Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Thực trạng tại một số điểm du lịch ở ninh bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (26.02 MB, 27 trang )

Thực địa Ninh Bình
Lời mở đầu
Ông cha ta xưa nay có câu “Đi một ngày đàng học một sàng khôn”, câu
răn dạy ấy đã trở thành chân lý cho bao đời và ngay cả chính những sinh viên
sẽ hoạt động cho ngành du lịch tương lai. Đất nước ta rất giàu và đẹp, vẻ đẹp
ấy sẽ được quảng bá giới thiệu rộng rãi ra sao, danh lam thắng cảnh của đất
nước sẽ được khai thác thế nào đó luôn là những câu hỏi chờ đợi những con
người làm du lịch tương lai (ngành công nghiệp không khói) tiếp tục trả lời.
Để giúp sinh viên khoa du lịch có được cái nhìn thực tế về tài nguyên du lịch
nước nhà, khoa du lịch Viện Đại học Mở đã tổ chức cho sinh viên đi thực địa
trong bộ môn Địa Lý Du Lịch. Tour thực địa Hà Nội- Ninh Bình thực sự đã
đem lại cho sinh viên A1K16 nhiều điều bổ ích và những hiểu biết cần thiết
cho quá trình học tập cũng như nghề nghiệp sau này. Ninh Bình được chọn
làm điểm đến cho buổi thực địa với những danh lam thắng cảnh nổi tiếng mà
chúng em được tham quan đó là: Nhà thờ đá Phát Diệm, khu du lịch Tam
Cốc- Bích Động, Vườn Quốc gia Cúc Phương.
Bài viết này là những gì em thu hoạch được sau chuyến đi thực địa bổ ích
đó. Đây sẽ là những bước đi đầu tiên của sinh viên chúng em tới những miền
đất giàu đẹp của Tổ Quốc để thêm hiểu, thêm yêu đất nước quê hương từ đó
góp phần phát triển ngành du lịch nước nhà.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
2
Thực địa Ninh Bình
I. Giới thiệu chung
Tỉnh Ninh Bình nằm ở vùng cực Nam đồng bằng châu thổ sông Hồng, cách
thủ đô Hà Nội 93 km. Ninh Bình có diện tích tự nhiên 1.420 km², với chiều dài
bờ biển 18 km, dân số trên 902.000 người. Toàn tỉnh có 67.000 ha đất nông
nghiệp, trong đó đất canh tác 55.000 ha; đất lâm nghiệp 13.000 ha; rừng tự
nhiên 10.400 ha và trên 20.000 ha diện tích núi đá với trữ lượng hàng chục tỷ m³
đá vôi; rừng núi chiếm 22% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Phía Bắc giáp tỉnh Hà
Nam, phía Tây giáp 2 tỉnh Hoà Bình và Thanh Hoá, phía Đông giáp tỉnh Nam


Định, phía Nam giáp biển Đông.
Khí hậu của Ninh Bình thuộc vùng tiểu khí hậu của đồng bằng sông Hồng.
Nhiệt độ trung bình năm là 23,4 độ C. Thời tiết trong năm chia làm 2 mùa rõ rệt:
mùa khô và mùa mưa.
Ninh Bình có vị trí
chiến lược quan trọng, là
nơi tiếp nối giao lưu kinh
tế và văn hoá giữa lưu
vực sông Hồng với lưu
vực sông Mã, giữa vùng
đồng bằng Bắc Bộ với
vùng núi rừng Tây Bắc
của Tổ quốc. Trên địa bàn
tỉnh có Quốc lộ 1A, Quốc
lộ 10; 12A; 12B và đường
sắt Bắc Nam chạy qua cùng hệ thống sông ngòi dày đặc như: sông Đáy, sông
Hoàng Long, sông Càn, sông Vạc, Sông Vân tạo thành mạng lưới giao thông
thuỷ, bộ rất thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Địa hình Ninh Bình phân chia thành ba vùng tương đối rõ nét, vùng đồi núi
ở phía Tây và Tây Bắc; vùng đồng bằng và vùng ven biển phía Đông và phía
Nam. Do phù sa bồi đắp hàng năm, đồng bằng tiến ra biển từ 80- 100m, tạo nên
vùng đất mới phì nhiêu màu mỡ.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
3
Thực địa Ninh Bình
Mỗi vùng có tiềm năng và thế mạnh riêng, song ba vùng có thể bổ sung hỗ
trợ nhau để phát triển nền kinh tế hàng hoá toàn diện cả cây lương thực, cây
công nghiệp, cây ăn quả, nuôi trồng thuỷ, hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng
và công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Cùng với tiềm năng về công,
nông, lâm nghiệp, Ninh Bình còn có nhiều danh lam thắng cảnh và di tích lịch

sử văn hoá nổi tiếng như: Cố đô Hoa Lư; khu du lịch Tam Cốc- Bích Động;
Vườn Quốc gia Cúc Phương; khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long; khu hang động
Tràng An; Nhà thờ đá Phát Diệm… có thế mạnh phát triển đa dạng các loại hình
du lịch.
Như vậy ta có thể thấy rõ Ninh Bình là mảnh đất được thiên nhiên ưu đãi rất
nhiều và có thế mạnh để phát triển du lịch với đa dạng các loại hình như du lịch
sinh thái, nghỉ dưỡng, chữa bệnh
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
4
Thực địa Ninh Bình
I.1 Nhà thờ đá Phát Diệm
Điểm đến đầu tiên trong hành trình thực địa của sinh viên A1K16 là nhà thờ
đá Phát Diệm còn gọi là quần thể các nhà thờ Công Giáo, rộng khoảng 22ha,
thuộc địa phận thị trấn Phát Diệm huyện Kim Sơn tỉnh Ninh Bình cách Hà Nội
130km về phía Nam, được xây dựng vào những năm 1875-1899. Nguyễn Công
Trứ là người lập ra huyện Kim Sơn và đã đặt tên cho ngôi làng này cái tên Phát
Diệm. Diệm có nghĩa là vẻ đẹp. Phát là phát triển, mở ra, tỏa ra. Vậy Phát Diệm
nghĩa là tỏa ra, phát ra vẻ đẹp. Nhưng cho tới năm 1858 khi Nguyễn Công Trứ
qua đời thì nhà thờ này vẫn chưa được xây dựng cho tới năm 1875. Nhân dân
trong vùng cho rằng Cụ Trứ đã tiên đoán được sự linh thiêng và vẻ đẹp của miền
đất này mà gán cho nó cái tên đầy diễm lệ đó. Đây là công trình kiến trúc có quy
mô đồ sộ nhất thuộc mảng kiến trúc Thiên chúa giáo ở Việt Nam, nhà thờ đá
Phát Diệm được đánh giá là nơi hội tụ những tinh hoa của nghệ thuật điêu khắc
đá Việt Nam. Nét độc đáo của công trình này ở chỗ: mặc dù là nhà thờ Công
giáo nhưng được mô phỏng theo những nét kiến trúc đình chùa truyền thống của
Việt Nam. Quần thể kiến trúc này được xây dựng bởi Linh mục Phêrô Trần Lục
(còn gọi là Cụ Sáu - Linh mục Chánh xứ giáo phận Phát Diệm từ năm 1865) và
các giáo dân Công giáo trong hơn 30 năm. Theo ông Nguyễn Văn Giao, hướng
dẫn viên phục vụ nhà thờ cho biết: "Nói công trình này giống đình chùa là rất
đúng. Cha Trần Lục - kiến trúc sư của công trình có mong muốn rằng, qua công

trình này nói lên tính chất hòa hợp và sự hội nhập giữa đạo Công giáo với nền
văn hóa kiến trúc của dân tộc cũng như sự hòa hợp giữa Công giáo với các tôn
giáo khác ở Việt Nam; nói lên tính đoàn kết".
Nhà thờ được xây dựng với trình độ kỹ thuật và điều kiện giao thông của
những năm cuối thế kỷ 19. Từ hướng Nam đi vào nhà thờ Phát Diệm gồm các
phần: Ao hồ, Phương Ðình, Nhà thờ lớn, ba hang đá nhân tạo và nhà thờ đá.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
5
Thực địa Ninh Bình
Hình 1: Sơ đồ quần thể nhà thờ đá Phát Diệm
Kiến trúc:
Quần thể nhà thờ Phát Diệm gồm ao hồ, phương đình (gác chuông), 1 nhà
thờ lớn và 5 nhà thờ nhỏ (trong đó có 1 nhà thờ bằng đá tự nhiên, được gọi là
nhà thờ đá).
• Ao hồ: Một hồ nước hình chữ nhật, rộng khoảng 4ha, được kè đá
xung quanh, nằm trực diện với con đường từ thị trấn Phát Diệm dẫn
vào nhà thờ. Giữa hồ là 1 hòn đảo nhỏ trên có bức tượng Chúa.
Hình 2: Toàn cảnh ao hồ và mặt tiền Phương Đình
• Phương Đình: là một công trình kiến trúc bề thế cao 25m, rộng 17m,
dài 24m gồm ba tầng được xây dựng bằng đá phiến, lớn nhất là tầng
dưới cùng được xây dựng bằng đá xanh. Trên 4 đỉnh tháp có 4 pho
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
6
Thực địa Ninh Bình
tượng bốn vị Thánh Sử, mà từ đường nét, tư thế đến đường mây nếp
áo khiến ta dễ lầm với các pho tượng trong các đền chùa Việt Nam.
Các vòm cửa bằng đá được lắp ghép đến trình độ tinh xảo. Giữa
Phương Ðình đặt một sập làm bằng đá nguyên khối, phía ngoài và bên
trong là những bức phù điêu được khắc chạm trên đá hình ảnh chúa
Jêsu và các vị thánh với những đường nét thanh thoát. Tầng thứ hai

của Phương Ðình treo một trống lớn. Tầng ba treo một quả chuông
cao 1,4m, đường kính 1,1m, nặng gần 2000 kg. Quả chuông này đã
được đúc từ năm 1890 trước 9 năm khi Phương Đình được xây dựng
xong, để đưa được quả chuông lớn lên gác chuông này giáo dân đã
phải đắp đất thành đường dốc và lăn chuông lên. Chuông ở Phương
Đình không phải loại chuông Tây kéo mà nó được đánh bằng vồ. Một
tiếng chuông vang xa được ví như cả 3 tỉnh (Nam Định, Ninh Bình và
Thanh Hóa) nghe thấy. Mái của nhà thờ Phát Diệm không cao vút
kiểu ngọn tháp như những nhà thờ khác mà là mái cong thấp cổ kính
như mái đình, mái chùa.
• Mộ Cụ Sáu: Ngay sau Phương Đình tại sân giữa mặt tiền nhà thờ
Chính Tòa là ngôi mộ Linh mục Phêrô Trần Lục- người có công đầu
trong việc thiết kế và xây dựng nên công trình nhà thờ Phát Diệm này.
Ông tên khai sinh là Trần Hữu quê ở huyện Nga Sơn- Thanh Hóa.
Ông còn có tên khác là Trần Chiêm song mọi người vẫn quen gọi ông
là Cụ Sáu bởi trước khi được sắc phong làm Linh Mục năm 1860 ông
đã giữ chức Phó Tế ( chức thứ 6 trước khi lên cấp Linh Mục). Ông là
người tài giỏi, hiền đức đã được 4 đời vua tin dùng, ngoài việc chăm
lo coi sóc giáo phận ông còn là tác giả của nhiều bài thơ ca, vè được
nhiều giáo dân tin yêu kính trọng. Mộ của ông không được đặt trong
gian cung thánh của Nhà Thờ Lớn do quy định chỉ có Giám mục khi
qua đời mới được mai táng ở đó. Nhưng để thể hiện lòng tôn kính và
biết ơn công lao của ông các giáo dân đã cho xây dựng mộ ông tại
mặt tiền Nhà thờ Lớn.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
7
Thực địa Ninh Bình
Hình 3: Mộ Cụ Sáu tại sân trước Nhà thờ Lớn
• Nhà Thờ Lớn:


Hình 4: Kiến trúc trạm trổ-mặt tiền Nhà thờ
Lớn
Hình 5: Gian Cung Thánh
Nhà thờ chính được xây dựng năm 1891 với tên chính thức là Nhà thờ
Đức Mẹ Mân Côi, nay là nhà thờ Chính tòa của vị Giám mục Phát Diệm.
Nhà thờ lớn dài 74m, rộng 21m, cao 15m, có bốn mái và có năm lối vào
dưới các vòm đá được chạm trổ hình ảnh hoa sen, hoa đào, hoa cúc, cuốn
thư, nậm rượu, được chạm khắc cách điệu rất tinh xảo. Đặc biệt bức phù
điêu khổng lồ ở chính giữa với hình ảnh 17 vị thiên thần trong vườn hoa
Mân côi mang dáng dấp các nhân vật trong tranh dân gian Thất đồng.
Trong nhà thờ có 6 hàng cột gỗ lim (48 cột) nguyên khối, hai hàng cột
giữa cao tới 11m, chu vi 2,35m, mỗi cột nặng khoảng 10 tấn. Gian
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
8
Thực địa Ninh Bình
thượng của thánh đường có một bàn thờ lớn làm bằng một phiến đá
nguyên khối dài 3m, rộng 0,9m, cao 0,8m, nặng khoảng 20 tấn. Mặt
trước và hai bên được chạm trổ các loài hoa đặc trưng của bốn mùa làm
cho bàn thờ như được phủ một chiếc khăn màu thạch sáng. Trên tường
gian Thượng có bức phù điêu hình 12 vị thiên thần tóc đen. Thánh cung
rực rỡ vàng son chính giữa là tượng Đức Mẹ bế Chúa con, ở hai bên có
các tượng, hình vẽ các Thánh, Đức Chúa và các thiên thần…
Gian này cũng là nơi an nghỉ của 6 vị Giám mục là người đứng đầu giáo
phận. Nhà thờ cũng sử dụng lối kiến trúc Gothique của Pháp được thể
hiện ở vòm mái cuốn cong tháp nhọn. Nhưng nét độc đáo của kiến trúc
nơi này là ở sự kết hợp hài hòa Đông- Tây, khi vào Thánh Đường ta phải
bước qua ngưỡng cửa cao, những hàng cột trụ bằng gỗ lớn, kiểu cửa gỗ
truyền thống kết hợp với kiến trúc mái cong và thấp đã tạo cho nhà thờ
Phát Diệm nét đẹp cổ kính thấp thoáng dáng vẻ của đình chùa Việt Nam
xen kẽ với lối kiến trúc cổ của Pháp. Đó là sự kết hợp hài hòa tạo nên nét

đẹp riêng có ở Nhà Thờ Phát Diệm.
Nhà thờ lớn được xây dựng năm 1891, nhưng công việc chuẩn bị kéo dài
cả mười năm trước đó. Gỗ lim được lấy từ Nghệ An, Thanh Hóa, Sơn
Tây. Có những cây gỗ nặng tới 7 tấn, những phiến đá nặng tới 20 tấn đã
được vận chuyển bằng phương tiện bè, mảng rất thô sơ thời đó… Về
chân móng, gồm hàng triệu cọc tre trên nền đất phù sa bồi. Công trình
thánh đường Phát Diệm do đồng bào giáo dân của vùng Bà Chu - Phát
Diệm tự nguyện xây dựng hàng chục năm đã làm nên một kỳ tích, một
quần thể kiến trúc đặc sắc, độc đáo và đồ sộ bậc nhất Việt Nam, là một di
sản quý báu của dân tộc.
Thánh đường nơi đây đã tồn tại hơn 100 năm, đã trải qua không ít những
biến cố của khí hậu, thời tiết, sự xói mòn của thời gian và chiến tranh tàn
phá. Nhân dân đã góp sức trùng tu, tôn tạo toàn thể thánh đường. Năm
1998, nhà thờ lớn Phát Diệm được công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
9
Thực địa Ninh Bình
• Nhà Thờ Đá: Tên nguyên thủy là nhà thờ Trái tim Vô nhiễm nguyên
tội Đức Mẹ, còn được gọi là nhà thờ đá vì tất cả mọi thứ ở nhà thờ
này đều được làm bằng đá cẩm thạch từ năm 1883, từ nền, tường, cột,
chấn song cửa Phía trong được chạm nhiều bức phù điêu đẹp, đặc
biệt là bức chạm tứ quý: tùng, mai, cúc, trúc, tượng trưng cho thời tiết
và vẻ đẹp riêng của bốn mùa trong một năm. Ðường nét khắc họa
những con vật như sư tử, phượng sống động đến lạ thường. Bằng bàn
tay tài hoa các nghệ nhân đã chạm khắc các phiến đá theo phong cách
thông phong, kiểu chạm khắc đòi hỏi kỹ thuật cao. Nhờ đó chất liệu
đá đã thoát hình khỏi cái nặng nề vốn có để hóa thân vào nhân vật,
dáng hình toát lên nét khỏe khoắn, nhưng cũng rất uyển chuyển, sống
động. Nơi đây thờ Đức Mẹ Maria (mẹ của Chúa Jêsu). Ban thờ Đức
Mẹ có đặt tượng Chúa Jêsu bị hành hình trên cây thánh giá ngoài ra

trên ban thờ được trang trí bằng những hình điêu khắc rất ý nghĩa như
“trái tim có lưỡi gươm đâm qua”- đây là biểu tượng rút ra từ kinh
Thánh, nói lên nỗi đau đớn của Đức Mẹ Maria khi chứng kiến cảnh
đứa con của mình bị đóng đinh vào cây thánh giá. Cây thánh giá vốn
là biểu tượng của sự chết, của hình phạt mà đế chế La Mã dùng để cai
trị con người thì giờ đây Thánh giá là biểu trưng của chiến thắng-
Thượng đế ( Chúa Jêsu) dám chết để minh chứng cho tình yêu của
mình với con người.
• Hang đá nhân tạo: Theo con đường dẫn kiệu được lát những phiến
đá xanh đến với ba hang đá nhân tạo ở phía bắc khu nhà thờ Phát
Diệm, 3 hang đá cách nhau khoảng 100m được tạo bằng những khối
đá lớn nhỏ nhác nhau giữ nguyên dáng vẻ tự nhiên bên trên đều đặt
những pho tượng chúa to và đẹp.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
10
Thực địa Ninh Bình

Hình 5-6: Nhà Thờ Đá với kiến trúc trạm khắc bên trong

Hình 7: Hang Lộ Đức Hình 8: Núi Sọ
Tóm lại, Nhà thờ Phát Diệm là một công trình kiến trúc độc đáo có một
không hai ở Việt Nam với nét kiến trúc nguy nga, tráng lệ nhưng hài hòa với
cảnh vật thiên nhiên, mang đậm phong cách kiến trúc Á Đông. Qua đây chúng ta
thêm khâm phục bàn tay khối óc, trí tuệ siêu phàm của các nghệ nhân cũng như
vị Linh mục Trần Lục và bà con giáo dân Kim Sơn- Ninh Bình đã cho ra đời 1
công trình nghệ thuật điêu khắc đá bậc nhất Việt Nam.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
11
Thực địa Ninh Bình
I.2 Tam Cốc

Điểm dừng chân tiếp theo sau nhà thờ Phát Diệm đó là Tam Cốc. Tam Cốc
được mệnh danh là “Vịnh Hạ Long trên cạn”, quần thể núi đá vôi Tam Cốc nằm
tại thôn Văn Lâm xã Ninh Hải huyện Hoa Lư tỉnh Ninh Bình.
Tam Cốc có nghĩa là "ba hang", gồm hang Cả, hang Hai và hang Ba. Cả ba
hang đều được tạo thành bởi dòng sông Ngô Đồng đâm xuyên qua núi.Hàng
nghìn hòn núi đá vôi nằm dọc sông tạo nên phong cảnh rất hùng vỹ. Cấu tạo địa
chất cho thấy cách đây hàng trăm triệu năm, nơi này là vùng biển. Trải qua thời
gian dài, đất lấn biển hình thành nên địa thế như ngày nay. Sóng biển bào mòn
núi, đã tạo ra hình dáng các hang động thiên nhiên kỳ thú. Du khách khi đi
thuyền có thể thấy rõ dấu vết xâm thực của nước biển trên các dãy núi đá vôi.Từ
bến đò, đi chừng 1,5 km sẽ đến hang Cả dài 127 m, rộng chừng 20 m đây là
hang dài nhất.
Tiếp đó đi chừng 1 km nữa sẽ đến hang Hai dài 60 m, rộng 18 m. Hang Hai
đặc biệt có rất nhiều nhũ đá với hình thù kỳ ảo, từ trần hang rủ xuống lô nhô óng
ánh như châu ngọc.
Nằm cách hang Hai chừng 500 m là hang Ba dài 43 m, rộng 18 m. Trần
hang như một vòm đá, thấp hơn so với hai hang kia.
Du khách thăm Tam Cốc chỉ có một con đường thủy duy nhất, đi bằng
thuyền nan từ bến đò, vào và ra mất khoảng hai tiếng đồng hồ.
Dọc hai bên sông Ngô Đồng, người dân sống ở đây vẫn cấy lúa, trồng rau
Trên núi có những đàn dê được nuôi hoang dã. Người dân thả dê trên núi,
cho dê đi ăn các loại lá cây tự nhiên. Cách chế biến thịt dê của người dân cũng
rất khéo, khiến cho thịt dê nơi này trở thành một đặc sản nổi tiếng mà du khách
đến đây không thể bỏ qua!
Thịt dê tái chanh hoặc thịt dê hấp ăn cùng với các loại rau sống như đinh
lăng, ngổ, lá mơ, rau thơm… cuốn bánh tráng chấm tương bần thật ngon miệng.
Ngoài ra, người ta cũng chế biến nhiều món ăn đặc sắc khác từ thịt dê.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
12
Thực địa Ninh Bình


Hình 1: Vào Tam Cốc theo sông Ngô Đồng Hình 2: Hang cả

Hình 3: Hang hai Hình 4: Nhũ đá trong hang hai

Hình 5: Hang ba Hình 6: Lúa được trồng trên sông Ngô Đồng
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
13
Thực địa Ninh Bình
I.3 Bích Động
Bích Động nằm cách bến Tam Cốc 2 km, trên dãy núi đá vôi Trường Yên,
tên có nghĩa là "động xanh", là tên do tể tướng Nguyễn Nghiễm, thân phụ của
đại thi hào Nguyễn Du đặt cho động năm 1773. Đây là một trong những thắng
cảnh nằm trong nhóm được người xưa gọi là "Nam thiên đệ nhất động", cụ thể
Bích Động được mệnh danh là "Nam thiên đệ nhị động" tức động đẹp thứ nhì
trời Nam [đứng sau động Hương Tích (Nam thiên đệ nhất động) ở Hương Sơn
và đứng trước động Địch Lộng (Nam thiên đệ tam động) ở Kẽm Trống]. Phía
trước động là dòng sông Hoàng Long uốn lượn bên sườn núi, bên kia sông là
cánh đồng lúa.
Chùa Bích Động là một ngôi chùa cổ gắn với núi đá mang đậm phong
cách Á Đông. Chùa được dựng từ đầu đời nhà Hậu Lê. Trong chùa có quả
chuông lớn đúc từ thời vua Lê Thái Tổ, mộ tháp các vị hòa thượng có công xây
dựng chùa. Thời Lê Hiển Tông (1740-1786) chùa được trùng tu mở rộng thêm,
bao gồm Chùa Hạ, Chùa Trung, Chùa Thượng, trải ra trên ba tầng núi. Chùa
Bích Động là một công trình kiến trúc cổ nên cũng như những ngôi chùa khác
được xây dựng bằng gỗ lim, mái lợp bằng ngói ta không có mấu, mũi lượn tròn,
các góc của mái đều có đầu đao cong vút lên như hình lưỡi đao, hoặc như hình
cái đuôi con chim phượng, làm cho mái uốn lượn, uyển chuyển như sóng nước
thuỷ triều, nhìn bán diện như hình một chiếc thuyền rồng ngoạn mục trôi trên
nước hoặc như hai cánh chim đang dang rộng bay lên.

Chùa Bích Động được xây dựng theo kiểu chữ "Tam" Hán tự, ba toà
không liền nhau, tam cấp dọc theo sườn núi, dựa vào thế núi từ thấp lên cao
thành 3 ngôi chùa riêng biệt: Hạ, Trung và Thượng. Điều độc đáo của chùa Bích
Động là núi, động và chùa bổ sung cho nhau, lại ẩn hiện giữa những cây đại thụ
xanh biếc, làm cho chùa hoà nhập với cảnh trí thiên nhiên ngoại mục. Toàn cảnh
như một bức tranh núi rừng hùng tráng, dát lên một phù điêu gồm 3 ngôi chùa
cổ kính, mái ngói rêu phong, có đủ 8 cảnh đẹp mà người xưa đã gọi là Bích sơn
bát cảnh, ba chùa lại được xây trên sườn núi cao, dưới gầm lại có động Xuyên
Thuỷ.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
14
Thực địa Ninh Bình
• Chùa Hạ
Chùa Hạ có 5 gian xây trên một nền cao dưới chân núi. Trong chùa thờ phật,
kiến trúc chùa theo kiểu chữ Đinh. Vì kèo, xà ngang, xà dọc cũng bằng gỗ lim.
Mái chùa là hai tầng mái uốn cong, gồm 8 mái. Các cột đá ở chùa hạ đều bằng
đá liền một khối, không chắp nối, cao hơn 4m, làm được những cột đá thư thế là
một kỳ công. Tại chùa Hạ, một bức Đại tự bằng chữ Hán ở chính giữa có ghi
“Thanh thản cổ mộ” để nói lên cái tâm chính của chùa là thanh bạch từ xưa đến
nay. Trên cùng là tòa tam thế. Tương truyền ba vị này là người biết trước được
mọi việc ở ba thế giới khác nhau là Thượng giới, Hạ giới và Âm giới. Kế đến là
ba vị Phật, ngồi chính giữa là đức Phật Di Đà, bên phải là Quan Âm Bồ Tát, bên
trái là Đại Thế Trí Bồ Tát.
Vị ngồi hàng thứ ba, đầu đội vương miện là bà chúa Ba - Công chúa thứ ba
đời vua Diệu Trang Vương đi tu đắc đạo thành Phật (còn gọi là Phật Bà nghìn
mắt nghìn tay). Vị đứng thứ tư mặc áo đỏ, tay chỉ thiên, tay chỉ địa là Thích Ca
Mâu Ni (còn gọi là Phật Tổ Như Lai). Người mặc võ phục đứng bên phải là Bát
Đại Kim Cương, đứng bên trái là đại diện cho tứ trực công tào- coi xét việc
chính sự trong giới nhà Phật. Cuối cùng là ba vị ngồi bên trái là Chí Kiên, Chí
Thể và Chí Tâm đã có công thành lập và xây dựng nên chùa Bích Động. Hai

tượng Phật đá bên ngoài là Nam Tào - Bắc Đẩu, coi xét sổ sanh tử. Tấm bia lớn
bằng đá bên phải là tên những người đóng góp xây dựng chùa Bích Động.
• Chùa Trung
Từ chùa Hạ bước lên 120 bậc theo đường hình chữ S tới lưng chừng dãy núi
Ngũ Nhạc là chùa Trung. Ngay phía trước là hai chữ Bích Động tạc vào vách
núi. Đây là một chùa rất độc đáo, ít nơi có được, một nửa gắn vào hang động,
một nửa lộ thiên, chùa có 3 gian thờ phật. Lễ Phật xong ở Thượng điện, bước
lên 21 bậc đá là đến Động tối. Đây là động chính, thâm nghiêm, tĩnh mịch, thiên
nhiên đã miệt mài bao đời chau chuốt tỉ mỉ vô cùng tinh tế sắc sảo đến từng chi
tiết nhỏ để tạo nên những ông tiên, cô tiên, tiểu đồng, rồng lượn, rùa bơi, voi
chầu, hổ phục
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
15
Thực địa Ninh Bình
Chùa này đã trải qua ba thời kỳ có tên khác nhau: thời kỳ đầu (1428) có tên
là chùa Động, đến 1740, đời vua Lê Hiển Tông, chùa này được mở mang, xây
dựng thêm và được đặt tên là: Bạch Ngọc Thạch Sơn Đồng. Đến thế kỷ 19 dưới
thời vua Tự Đức được đặt tên là chùa Bích Động. Phía trên của mái chùa có
mười chữ Hán màu vàng là: Giá Lam Thần Đại Hùng Bảo Điện Nam Thiên Tổ -
nghĩa là tất cả các vị sư tổ ở trời Nam này đều xuất phát từ chùa Bích Động ra
đi. Về mặt bài trí ở chùa Trung, Phật Tổ Như Lai có cửu long phù giá. Hai tượng
ngồi phía ngoài là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Phổ Hiền Bồ Tát, bên trong chính
cung là Thánh hiền v.v ở chùa Trung còn có đường lên Động Tối. Ngay trước
cửa động, một chiếc chuông đồng cổ kính với những đường nét chạm trổ rất tinh
xảo. Nhìn ra phía ngoài là cầu Giải Oan. Hầu hết khách qua đây thường "thỉnh"
lên ba tiếng chuông ngân nga như để "giải oan" cho tâm hồn mình ở nơi cửa
Phật được thanh thản.
Trong động có ba pho tượng đá sừng sững uy nghi. Chính giữa là đức Phật
Di đà, bên phải là Vân Thù Bồ Tát, bên trái là Quan Âm Thị Kính và hình tượng
Lão Thọ bằng đá, biểu tượng cho sự trường tồn bất tử v.v

• Chùa Thượng
Lên chùa Thượng, du khách phải bước tới gần 40 bậc đá theo sườn núi. Chùa
Thượng còn gọi là chùa Đông, chùa thờ phật bà Quan Âm . Đây là ngôi chùa nằm
ở vị trí cao nhất, gần đỉnh núi Bích Động. Bích Động là một ngôi chùa độc nhất vô
nhị ở Việt Nam, không nơi nào có thế đất, thế núi như vậy. Chùa Thượng có hai
miếu hai bên: bên phải thờ Thổ Địa, bên trái thờ Đức Sơn Trần. Cạnh chùa có một
bể nước gọi là "bể nước Cam Lô" của Phật Bà Quan Âm. Phía trước là cánh đồng
Ngũ Môn. Đứng trên chùa Thượng có thể phóng tầm mắt bao quát được toàn bộ
cảnh đẹp của chùa Bích Động, không những đẹp về phong cảnh duyên dáng hữu
tình, về nghệ thuật văn hóa- kiến trúc, mà nơi đây còn mang ý nghĩa là một di tích
lịch sử của tỉnh Ninh Bình.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
16
Thực địa Ninh Bình

Hình 1: Chùa hạ Hình 2: Chùa Trung

Hình 3: Chùa Thượng Hình 4: Đường vào Bích Động

Hình 5: Chuông Minh Bia trong Động Tối Hình 6: Phong cảnh tại Bích Động
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
17
Thực địa Ninh Bình
I.4 Rừng Quốc Gia Cúc Phương
Vườn Quốc gia Cúc Phương thuộc huyện Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, giáp
gianh giữa ba tỉnh Ninh Bình, Hoà Bình và Thanh Hoá, cách Hà Nội hơn 100km
về phía tây nam. Cúc Phương là vườn quốc gia đầu tiên của Việt Nam, thành lập
vào tháng 7/1962. Vườn quốc gia Cúc Phương có một quần thể hệ động thực vật
vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo.
Vườn có diện tích 22.000ha, trong đó 3/4 là núi đá vôi cao từ 300 đến 600m

so với mặt biển. Tại đây có đỉnh Mây Bạc cao 648,2m.
Khí hậu ở Cúc Phương thuộc loại khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình
năm khoảng 24,7ºC . Địa hình phức tạp, rừng ở dạng nguyên sinh chứa nhiều bí
ẩn, và cảnh quan độc đáo. Tại đây có rất nhiều hang động với cảnh quan kỳ thú
và ẩn chứa những chứng tích văn hoá lịch sử lâu đời như động Trăng Khuyết,
động Chúa, động Thuỷ Tiên, động Người Xưa, hang Con Moong, động San Hô
Trong vườn còn có suối nước nóng 38ºC. Hệ thực vật rất phong phú với 1.944
loài thuộc 908 chi và 229 họ. Đặc biệt có cây chò xanh, cây sấu cổ thụ đều trên
dưới 1.000 năm tuổi, cao từ 50-70m. Riêng hoa phong lan có tới 50 loài, có loài
cho hoa và hương thơm quanh năm. Hệ động vật đa dạng bao gồm 71 loài thú,
hơn 300 loài chim, 33 loài bò sát và 16 loài lưỡng cư.
Nhiều loài thú quí như: gấu, ngựa, lợn lòi, hổ, báo, chồn, sóc, khỉ Khu chăn
nuôi nửa tự nhiên với các loài hươu sao, nai, khỉ vàng, voọc quần đùi, sóc bay
là nơi phục vụ công tác nghiên cứu của các nhà khoa học và du khách có dịp
chiêm ngưỡng như khi sống trong rừng tự nhiên. Cúc Phương còn là quê hương
của hàng trăm loài chim, bướm đẹp và lạ.
Hiện nay,vườn quốc gia Cúc Phương đã trở thành một trung tâm cung cấp các
loài thực vật quý hiếm, có giá trị kinh tế cao phục vụ cho các chương trình trồng
rừng trong khu vực và trên cả nước. Nơi đây đã có những khu gây giống tự nhiên
đạt kết quả cho các loài chò chỉ, chò xanh, kim giao Trong tương lai vườn còn
xây dựng và mở rộng thêm cơ sở thực nghiệm để cung cấp giống nhiều loài cây
thuốc, cây cảnh quý hiếm cho những nơi có nhu cầu
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
18
Thực địa Ninh Bình
• Động Người Xưa:
Đến với Cúc Phương du khách sẽ thấy ngạc nhiên bởi khu bảo tồn này
không chỉ là một khu rừng thiên nhiên kỳ vĩ, mà còn có rất nhiều các hang động
kỳ thú. Động Người Xưa là một di tích cư trú và mộ táng của người tiền sử, là
trang văn hoá độc đáo trong lịch sử phát triển của nhân loại, nơi được cho là

mang dấu ấn sự sống của thuở bình minh loài người và là một di sản quý giá
nằm trong đối tượng bảo vệ của VQG Cúc phương.
Con đường dẫn ta vào Động Người Xưa được làm từ năm 1968 để đón Bác
vào thăm, nhưng lúc đó Bác đã quá yếu, niềm mong ước một lần được đến
chiêm ngưỡng thiên nhiên nguyên thủy của Người đã không toại nguyện. Từ
đường ô tô đi bộ trên cây cầu dài hơn 100 m, đến chân dẫy núi đá vôi, leo lên
với độ cao 45 m, vượt qua hơn 200 bậc thang đá và sắt là du khách đã đến Động
Người Xưa. Đường vào động rất cao, khúc khuỷu nhưng các bậc đá được kè
cẩn thận nên khá dễ đi. Từ chân núi lên đến cửa hang động, du khách sẽ có dịp
tìm hiểu chứng kiến những điều khá kỳ lạ của thiên nhiên. Đây là khu vực tập
trung rất nhiều hệ thống cây leo, cây xẻ đá. Trên vách núi cao những loài cây
với bộ rễ to vẫn sống khỏe mạnh, bộ rễ của những loài cây này xuyên qua từng
thớ đá để sinh sống và trường tồn, điều này gây sự tò mò với nhiều du khách khi
lần đầu tiên đến với Cúc Phương, mọi người sẽ cảm thấy rất thú vị với những
thông tin mà mình mới biết về cuộc sống của những loài thực vật ở đây.
Động có cửa quay về hướng Tây Nam, cao ráo, thoáng mát và chia làm 3
ngăn. Ngăn ngoài cùng rộng, sáng và thoáng, nơi có dấu tích của người tiền sử.
Vào năm 1966 Viện khảo cổ Việt nam phối hợp với VQG Cúc phương, được sự
giúp đỡ của chuyên gia Cộng hoà dân chủ Đức, đã tiến hành khai quật hang
động này. Trong quá trình khai quật đã thu được các loại rìu đá, mũi nhọn
xương, dao cắt bằng đá, vỏ ốc và nhiều xương thú, răng thú, đặc biệt đã phát
hiện được 3 ngôi mộ cổ với các bộ xương người đã hoá thạch còn khá nguyên
vẹn. Bằng phương pháp các bon phóng xạ 14 các nhà khoa học đã xác định
những bộ xương này cách ngày nay khoảng 7.500 năm. Thi hài người chết được
chôn trong tư thế nằm co, xung quanh kè đã hộc, đáy lót đá dăm và xung quanh
rắc thổ hoàng. Đây là lối cấu trúc mộ cổ lần đầu tiên phát hiện được trong các di
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
19
Thực địa Ninh Bình
chỉ thuộc nền văn hoá Hoà bình, gợi lại những ý niệm sơ khai về tín ngưỡng tôn

giáo nguyên thuỷ .
Ngăn giữa hẹp, tối và ẩm thấp không có dấu tích của người xưa, nhưng
đặc biệt có rất nhiều dơi, chính vì vậy trước đây nhân dân địa phương đặt tên
cho hang động này là Hang Đắng (Đắng theo tiếng Mường có nghĩa là dơi). Qua
điều tra các nhà khoa học đã nhận định đây là hang động có số lượng loài dơi
sinh sống nhiều nhất trên thế giới với 19 loài .
Ngăn trong cùng cũng tối và ẩm nhưng có hệ thống nhũ đá rất đẹp. Du
khách tới đây có thể thả sức mà tưởng tượng nào là buồng cô dâu, mẹ bồng con
và rất nhiều nhũ đá có hình thù muông thú Đặc biệt có nhũ đá được ví như bộ
đàn đá, bởi khi ta gõ nhẹ du khách như đang được thưởng thức âm thanh của
đêm hội cồng chiêng, làm cho hang động thêm huyền ảo và thơ mộng. Trên
đường trở ra du khách có thể qua 3 cầu thang sắt để lên tầng trên của động được
gọi là “cổng trời” và sẽ không khỏi ngạc nhiên trước một điều hiếm thấy trong
các hang động. Đó là trên vách đá, vòm hang có nhiều đốm trắng, tròn và sáng,
làm ta liên tưởng đến bầu trời đầy ánh sao khuya Đây là nơi hút gió vào toàn
bộ hang nên không khí rất dễ chịu. Có lẽ đó cũng là lý do tại sao những người
tiền sử sống cách chúng ta hàng ngàn năm đã chọn hang động này làm nơi sinh
sống.
Động Người Xưa là một dấu ấn sự sống thủa bình minh của lịch sử loài
người, đây là một khu di tích nằm trong sự bảo vệ và gìn giữ của không chỉ ban
quản lý VQG Cúc Phương mà cũng là trách nhiệm của khách du lịch tới thăm.
• Cây chò ngàn năm:
Cây đại thụ này cao 45m, đường kính 5m và có chu vi hơn 20 người ôm mới
hết. Từ trung tâm theo một con đường mòn trong rừng già để đến cây chò. Du
khách sẽ gặp trên đường dây leo bàm bàm khổng lồ với đường kính gốc 0,5m,
chạy dài 1km vắt ngang rừng và loài Đa bóp cổ. Hạt đa nảy mầm trên các hốc
cây khác. Khi rễ của chúng đã bám đất phát triển rất nhanh, dần bóp chết cây
chủ. Du khách còn được chiêm ngưỡng những cây Chò chỉ cao tới 70m, thân
thẳng, tròn đều.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6

20
Thực địa Ninh Bình

Hình 1: Cổng rừng Cúc Phương Hình 2: Nhũ đá trong Động Người Xưa

Hình 3: Mộ Cổ trong Động Người Xưa Hình 4: Cổng trời nơi lấy gió làm động luôn
khô ráo

Vũ Thị Diệu Linh A1K6
21
Thực địa Ninh Bình
Hình 5: Cảnh rừng rậm rạp với nhiều loài cây
và chằng chịt dây leo
Hình 6: Gốc cây chò nghìn năm tuổi
II Khả năng khai thác du lịch ở Ninh Bình
Ninh Bình là tỉnh có tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú. Địa
danh này nằm ở vị trí cửa ngõ cực nam của tam giác châu thổ sông Hồng
và miền Bắc, nơi có nhiều danh lam thắng cảnh gắn với vùng đất là kinh
đô của Việt Nam thế kỷ X với nhiều di tích lịch sử. Trong quy hoạch phát
triển vùng kinh tế duyên hải Bắc Bộ, Ninh Bình được ưu tiên phát triển
thành một trung tâm du lịch.
Ninh Bình cùng với Hạ Long là 2 đỉnh cạnh đáy của tam giác đồng
bằng sông Hồng, với địa hình karstơ được các biến đổi địa chất theo thời
gian và phù sa bồi đắp tạo cho Ninh Bình một "Hạ Long trên cạn" với vô
số các hang động, đầm hồ, núi ngập nước có giá trị phát triển du lịch.
Ninh Bình hội tụ đầy đủ các yếu tố của một Việt Nam thu nhỏ: có rừng,
núi, sông, biển với các khu bảo tồn thiên nhiên, vườn quốc gia, khu dự trữ
sinh quyển thế giới
Ninh Bình là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch văn hóa vì đây từng là
kinh đô của Việt Nam ở thế kỷ X, nơi phát tích ba triều đại Đinh - Lê - Lý

mà bằng chứng để lại là hàng loạt các đền chùa, đình đài, di tích lịch sử.
Trong kháng chiến chống ngoại xâm nơi đây có phòng tuyến Tam Điệp,
chiến khu Quỳnh Lưu, Phát Diệm và là địa bàn trọng yếu của chiến dịch
Hà Nam Ninh lịch sử.
Ngoài ra, Ninh Bình có lợi thế về địa lý: cửa ngõ miền Bắc, nằm trên
hệ thống giao thông xuyên Việt với nhiều dự án cao tốc được triển khai.
Ninh Bình nằm gần địa bàn kinh tế trọng điểm phía Bắc với tuyến hành
lang Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Sự phát triển du lịch Ninh Bình
nằm trong tổng thể phát triển du lịch của Việt Nam sẽ tạo đà hình thành
một tứ giác tăng trưởng du lịch: Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Ninh
Bình qua quốc lộ 1A, quốc lộ 10 và các sân bay Cát Bi, Nội Bài, hệ thống
cảng biển, cảng sông. Thủ đô Hà Nội là một trong những đầu mối của du
lịch Việt Nam. Ninh Bình có ưu thế rõ rệt về không gian và thời gian của
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
22
Thực địa Ninh Bình
vùng phụ cận Hà Nội nên không bị tính mùa vụ trong du lịch chi phối.
Sức ép đô thị mạnh mẽ của Hà Nội và các tỉnh châu thổ sông Hồng cũng
tạo cho Ninh Bình một lợi thế to lớn phát triển du lịch cuối tuần.
• Thực trạng tại một số điểm du lịch ở Ninh Bình
Nhà thờ đá Phát Diệm- một kỳ quan thiên chúa giáo ở Ninh Bình là
một điểm du lịch văn hóa- lịch sử. Nơi đây thu hút khá nhiều khách
tham quan du lịch văn hóa, tôn giáo. Do đây là một điểm du lịch nhân
văn nên thời gian du khách dừng chân lại không lâu thường chỉ kéo dài
nửa ngày vậy nên ở đây không có nhiều cơ sở lưu trú như khách sạn,
nhà nghỉ mà chủ yếu là các cửa hàng bán đồ lưu niệm phục vụ khách
tham quan. Các nơi phục vụ cho dịch vụ ăn uống tại đây không nhiều
và chưa có quy mô cụ thể, đa phần là do người dân địa phương tự phát
kinh doanh nên sẽ không tránh khỏi việc mất an toàn vệ sinh thực
phẩm. Thêm nữa xung quanh nhà thờ Phát Diệm vẫn còn trường hợp

người ăn xin, ăn mày gây sự khó chịu cho du khách cũng như làm mất
đi vẻ đẹp của chốn linh thiêng.
Tam Cốc- Bích Động: đây là 2 địa danh nổi tiếng về du lịch sinh thái,
cảnh quan không những vậy Bích Động cũng là nơi phục vụ tín
ngưỡng bởi có chùa Bích Động. Nơi đây có cảnh quan đẹp, thiên nhiên
ưu đãi nhiều nhưng khách du lịch đến đây ngoài việc được ngồi thuyền
tham quan và leo núi để đến với chùa Bích Động thì chưa có thêm sản
phẩm du lịch nào hấp dẫn du khách. Cơ sở lưu trú ở đây cũng chưa
phát triển. Những gian hàng bán đồ lưu niệm còn thưa thớt, nơi phục
vụ ăn uống không nhiều và chưa hợp vệ sinh.
Rừng Quốc Gia Cúc Phương: đây là khu rừng nguyên sinh với hệ
sinh thái rừng nhiệt đới đa dạng, phong phú phát triển đa dạng các loại
hình du lịch như nghỉ dưỡng, du lịch sinh thái, du lịch mạo hiểm hay
du lịch chữa bệnh Cơ sở lưu trú ở đây cũng khá phát triển nhưng các
dịch vụ khác như ăn uống, đồ lưu niệm vẫn chưa tốt. Chưa có những
hoạt động bổ ích để cho du khách có thể đóng góp vào việc bảo vệ
rừng, hệ sinh thái trong rừng.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
23
Thực địa Ninh Bình
Nhìn chung, các điểm du lịch trên đã có nhiều lợi thế về phát triển du
lịch song còn tồn tại một số vấn đề cần được cải thiện, khắc phục để có
thể thu hút khách du lịch trong và ngoài nước; lôi cuốn họ trở lại
những điểm du lịch đó.
III Giải pháp về các vấn đề còn tồn tại:
Những vấn đề về thức trạng tại các điểm du lịch trong chuyến đi thực
địa tại Ninh Bình của sinh viên A1K16 mà em vừa nêu trên chỉ là ý kiến
cá nhân nhận thấy và cảm thấy bất cập và cần được thay đổi. Vậy nên
trong phạm vi cho phép em chỉ nêu một vài giải pháp chủ quan như sau:
Đối với khu quần thể nhà thờ đá Phát Diệm các cơ quan chức năng

nên tổ chức lại cho việc kinh doanh buôn bán đồ lưu niệm, dịch vụ ăn
uống cho có quy hoạch hơn, chuyên nghiệp hơn để đảm bảo vệ sinh an
toàn thực phẩm, làm đa dạng các mặt hàng lưu niệm nhất là sản phẩm từ
mây cói truyền thống. Dẹp bỏ tình trạng ăn xin ăn mày tại khu vực này
tạo không khí trang nghiêm nơi đất Chúa.
Đối với khu du lịch Tam Cốc- Bích Động cũng cần quy hoạch rõ ràng
hơn nơi phục vụ ăn uống và bán đồ lưu niệm. Cần có nhiều cơ sở lưu trú
du lịch cho khách nghỉ qua đêm. Nên có đội ngũ hướng dẫn viên đi cùng
thuyền với khách du lịch để có thể giúp du khách hiểu biết về khu du lịch.
Tốt nhất nên sử dụng chính những người lái đò làm công việc này bằng
cách đào tạo, hướng dẫn họ.
Khu rừng Quốc Gia Cúc Phương hiện đã phát triển hệ thống cơ sở lưu
trú là các nhà sàn đã tạo sự hấp dẫn, ấn tượng cho khách tham quan vậy
nên tiếp tục phát huy và nâng cao trình độ phục vụ hơn nữa. Nên tổ chức
chương trình cho du khách có thể tham gia góp phần bảo vệ rừng, hệ sinh
thái để kích thích ý thức bảo vệ môi trường cho mỗi người. Và cũng nên
có hướng dẫn viên, người thông thạo địa hình đi cùng du khách trên
đường vào rừng
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
24
Thực địa Ninh Bình
Lời Kết
Ninh Bình thực sự là địa phương có tiềm năng lớn phát triển đa dạng các loại
hình du lịch mà tiêu biểu là các điểm du lịch như nhà thờ Phát Diệm, khu du lịch
Tam Cốc- Bích Động, rừng Quốc Gia Cúc Phương Chuyến đi thực địa tại Ninh
Bình đã giúp em mở mang được rất nhiều, đã biết thêm nhiều cảnh đẹp, sự trù
phú giàu có của thiên nhiên Việt Nam, bàn tay khối óc phi thường của ông cha
khi xây dựng nên nhà thờ đá Phát Diệm. Bên cạnh đó em cũng học hỏi được
nhiều kinh nghiệm trong cuộc sống từ chuyến đi này cũng như nhiệm vụ của
chúng ta là phải phát huy và phát triển hơn nữa những thế mạnh vốn có đồng thời

khai thác triệt để những vẻ đẹp còn tiềm ẩn của các vùng du lịch. Hơn hết,
chuyến đi thực tế đã giúp tập thể lớp A1K16 đoàn kết hơn, gắn bó hơn, yêu
thương và hiểu về nhau nhiều hơn. Điều này giúp chúng em có thể học tập tốt
hơn không chỉ bộ môn địa lý du lịch mà còn trong những môn học khác cũng như
giúp ích rất nhiều cho công việc tương lai là phục vụ trong ngành du lịch.
Thông qua bài thu hoạch này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn nhà trường,
khoa Du Lịch, ban giáo vụ và thầy giáo bộ môn Địa lý du lịch đã tạo điều kiện
cho chúng em có được chuyến đi thực tế này. Đây thực sự là cái mốc đầu tiên
đánh dấu những bước đi của chúng em tới những miền đất tươi đẹp của Tổ Quốc
và góp phần phát triển nên du lịch nước nhà.
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
25
Thực địa Ninh Bình
Tài liệu tham khảo
1: />2: />3: />4: />5: Vuonquocgiacucphuong
6: Sách Địa Lý Du Lịch ( giáo trình môn địa lý du lịch Viện Đại học Mở khoa Du
Lịch)
Vũ Thị Diệu Linh A1K6
26

×