiếp hay gián tiếp (điều này trái với điều 9
của Hiến pháp 1946 của Nhật Bản). Cho nên, Hoa Kỳ đã cho phép, thậm chí
khuyến khích Nhật Bản phát triển các lực lượng phịng vệ. Do đó, năm 1954
lực lượng phòng vệ Nhật Bản (SDF) đã ra đời. Nhưng vì hiệp ước an ninh
Hoa Kỳ - Nhật Bản mang tính chất bất bình đẳng, nên song song với sự lớn
mạnh về kinh tế của Nhật Bản, cả hai phía đều đặt vấn đề xem xét lại hiệp ước
này. Cuối cùng cả hai bên đã ký được một Hiệp ước an ninh và hợp tác tương
hỗ ngày 19/1/1960 ở Washington thay thế cho hiệp ước 1951.
Theo một số nhà phân tích chính trị, Hiệp ước này mang tính chất
phịng thủ nhiều hơn, ở đó khơng đề cập tới vấn đề liên kết chiến lược quân
sự của hai nước. Và theo chương 5 của Hiệp ước thì Hoa Kỳ cam kết phối
hợp hành động với Nhật Bản trong trường hợp Nhật Bản bị tấn công. Để đổi
lại, chương 6 của Hiệp ước thoả thuận rằng, Nhật Bản đồng ý cho Hoa Kỳ sử
dụng một cách dễ dàng các căn cứ qn sự của mình trên lãnh thổ Nhật Bản.
Có thể nói rằng, Hiệp ước đã khơng đề cập tới cơ chế liên kết quân sự
giữa hai bên và ngay cả vấn đề phối hợp diễn tập quân sự mà Hoa Kỳ thường
thực hiện với quân đội của khối NATO cũng khơng bao hàm trong đó. Điều
này đã được ghi nhận cho tới sau khi cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ ở Việt
Nam chấm dứt hồn tồn (hay nói chính xác hơn là cho tới năm 1978). Mặc
dù như chúng ta biết, chương trình về điều khoản chung của Hiệp ước có ghi
nhận về sự cần thiết phối hợp hành động quân sự của hai nước, song trên thực

13


tế, lực lượng phòng vệ Nhật Bản hoạt động dường như độc lập với quân đội
Hoa Kỳ trong suốt gần hai thập niên đầu tiên của hiệp ước. Điều này được bổ

sung vào năm 1978 khi hai nước cho ra đời “Phương hướng chỉ đạo về quốc
phòng”. Đây là phương hướng hợp tác quân sự do sự phối hợp giữa Bộ Quốc
phòng Hoa Kỳ và Cục Phòng vệ Nhật Bản đề ra. Có thể nói rằng với phương
hướng chỉ đạo này “sự liên kết quân sự giữa hai quốc gia này được nâng lên
một bước cả về quy mô và chất lượng” [69]. Nếu trước đây mức độ liên kết
quân sự của hai nước chưa cao và chưa mang tính chất hệ thống như các nước
trong khối NATO thì từ đây hợp tác trong lĩnh vực quân sự, dựa trên những
điều khoản cơ bản của hiệp ước năm 1960, sẽ được phân định rõ ràng hơn và
hiệu quả hơn.
Đến những năm 80 của thế kỷ XX, với sức mạnh kinh tế hùng hậu,
Nhật Bản muốn tăng cường hơn nữa sức mạnh quân sự và mở rộng ảnh hưởng
của mình trên trường quốc tế. Nhưng do sức mạnh quân sự của Nhật Bản còn
yếu so với Hoa Kỳ nên Nhật Bản vẫn tăng cường hợp tác quân sự với Hoa Kỳ.
Trong hợp tác quân sự song phương, chuyển giao kỹ thuật quân sự là một mặt
hết sức quan trọng được cả hai bên đặc biệt quan tâm. Vào đầu những năm 80,
hai bên đã thảo luận việc chuyển giao kỹ thuật quân sự của Hoa Kỳ cho Nhật
Bản. Đến năm 1985, Hoa Kỳ và Nhật Bản đã ký hiệp định chuyển giao quân
sự đầu tiên, đánh dấu một bước chuyển biến quan trọng trong hợp tác quân sự
song phương. Với việc chuyển giao kỹ thuật quân sự này, quân đội Nhật Bản
và cả các căn cứ quân sự của Hoa Kỳ tại đây được tiêu chuẩn hố, qua đó
nâng cao khả năng chiến đấu của quân đội hai nước. Ngoài ra, Nhật Bản còn
phối hợp với Hoa Kỳ trong việc sản xuất các loại vũ khí, máy bay chiến đấu.
Mối quan hệ này tiếp tục được tăng cường khi Nhật Bản tham gia vào kế
hoạch “Chiến tranh giữa các vì sao” năm 1987. Qua những chương trình hợp
tác song phương này, quan hệ hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ

14


trong những năm 80 đã được nâng lên một bước mới về cả quy mô và chất

lượng. Khi Chiến tranh lạnh kết thúc, quan hệ quốc tế có nhiều sự thay đổi,
điều này cũng làm cho hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ bước sang
một giai đoạn mới.
Như vậy, hợp tác an ninh quân sự Nhật Bản - Hoa Kỳ được hình thành
và phát triển trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Sự hợp tác này phản ánh mục
đích của hai bên, tuy nhiên trong thời kỳ đầu có sự bất bình đẳng trong hợp
tác. Nhưng với sự phát triển kinh tế “thần kỳ” của Nhật Bản, thì sự hợp tác
này ngày càng trở nên bình đẳng hơn. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, hợp
tác an ninh quân sự giữa hai nước cũng có sự điều chỉnh để phù hợp với tình
hình mới.
1.2. Nhân tố Quốc gia
1.2.1. Nhật Bản
1.2.1.1. Vị trí địa - chính trị của Nhật Bản trên thế giới
Nhật Bản nằm ở Đông Bắc Á, bao gồm 4 đảo lớn và hơn 1000 đảo nhỏ
tạo thành quần đảo hình cánh cung ơm lấy bờ biển Đông Bắc Á. Biển Nhật
Bản là nhân tố tự nhiên có ý nghĩa chiến lược về kinh tế, quân sự quan trọng.
Tuy vậy, điều kiện tự nhiên của Nhật Bản rất khó khăn, hay bị động đất và núi
lửa, đất canh tác nơng nghiệp rất ít và khơng nhiều khoáng sản. Tuy nhiên, sau
Chiến tranh thế giới II, từ một đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề, được
sự giúp đỡ của Hoa Kỳ, Nhật Bản đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới
vào những năm 70 của thế kỷ XX. Từ đó tới nay, Nhật Bản vẫn luôn là nền
kinh tế lớn thứ hai của thế giới, trong đó có một số lĩnh vực Nhật Bản đã vượt
qua Hoa Kỳ. Cùng với sức mạnh kinh tế, Nhật Bản đã trở thành một trong ba
trung tâm tư bản thế giới (Hoa Kỳ - Tây Âu - Nhật Bản) và có nhiều đóng góp
cho sự phát triển nền kinh tế của khu vực và toàn cầu.
Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật và công nghệ, Nhật Bản đã vượt
Hoa Kỳ trong nhiều lĩnh vực kỹ thuật mũi nhọn của thế giới như: Vật liệu
15



mới, linh kiện bán dẫn tính năng cao v.v... Các công ty của Nhật Bản được
cung cấp bằng sáng chế phát minh cao hơn các nước khác. Chính phủ ln ưu
tiên đầu tư cho nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, cơng nghệ mới. Cùng với chính
sách ưu tiên phát triển khoa học, cơng nghệ là chính sách phát triển giáo dục
tồn diện. Nhật Bản là một trong những nước có nền giáo dục phát triển nhất
thế giới. Giáo dục, đào tạo, phát triển khoa học và công nghệ là nhân tố, nội
lực quan trọng của Nhật Bản, nhằm phát triển kinh tế.
Về quân sự, sau Chiến tranh thế giới thứ II, quân đội Nhật Bản bị kiềm
chế bởi đạo luật chi phí quốc phịng khơng vượt q 1% GDP, qn đội khơng
được đưa ra nước ngồi hoạt động. Hiệp ước an ninh Nhật Bản - Hoa Kỳ là lá
chắn đảm bảo an ninh cho Nhật Bản, đổi lại nước này phải cho quân đội Hoa
Kỳ đóng trên đất Nhật và chịu một phần chi phí cho hoạt động của quân đội
Hoa Kỳ ở đây. Sau Chiến tranh lạnh, do tình hình thay đổi, Nhật Bản khơng
chỉ muốn dừng lại là cường quốc kinh tế, mà còn muốn trở thành siêu cường
về chính trị, quân sự. Nhật Bản điều chỉnh chiến lược từ chỗ chú trọng phát
triển kinh tế sang chú trọng cả kinh tế và quân sự. Chi phí quốc phịng của
Nhật Bản tăng lên nhanh chóng, xếp thứ hai sau Hoa Kỳ nhiều năm nay. Hiện
nay trang bị kỹ thuật quân sự của Nhật Bản đạt trình độ vào loại cao nhất châu
Á, có khả năng phát triển vũ khí hạt nhân, khả năng hoạt động trên biển, trên
khơng và ở tầm xa. Nhật Bản đã đưa quân tham gia lực lượng giữ gìn hồ bình
ở Campuchia, gần đây là tham gia cùng liên quân Hoa Kỳ trong cuộc chiến
chống khủng bố ở Iraq. Dư luận cho rằng với tiềm lực kinh tế, khoa học, công
nghệ to lớn của mình, Nhật Bản hồn tồn có khả năng trở thành cường quốc
quân sự hùng mạnh.
Mặc dù Nhật Bản là một cường quốc kinh tế, khoa học, công nghệ
nhưng vị thế chính trị, qn sự cịn hạn chế. Tuy nhiên, trong tương lai Nhật
Bản sẽ vươn lên trở thành cường quốc kinh tế, chính trị và qn sự. Có thể nói

16



với sức mạnh kinh tế, khoa học và công nghệ, Nhật Bản ngày càng có một vị
thế rất quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
1.2.1.2. Tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và chính sách đối ngoại của
Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh
Sau Chiến tranh lạnh, Nhật Bản phải đương đầu với những biến đổi của
tình hình quốc tế và những vấn đề bất ổn trong nước nảy sinh sau nhiều thập
niên phát triển thuận lợi. Sau đây là những vấn đề mà Nhật Bản phải đối mặt
sau Chiến tranh lạnh.
Vấn đề kinh tế: Lần đầu tiên sau nhiều năm tăng trưởng liên tục, năm
1993 nền kinh tế Nhật Bản đạt chỉ số âm. Sự suy thoái kinh tế cộng với sự thất
bại của Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản đã gây ra tâm lý lo lắng thực sự trong
công chúng Nhật Bản. Sản xuất công nghiệp suy giảm, đặc biệt là ngành sản
xuất ô tô. Các ngành công nghiệp sản xuất hàng điện tử gặp nhiều khó khăn
nghiêm trọng. Thí dụ đối với cơng ty Toyota Motor Corp chỉ số sản xuất ô tô
con ở trong nước giảm 13,4% so với năm 1992; còn chỉ số sản xuất xe tải và
xe buýt giảm 11,4%; chỉ số xuất khẩu xe con giảm 23,2% đạt 78.108 đơn vị,
còn chỉ số xuất khẩu xe tải và xe buýt giảm 17,8% đạt 30454 đơn vị; Tổng
xuất khẩu xe của Toyota giảm 21,7% tức 108.562 đơn vị” [3,49]. Bên cạnh
đó, sản xuất nơng nghiệp bị mất mùa do hạn hán và sự phá hoại của cơn trùng.
Tình hình này đã đẩy giá hàng tiêu dùng, nhất là giá gạo lên cao. Theo nhận
xét của Hiệp hội tiêu dùng Nhật Bản, giá gạo trên thị trường trước tháng
10/1993 cao tới mức kỷ lục so với hơn 20 năm qua. Thí dụ 1 kg gạo chất
lượng tốt giá bán là 800 yên tức xấp xỉ 7,6 đôla Mỹ (tỷ giá 1USD =105 n
tháng 10/1993).
Để đối phó với tình trạng này, chính phủ Nhật Bản đã thực thi một
chương trình kinh tế mà mục đích của nó là định hướng sự phát triển của xã
hội theo mơ hình xã hội tiêu dùng; trong đó tập trung vào các nội dung chính:

17



- Giảm bớt sự can thiệp của nhà nước.
- Giảm thuế thu nhập. Dự kiến giảm 6 ngàn tỷ yên, bắt đầu từ giữa
tháng giêng 1993.
- Tăng ngân sách bổ sung cho năm tài chính 1993 lên 5 ngàn tỷ yên,
trong đó sẽ giành 3 ngàn tỷ yên để đầu tư cho các cơng trình thuộc cơ sở hạ
tầng kinh tế - xã hội. Đây là những lĩnh vực liên quan trực tiếp tới việc cải
thiện điều kiện sống của nhân dân.
- Điều chỉnh và sửa đổi một số đạo luật thuế cho phù hợp với tình hình
mới. Chẳng hạn giảm thuế tiêu dùng ô tô từ 4,5 xuống 3% để khuyến khích
tiêu thụ ơ tơ.
- Mở cửa từng bước thị trường gạo dựa trên thoả thuận vòng thương
lượng Uragoay.
Người Nhật hy vọng với chương trình này, chính phủ Liên minh sẽ
kéo nền kinh tế Nhật Bản vượt qua cơn suy thối. Song sự lo lắng về một
tình hình khơng sáng sủa do cuộc đấu trên diễn đàn chính trị, sẽ ảnh hưởng
đến sự phát triển kinh tế vẫn là mối bận tâm của người tiêu dùng và giới kinh
doanh Nhật Bản.
Vấn đề chính trị - xã hội: Từ những năm 50 đến những năm 90 của thế
kỷ XX, Đảng Dân chủ Tự do (LDP) là đảng cầm quyền lãnh đạo đất nước
Nhật Bản. Tuy nhiên, trong cuộc bầu cử tháng 7/1993, Đảng này đã mất
quyền lãnh đạo đất nước. Từ đó tới nay tình hình chính trị Nhật Bản ln có
nhiều biến động phức tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển chung của đất nước.
Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản là một đảng mạnh về tổ chức và có
ảnh hưởng sâu rộng tới các tầng lớp xã hội Nhật Bản. Về chính sách đối
ngoại, Đảng này liên kết chặt chẽ với Hoa Kỳ, dựa vào sự bảo đảm an ninh
của Hoa Kỳ để tập trung sức lực và trí tuệ xây dựng kinh tế. Về đối nội,
thực hiện chính sách kinh tế - xã hội mang tính thực dụng cao. Nhờ vậy nền


18


kinh tế Nhật Bản đã đạt được bước phát triển thần kỳ, trở thành nền kinh tế
lớn thứ hai thế giới. Thắng lợi đó gắn liền với chính sách của Đảng Dân
chủ Tự do Nhật Bản và củng cố vị trí của đảng này trong việc nắm giữ
quyền lực chính trị.
Tới tháng 7/1993, trong cuộc bầu cử vào quốc hội LDP đã bị thất bại,
không đủ tỷ lệ số nghị sĩ để lập chính phủ, một liên minh 7 đảng của
Hosokawa thắng lợi và đứng ra lập chính phủ mới. Cuộc bầu cử này đánh dấu
sự thất bại lớn nhất trong lịch sử gần 4 thập niên của Đảng Dân chủ Tự do
Nhật Bản. Sau khi lên cầm quyền, chính phủ Liên minh đã chủ trương tiến
hành đổi mới toàn diện chính sách của nhà nước nhằm thúc đẩy tiến bộ xã hội,
mở rộng và cũng cố vai trò của Nhật Bản trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
những cải cách mà chính phủ Liên minh đưa ra gặp rất nhiều khó khăn bởi
những ý tưởng và truyền thống của Đảng Dân chủ Tự do đã bám rễ sâu trong
xã hội Nhật Bản.
Theo nhiều nhà phân tích, tình hình chính trị Nhật Bản vẫn tiếp tục sôi
động, cuộc đấu tranh giữa phái cải cách và phái bảo thủ vấn tiếp diễn. Khó có
ai có thể đốn được tình hình sẽ diễn ra như thế nào. Song điều mà phần đông
người Nhật Bản mong muốn là thay đổi khơng khí chính trị. Điều này tạo cơ
sở cho cải cách chính trị ở nước này có thể chính phủ Liên minh bảy đảng
thực hiện chưa thành cơng.
Bên cạnh những thay đổi về chính trị, tình hình xã hội Nhật Bản sau
Chiến tranh lạnh cũng chứa đựng nhiều thách thức. Thách thức lớn nhất đó là
vấn đề già hố dân số, điều này sẽ trở thành một gánh nặng cho xã hội Nhật
Bản trong tương lai. Vấn đề nữa, đó là nhập cư bất hợp pháp ở Nhật Bản, sau
Chiến tranh lạnh ở Nhật Bản “có khoảng 1,2 triệu người đang sinh sống bất
hợp pháp” [3,51]. Thực trạng này gây ra nhiều ảnh hưởng đến xã hội Nhật
Bản, trước mắt nó sẽ gây sức ép đối với vấn đề việc làm và về lâu dài tác động

đến lối sống, quan niệm xã hội và phong cách văn hoá của xã hội Nhật Bản.
19


×