Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng an bình trong bối cảnh việt nam hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 74 trang )

MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................1
LỜI MỞ ĐẦU..................................................................................................3
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH......................................................................................5
1. Khái niệm cạnh tranh.............................................................................5
2. Khái niệm năng lực cạnh tranh..............................................................6
3. Kinh nghiệm.............................................................................................7
3.1. Khái niệm ngân hàng thương mại......................................................7
3.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại...............9
3.3. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại........12
3.4. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại..............................................................................................15
3.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại dựa theo mơ hình Kim cương của Michael Porter...............26
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA
NGÂN HÀNG AN BÌNH..............................................................................30
1. Khái quát về quá trình hình thành, phát triển và tình hình hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng An Bình..............................................30
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng An Bình............30
1.2. Cơ cấu tổ chức của ABBANK.........................................................33
1.3. Tình hình hoạt động của ABBANK007 là năm phát triển vượt......36
2. Thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK.............39
2.1. Nguồn lực tài chính..........................................................................39
2.2. Năng lực quản trị, điều hành............................................................55
2.3. Trình độ công nghệ..........................................................................55

1


2.4. Uy tín, thương hiệu..........................................................................57


2.5. Phân tích năng lực cạnh tranh của Ngân hàng ABBANK theo mơ
hình Kim cương của Michael Porter.......................................................59
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CHI NHÁNH NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG
CHƯƠNG DƯƠNG......................................................................................63
1. Phương hướng , mục tiêu......................................................................63
1.1. Cơ hội đối với NH ABBANK..........................................................63
1.2. Thách thức đối với NH ABBANK...................................................65
2. Một số giải pháp và kiến nghị nâng cao năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng ABBANK................................................................................66
2.1. Giải pháp của NH.............................................................................67
2.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước và Chính phủ....................70
KẾT LUẬN....................................................................................................73

2


LỜI MỞ ĐẦU
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới, là
điều kiện tiền đề cần thiết để phát triển kinh tế quốc gia đi vào quỹ đạo chung
của thế giới thông qua việc tận dụng được dòng chảy vốn khổng lồ cùng với
công nghệ tiên tiến. Đẩy mạnh hội nhập ngân hàng, xây dựng hệ thống ngân
hàng vững mạnh trở thành kênh dẫn nhập vốn hàng đầu, là cách tốt nhất cho
nền kinh tế đang cần vốn như Việt Nam từng bước chuyển dịch cơ cấu vốn
theo định hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Hội nhập kinh tế
quốc tế, thị trường tài chính-tiền tệ Việt Nam sẽ phát triển mạnh hơn cả theo
chiều rộng và chiều sâu, đặc biệt là sự gia tăng hoạt động của các định chế tài
chính như các ngân hàng thương mại cổ phần, các tổ chức tài chính phi ngân
hàng và các tổ chức tài chính ngân hàng đa quốc gia. Thể chế kinh tế thị
trường ở Việt Nam sẽ tiếp tục được hoàn thiện theo hướng đầy đủ hơn, đồng

bộ hơn, minh bạch hơn và bình đẳng hơn giữa các chủ thể tham gia thị
trường. Rõ ràng là những biến đổi này sẽ tạo ra cho các ngân hàng Việt Nam
môi trường kinh doanh mới với nhiều điều kiện thuận lợi, mở ra nhiều cơ hội
kinh doanh và hợp tác cùng phát triển.
Tuy nhiên, chính sức ép của cạnh tranh và hội nhập sẽ buộc các ngân
hàng Việt Nam phải nỗ lực đổi mới để có thể tồn tại và phát triển. Hiện nay,
hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi can thiệp
của các cơ quan chính quyền, tình trạng tài chính yếu kém, khn khổ pháp lý
chưa hồn thiện, cơng nghệ ngân hàng tụt hậu so với các nước, nợ khó địi
cao, mơi trường kinh tế vĩ mô chưa ổn định đã đặt hệ thống ngân hàng vào
tình thế rủi ro khá cao. Vì vậy, lĩnh vực ngân hàng cần nhanh chóng hội nhập
cùng với hệ thống ngân hàng khu vực và thế giới, xây dựng hệ thống ngân
hàng có năng lực cạnh tranh vững mạnh đáp ứng đầy đủ yêu cầu về vốn và

3


cung ứng sản phẩm dịch vụ cho nền kinh tế đang trong q trình hội nhập.
Khơng nằm ngồi xu thế đó, Chi nhánh Ngân hàng Cơng thương Chương
Dương cũng xác định phải chủ động đẩy mạnh quá trình cải cách, tiếp tục đổi
mới triệt để và toàn diện hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh, vững bước trên
con đường hội nhập kinh tế quốc tế.
Dựa trên những phân tích trên, em chọn đề tài : "Một số giải pháp
nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình trong bối cảnh
Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế". Báo cáo thực tập nghiên cứu tình hình
hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình, trên cơ
sở đó tính tốn một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn
đưa ra những kiến nghị mong muốn góp một phần nhỏ trong q trình khơng
ngừng đổi mới và hồn thiện của NH.
Mục đích của đề tài nhằm đánh giá năng lực cạnh tranh của Ngân hàng

An Bình ở thời điểm hiện tại; đồng thời xác định các cản trở hạn chế năng lực
cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. Trên cơ sở đó, đề xuất
một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng trong thời gian
tới.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết
cấu theo 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của Ngân hàng An Bình
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng An Bình

4


CHƯƠNG 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG
LỰC CẠNH TRANH
1. Khái niệm cạnh tranh
Trước đây, khi nghiên cứu về chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã đề cập tới
vấn đề cạnh tranh của các nhà tư bản. Theo C.Mác: "Cạnh tranh tư bản chủ
nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành
giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và tiêu thụ hàng hoá để thu lợi
nhuận siêu ngạch". Ở đây, C.Mác đã đề cập tới vấn đề cạnh tranh trong xã hội
tư bản chủ nghĩa, mà đặc trưng của chế độ này là chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất. Do vậy, theo quan niệm này thì cạnh tranh có nguồn gốc
từ chế độ tư hữu. Cạnh tranh được xem xét là sự lấn át, chèn ép lẫn nhau để
tồn tại. Quan niệm đó về cạnh tranh được nhìn nhận từ góc độ tiêu cực.
Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây, cạnh tranh cũng được
nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực: cạnh tranh gắn với đổ vỡ, cạnh tranh là tiêu
diệt lẫn nhau, là “cá lớn nuốt cá bé”. Nhận thức không đầy đủ về cạnh tranh

đã dẫn tới không thừa nhận cạnh tranh, tạo ra sự độc quyền, nuôi dưỡng độc
quyền trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị trường hiện đại hiện nay, cạnh
tranh là động lực cho sự phát triển của doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Cạnh tranh thúc đẩy các doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất - kinh
doanh (năng lực tổ chức quản lý, trình độ cơng nghệ, trình độ tay nghề, ...),
nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực. Cạnh tranh
khơng phải chỉ có tranh giành, mà cạnh tranh luôn đi với hợp tác, cạnh tranh
trong sự hợp tác và bổ sung, hỗ trợ cho nhau. Do đó, ngày nay hầu hết các

5


nước trên thế giới đều thừa nhận cạnh tranh và coi cạnh tranh vừa là môi
trường vừa là động lực của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, cạnh tranh có thể được hiểu là sự ganh đua, là cuộc đấu
tranh gay gắt, quyết liệt giữa những chủ thể kinh doanh với nhau trên một thị
trường hàng hoá cụ thể nào đó nhằm giành giật khách hàng và thị trường,
thơng qua đó mà tiêu thụ được nhiều hàng hoá và thu được lợi nhuận cao.
Cạnh tranh là sức mạnh mà hầu hết các nền kinh tế thị trường tự do dựa vào
để đảm bảo rằng các doanh nghiệp thoả mãn được các nhu cầu và mong muốn
của người tiêu dùng. Khi có cạnh tranh, khơng một chính phủ nào cần phải
quy định các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng gì với số lượng, chất lượng và
giá cả thế nào. Cạnh tranh trực tiếp quy định những vấn đề đó với các doanh
nghiệp.
2. Khái niệm năng lực cạnh tranh
Hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về năng lực cạnh
tranh (còn gọi là sức cạnh tranh, khả năng cạnh tranh) của doanh nghiệp. Có
quan niệm gắn sức cạnh tranh với ưu thế của sản phẩm mà doanh nghiệp đưa
ra thị trường. Có quan điểm lại gắn sức cạnh tranh của doanh nghiệp theo thị

phần mà nó chiếm giữ, có người lại đồng nghĩa cơng cụ cạnh tranh với các chỉ
tiêu đo lường sức cạnh tranh của hàng hố, của doanh nghiệp, và thậm chí có
người cịn đồng nghĩa sức cạnh tranh với hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp...
Tuy nhiên có thể hiểu một cách chung nhất: “Năng lực cạnh tranh
chính là thực lực và lợi thế mà quốc gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm
dịch vụ) có thể huy động được để duy trì và cải thiện vị trí của nó so với các
đối thủ cạnh tranh khác trên thị trường thế giới một cách lâu dài và có ý chí
nhằm thu được lợi ích ngày càng cao cho nền kinh tế của mình và cho quốc
gia (ngành, doanh nghiệp hay sản phẩm dịch vụ) mình.”
6


Như vậy, năng lực cạnh tranh là một khái niệm động, được cấu thành
bởi nhiều yếu tố và chịu sự tác động của cả môi trường vi mô và vĩ mô, là kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố và chịu tác động của nhiều nhân tố bên trong
và bên ngoài của quốc gia ( ngành, doanh nghiệp, hay sản phẩm dịch vụ)
3. Kinh nghiệm
3.1. Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền
kinh tế. Các ngân hàng có thể được định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ mà
chúng thực hiện trong nền kinh tế. Vấn đề là ở chỗ các yếu tố trên đang
không ngừng thay đổi. Thực tế, rất nhiều tổ chức tài chính - bao gồm cả các
cơng ty kinh doanh chứng khốn, cơng ty mơi giới chứng khốn, quỹ tương
hỗ và cơng ty bảo hiểm hàng đầu đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ của
ngân hàng. Ngược lại, ngân hàng cũng đang đối phó với các đối thủ cạnh
tranh (các tổ chức tài chính phi ngân hàng) bằng cách mở rộng phạm vi cung
cấp dịch vụ về bất động sản và mơi giới chứng khốn, tham gia hoạt động bảo
hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác.
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về Ngân hàng thương mại. Cách

tiếp cận thận trọng nhất là có thể xem xét các tổ chức này trên phương diện
những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện đại: “Ngân hàng thương mại
là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng
nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”.

7


Ở Hoa Kỳ: Ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên
cung cấp các dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành cơng nghiệp dịch vụ
tài chính.
Ở Pháp: Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào đó
thường xun nhận của cơng chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức
khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng
hay dịch vụ tài chính.
Ở Việt Nam, theo Pháp lệnh Ngân hàng ngày 23/05/1990 của Hội
đồng Nhà nước xác định: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền
tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với
trách nhiệm hoàn trả và được phép sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện
nghiệp vụ chiết khấu và là phương tiện thanh toán.”
Như vậy, Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm
vụ cơ bản nhất của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng
thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và
bơm vào nơi khan thiếu. Hoạt động của ngân hàng thương mại nhằm mục
đích kinh doanh một hàng hóa đặc biệt đó là "vốn- tiền", trả lãi suất huy động
vốn thấp hơn lãi suất cho vay vốn, và phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi
nhuận của ngân hàng thương mại.. Hoạt động của ngân hàng thương mại phục

vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình doanh
nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Qua những khái niệm trên, ta có thể rút ra một số điểm đặc trưng của
Ngân hàng thương mại như sau:
 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký
thác của công chúng với trách nhiệm hoàn trả.

8


 Ngân hàng thương mại là một tổ chức được phép sử dụng ký
thác của công chúng để cho vay, chiết khấu và thực hiện các dịch
vụ tài chính khác
Hiện nay, ngân hàng thương mại thực sự đóng một vai trị rất quan
trọng, vì nó đảm nhận vai trị giữ cho mạch máu (dòng vốn) của nền kinh
tế được lưu thơng và có vậy mới góp phần bơi trơn cho hoạt động của một
nền kinh tế thị trường còn non yếu.
3.2. Khái niệm năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể hiện ở thực
lực và lợi thế của Ngân hàng thương mại đó so với đối thủ cạnh tranh trong
việc thoả mãn tốt nhất các đòi hỏi của khách hàng để thu lợi ngày càng cao
hơn. Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại trước hết
phải được tạo ra từ thực lực của chính ngân hàng đó. Đây là các yếu tố nội
hàm của mỗi ngân hàng, khơng chỉ được tính bằng các tiêu chí về cơng nghệ,
tài chính, nhân lực, tổ chức quản trị … một cách riêng biệt mà cần đánh giá,
so sánh với các đối tác cạnh tranh trong hoạt động trên cùng một lĩnh vực,
cùng một thị trường. Năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại thể
hiện ở khả năng cung cấp các sản phẩm và dịch vụ với giá cả thấp hoặc hợp
lý, chất lượng cao, uy tín cao, thực hiện tốt các cam kết với các bạn hàng và
làm hài lòng khách hàng. Trên cơ sở các so sánh đó, muốn tạo nên năng lực

cạnh tranh, ngồi các yếu tố nội hàm, Ngân hàng thương mại còn phải tạo lập
được lợi thế so sánh với đối tác của mình. Nhờ lợi thế này, Ngân hàng thương
mại có thể thoả mãn tốt hơn các đòi hỏi của khách hàng mục tiêu cũng như lôi
kéo được khách hàng của đối tác cạnh tranh.
Nói tóm lại, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng thương mại là sự tổng
hợp của các yếu tố từ công tác chỉ đạo và điều hành, chất lượng đội ngũ cán
bộ, uy tín và thương hiệu của Ngân hàng thương mại. Năng lực cạnh tranh

9


của ngân hàng được đo bằng khả năng duy trì và mở rộng thị phần, khả năng
thu lợi nhuận của Ngân hàng trong mơi trường cạnh tranh trong và ngồi
nước.
Để duy trì sự tồn tại và phát triển trong một thời gian dài địi hỏi Ngân
hàng thương mại phải có một năng lực cạnh tranh tốt. Năng lực cạnh tranh
của Ngân hàng thương mại được cấu thành nên từ những lợi thế cạnh tranh
trong từng giai đoạn của Ngân hàng. Đó là những lợi thế Ngân hàng có được
tạo ra và sử dụng trong cạnh tranh, nhờ đó Ngân hàng có thể tạo ra một số
tính trội hơn, ưu việt hơn so với đối thủ trực tiếp. Xem xét dưới góc độ hoạt
động cơ bản, các lĩnh vực cạnh tranh chủ yếu của Ngân hàng thương mại
được phân như sau:
* Cạnh tranh trong lĩnh vực huy động vốn:
Huy động vốn là một trong những hoạt động tạo vốn quan trọng hàng
đầu của các Ngân hàng thương mại. Với chức năng và nhiệm vụ của mình,
các Ngân hàng thương mại đã thu hút, tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm
thời chưa sử dụng của các doanh nghiệp, các tầng lớp dân cư vào Ngân hàng.
Mặt khác, trên cơ sở nguồn vốn huy động được, Ngân hàng sẽ tiến hành hoạt
động cho vay phục vụ cho nhu cầu phát triển sản xuất, cho các mục tiêu phát
triển kinh tế của vùng, ngành kinh tế, các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu

vốn của xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Với hoạt động huy động vốn, các Ngân hàng thương mại đã thực sự
huy động được sức mạnh tổng hợp của nền kinh tế vào quá trình sản xuất, lưu
thơng hàng hố. Nếu như khơng có Ngân hàng thương mại, việc huy động của
cải xã hội vào quá trình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng sẽ chậm đi rất nhiều.
Nhờ hoạt động này của Ngân hàng thương mại, tiền tiết kiệm của cá nhân,
đoàn thể, các tổ chức kinh tế được huy động vào quá trình vận động của nền
kinh tế. Nó chuyển của cải, tài nguyên xã hội từ nơi chưa sử dụng, còn tiềm

10


tàng vào quá trình sử dụng phục vụ cho sản xuất kinh doanh nâng cao mức
sống xã hội.
Hoạt động huy động vốn của Ngân hàng ngày càng mở rộng, uy tín và
vị thế của Ngân hàng sẽ càng được khẳng định, Ngân hàng sẽ chủ động trong
hoạt động kinh doanh, mở rộng quan hệ với các thành phần kinh tế, tổ chức,
dân cư. Điều quan trọng là Ngân hàng cần phải căn cứ vào chiến lược, mục
tiêu phát triển kinh tế của từng vùng, từng ngành trong cả nước,… để từ đó
đưa ra các loại hình huy động vốn phù hợp, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho
công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Cạnh tranh trong lĩnh vực sử dụng vốn.
Đây là hoạt động trực tiếp đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Đối
tượng kinh doanh của Ngân hàng thương mại là tiền tệ và quyền sử dụng tiền
tệ, do vậy lợi tức của Ngân hàng có được chủ yếu từ việc đầu tư và cho vay.
Nếu một Ngân hàng huy động được nguồn vốn dồi dào nhưng khơng có kế
hoạch sử dụng vốn hợp lý, hiệu quả thì khơng những khơng đem lại lợi nhuận
cho Ngân hàng, ngược lại cịn khơng có nguồn bù đắp chi phí từ việc huy
động. Do vậy, có thể nói sử dụng vốn là hoạt động hết sức quan trọng của mỗi
Ngân hàng. Hoạt động sử dụng vốn bao gồm các hoạt động ngân quỹ, cho

vay, đầu tư tài chính,…
Một Ngân hàng có hoạt động sử dụng vốn với hiệu quả cao sẽ nâng
cao vai trị, uy tín của Ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường,
từ đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến giao dịch với mình, tạo điều kiện
thuận lợi để mở rộng hoạt động huy động vốn. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi
Ngân hàng là phải thường xuyên bám vào các mục tiêu phát triển kinh tế của
vùng, ngành, đất nước,… nhằm đưa ra các hình thức đầu tư đúng đắn, có hiệu
quả cao, thực hiện nghiên cứu thị trường, nghiên cứu của ngân hàng. Ở các

11


nước phát triển, Ngân hàng thương mại thực hiện rất nhu cầu sử dụng vốn của
xã hội, thực hiện cho vay theo dự án đầu tư, chương trình phục hồi sản xuất.
* Cạnh tranh trong lĩnh vực cung cấp các dịch vụ trung gian của
ngân hàng
Đó là các hoạt động Ngân hàng cung ứng dịch vụ phục vụ khách hàng.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, các dịch vụ của Ngân hàng cũng phát triển
theo để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú đa dạng của khách hàng, Ngân
hàng thực hiện hoạt động trung gian và được hưởng thu nhập từ phí hoặc hoa
hồng. Các hoạt động trung gian phản ánh mức độ phát triển nhiều hoạt động
trung gian và ln có dịch vụ cung cấp nhiều tiện ích cho khách hàng. Thu
nhập từ các hoạt động trung gian chiếm khoảng 30-35% tổng thu nhập của
Ngân hàng.
Việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ cung ứng sẽ làm tăng thu nhập
cho Ngân hàng, tăng uy tín và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng. Có thể
thấy, xu hướng nguồn thu về dịch vụ trung gian ngày càng tăng và chiếm tỷ lệ
lớn trong tổng doanh thu về kinh doanh của Ngân hàng. Đồng thời với các
hoạt động trung gian này, ngân hàng thương mại góp phần làm tăng khả năng
chu chuyển của đồng vốn, giảm lượng tiền mặt trong lưu thơng, do đó tiết

kiệm được chi phí lưu thông trong xã hội. Mặt khác, thực hiện tốt các hoạt
động này, Ngân hàng sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn. Điều đó cũng
tạo điều kiện phát triển hoạt động huy động vốn và cho vay của Ngân hàng.
3.3. Tính đặc thù trong cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại
Giống như bất cứ loại hình đơn vị nào trong kinh tế thị trường, các
Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn phải đối mặt với sự cạnh tranh
gay gắt, không chỉ từ các Ngân hàng thương mại khác, mà từ tất cả các tổ
chức tín dụng đang cùng hoạt động kinh doanh trên thương trường với mục
tiêu là để giành giật khách hàng, tăng thị phần tín dụng cũng như mở rộng

12


cung ứng các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế. Tuy vậy, so với sự
cạnh tranh của các tổ chức kinh tế khác, cạnh tranh giữa các Ngân hàng
thương mại có những đặc thù nhất định. Cụ thể:
(1) Kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực kinh doanh rất nhạy
cảm, chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý,
truyền thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất
cũng đều tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến mơi trường kinh doanh
chung. Chẳng hạn: chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây
nên cơn chấn động rất lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ
chức tín dụng. Một Ngân hàng thương mại hoạt động yếu kém, khả năng
thanh khoản thấp cũng có thể trở thành gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế
và dân chúng trên địa bàn… Chính vì vậy, trong kinh doanh, các Ngân hàng
thương mại tuy phải cạnh tranh để từng bước mở rộng khách hàng, mở rộng
thị phần, nhưng cũng không thể cạnh tranh bằng mọi giá, sử dụng mọi thủ
đoạn, bất chấp pháp luật để thơn tính đối thủ của mình, bởi vì, nếu đối thủ là
các Ngân hàng thương mại khác bị suy yếu dẫn đến sụp đổ, thì những hậu quả
đem lại thường là rất to lớn, thậm chí dẫn đến đổ vỡ ln chính Ngân hàng

thương mại này do tác động dây chuyền.
(2) Hoạt động kinh doanh của các Ngân hàng thương mại có liên quan
đến tất cả các tổ chức kinh tế, chính trị - xã hội, đến từng cá nhân thông qua
các hoạt động huy động tiền gửi tiết kiệm, cho vay cũng như các loại hình
dịch vụ tài chính khác; đồng thời, trong hoạt động kinh doanh của mình, các
Ngân hàng thương mại cũng đều mở tài khoản cho nhau để cùng phục vụ các
đối tượng khách hàng chung. Chính vì vậy, nếu như một Ngân hàng thương
mại bị khó khăn trong kinh doanh, có nguy cơ đổ vỡ, thì tất yếu sẽ tác động
dây chuyền đến gần như tất cả các Ngân hàng thương mại khác, không những
thế, các tổ chức tài chính phi ngân hàng cũng sẽ bị ảnh hưởng. Đây quả là

13


điều mà các Ngân hàng thương mại không bao giờ mong muốn. Chính vì vậy,
các Ngân hàng thương mại trong kinh doanh luôn vừa phải cạnh tranh lẫn
nhau để dành giật thị phần, nhưng luôn phải hợp tác với nhau, nhằm hướng
tới một môi trường lành mạnh để tránh rủi ro hệ thống.
(3) Do hoạt động của các Ngân hàng thương mại có liên quan đến tất
cả các chủ thể, đến mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự
hoạt động của các Ngân hàng thương mại mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống,
tất cả Ngân hàng Trung ương các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường
này và đưa ra hệ thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ
ra những bài học đắt giá, khi mà Ngân hàng Trung ương thờ ơ trước những
diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường
tài chính - tiền tệ làm suy sụp toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Chính vì vậy, sự
cạnh tranh trong hệ thống các Ngân hàng thương mại không thể dẫn đến làm
suy yếu và thơn tính lẫn nhau như các loại hình kinh doanh khác trong nền
kinh tế.
(4) Hoạt động của các Ngân hàng thương mại liên quan đến lưu

chuyển tiền tệ, không chỉ trong phạm vi một nước, mà có liên quan đến nhiều
nước để hỗ trợ cho các hoạt động kinh tế đối ngoại, do vậy, kinh doanh trong
hệ thống Ngân hàng thương mại chịu sự chi phối của nhiều yếu tố trong nước
và quốc tế, như: Môi trường pháp luật, tập quán kinh doanh của các nước, các
thông lệ quốc tế… đặc biệt nó chịu sự chi phối mạnh mẽ của điều kiện hạ
tầng cơ sở tài chính, trong đó cơng nghệ thơng tin đóng vai trị cực kỳ quan
trọng, có tính chất quyết định đối với hoạt động kinh doanh của các Ngân
hàng này. Điều đó cũng có nghĩa là, sự cạnh tranh trong hệ thống các Ngân
hàng thương mại trước hết phải chịu sự điều chỉnh bởi rất nhiều thông lệ, tập
quán kinh doanh tiền tệ của các nước, sự cạnh tranh trước hết phải dựa trên
nền tảng kỹ thuật công nghệ đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh

14


tối thiểu; bởi vì, một Ngân hàng thương mại mở ra một loại hình dịch vụ cung
ứng cho khách hàng là đã phải chấp nhận cạnh tranh với các Ngân hàng
thương mại khác đang hoạt động trong cùng lĩnh vực, tuy nhiên, muốn lĩnh
vực dịch vụ này được thực hiện thì địi hỏi phải đáp ứng tối thiểu về điều kiện
hạ tầng cơ sở tài chính mà thiếu nó thì không thể hoạt động được. Như vậy,
sự cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại là loại hình cạnh tranh bậc cao,
đòi hỏi những chuẩn mực khắt khe hơn bất cứ loại hình kinh doanh nào khác.
3.4. Một số tiêu chí đánh giá năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
thương mại
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, cạnh tranh mang tính tất yếu,
khách quan và đó cũng là động lực cho sự phát triển. Tuy nhiên, trong nền
kinh tế thị trường như hiện nay, cạnh tranh sẽ không chỉ là tạo động lực để
phát triển mà còn phải đối mặt với những yếu tố không lành mạnh nhằm
chiếm lĩnh ưu thế trên thương trường, để thu lợi nhuận cao hơn và đương
nhiên nảy sinh sự thơn tính, sáp nhập, phá sản, giải thể và cả những rủi ro về

đạo đức…
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nói chung và Ngân hàng
thương mại nói riêng được biểu hiện bằng tiềm năng về tài chính, quản trị
điều hành, chất lượng đội ngũ, chất lượng và hiệu quả hoạt động, tốc độ đổi
mới về công nghệ và sản phẩm… Năng lực tài chính của một Ngân hàng
thương mại là khả năng tạo lập nguồn vốn và sử dụng vốn phát sinh trong quá
trình hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thể hiện ở quy mơ vốn tự có, chất
lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn, khả năng sinh lời và khả năng đảm bảo
an toàn trong hoạt động kinh doanh.
Một Ngân hàng thương mại có năng lực tài chính tốt phải là Ngân
hàng thương mại ln duy trì được hoạt động bình thường và phát triển một
cách ổn định, bền vững trong mọi điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội ở

15


trong nước và trên thế giới. Ngân hàng thương mại có khả năng cung cấp tín
dụng có hiệu quả và các dịch vụ tài chính cho nền kinh tế. Ngân hàng thương
mại luôn đáp ứng đầy đủ yêu cầu khách hàng về vốn và các dịch vụ ngân
hàng phù hợp với quá trình phát triển kinh tế, xã hội trong nước và thế giới.
Ngân hàng thương mại còn phải bảo đảm được sự tồn tại và phát triển của
mình một cách an tồn, khơng xảy ra những đổ vỡ hay phá sản. Năng lực tài
chính của một Ngân hàng thương mại đóng vai trị vơ cùng quan trọng. Năng
lực tài chính của một Ngân hàng thương mại càng được đảm bảo thì mức độ
rủi ro trong hoạt động ngân hàng càng thấp và năng lực cạnh tranh của Ngân
hàng thương mại trên thị trường càng cao. Do vậy, năng lực tài chính của
Ngân hàng thương mại phải khơng ngừng được nâng cao và hồn thiện và là
điều kiện khơng thể thiếu được bất cứ một Ngân hàng thương mại nào.
Năng lực tài chính của Ngân hàng thương mại được đánh giá dựa trên
các yếu tố định lượng và các yếu tố định tính.

+ Các yếu tố định lượng thể hiện nguồn lực tài chính hiện có, bao
gồm: quy mơ vốn, chất lượng tài sản, khả năng thanh toán và khả năng sinh
lời…
+ Các yếu tố định tính thể hiện khả năng khai thác, quản lý, sử dụng
các nguồn lực tài chính được thể hiện qua trình độ tổ chức, trình độ quản lý,
trình độ cơng nghệ, chất lượng nguồn nhân lực…
Như vậy, năng lực cạnh tranh của một Ngân hàng thương mại có thể
được đánh giá qua các tiêu chí sau:
(1) Nguồn lực tài chính: bao gồm yếu tố vốn, chất lượng tài sản, khả
năng thanh toán và khả năng sinh lời…
* Yêú tố vốn
Nguồn vốn của Ngân hàng được hình thành theo nhiều kênh dẫn khác
nhau, trong đó tiền gửi của khách hàng là nguồn tiền quan trọng nhất, chiếm

16


tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của Ngân hàng. Nguồn vốn đóng vai trị
quan trọng và ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng hoạt động của Ngân hàng. Nó
cung cấp năng lực tài chính cho q trình tăng trưởng, mở rộng quy mô, phạm
vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản phẩm dịch vụ mới của
Ngân hàng thương mại; giúp Ngân hàng thương mại chống lại rủi ro phá sản,
bù đắp những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ; bảo vệ người gửi tiền khi gặp
rủi ro trong hoạt động kinh doanh, đồng thời nâng cao uy tín của Ngân hàng
thương mại với khách hàng, các nhà đầu tư. Vì vậy có thể khẳng định: Vốn là
yếu tố quan trọng tạo đối với Ngân hàng thương mại, vì nó nói nên sức mạnh
và khả năng cạnh tranh của Ngân hàng thương mại trên thị trường trong nước.
Đồng thời, đó cũng là cơ sở để Ngân hàng thương mại mở rộng hoạt động tới
các thị trường tài chính khu vực và quốc tế. Do đó, quy mơ vốn có thể coi là
tiêu chí hết sức quan trọng khi đánh giá năng lực cạnh tranh của một ngân

hàng thương mại, thể hiện năng lực tài chính vốn có của chính bản thân Ngân
hàng thương mại.
Đối với yếu tố vốn của Ngân hàng, ta sẽ tập trung đánh giá theo hai
chỉ tiêu sau:
 Quy mô và tốc độ tăng trưởng nguồn vốn, đặc biệt là tiền gửi
thanh toán, tiền gửi tiết kiệm và vay: Đây là chỉ tiêu đánh giá khối lượng vốn
huy động. Nó có ảnh hưởng đến quy mô phát triển hoạt động ngân hàng bởi
hoạt động kinh doanh cơ bản của ngân hàng là huy động để cho vay và các
hoạt động thanh toán khác. Nếu nguồn vốn khơng ổn định và có chất lượng
không tốt sẽ dễ làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán và đưa đến thua
lỗ, phá sản. Vậy mặt chất lượng biểu hiện trong tính hiệu quả về tác dụng
thực tiễn và mức độ ảnh hưởng của quá trình thực hiện kế hoạch kinh doanh
trong từng giai đoạn cụ thể.

17


 Cơ cấu nguồn vốn và sự thay đổi cơ cấu: Cơ cấu vốn, sự biến
động về cơ cấu vốn sẽ ảnh hưởng đến cơ cấu cho vay, đầu tư, bảo lãnh và kéo
theo là rủi ro, biến động về thu nhập, vì vậy cơ cấu vốn cần phải có sự ổn định
và phù hợp với hoạt động của ngân hàng.
* Chất lượng tài sản:
Hoạt động chính của Ngân hàng thương mại là tìm kiếm các khoản
vốn để sử dụng nhằm thu lợi nhuận. Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo
nên các loại tài sản khác nhau của Ngân hàng. Do Ngân hàng thương mại là
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ nên phần lớn tài sản của Ngân hàng là các tài
sản tài chính, bao gồm các hợp đồng cho vay, hợp đồng thuê - mua, các
chứng khoán, các khoản tiền gửi ... ( tài sản sinh lời), một phần nhỏ trong
khối tài sản của Ngân hàng là tài sản cố định như nhà cửa, trang thiết bị ...( tài
sản khơng sinh lời), trong đó cho vay và đầu tư là hai loại tài sản lớn và quan

trọng của Ngân hàng. Mỗi loại tài sản được hình thành theo các cách thức
khác nhau, vì những mục tiêu khác nhau song đều tập trung đảm bảo an toàn
và sinh lợi cho Ngân hàng.
Một danh mục tài sản nếu bao gồm phần lớn các tài sản rủi ro cao sẽ
làm giảm uy tín, hạn chế thu nhập của Ngân hàng, hạn chế Ngân hàng mở
rộng quy mô trong môi trường kinh doanh đầy biến động, khả năng mở rộng
thị trường nguồn vốn của Ngân hàng sẽ bị giảm sút. Nguồn tiền suy giảm
nhanh và mạnh có thể đẩy Ngân hàng đến phá sản. Như vậy, chất lượng tài
sản của Ngân hàng thương mại là một chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền
vững về tài chính, năng lực quản lý của một tổ chức tín dụng.
* Khả năng thanh tốn ( Tính thanh khoản):
Tính thanh khoản của Ngân hàng là khả năng của Ngân hàng trong
việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Thực hiện chức năng trung
gian tài chính, trung gian thanh tốn, Ngân hàng thường xuyên phải duy trì

18


khả năng thanh tốn, tức duy trì thanh khoản của Ngân hàng. Việc đáp ứng
nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách thương xuyên và trong những
trường hợp đặc biệt khẩn cấp là yêu cầu cấp thiết và là nội dung quan trọng
trong công tác quản lý của Ngân hàng nhằm hạn chế rủi ro. Nó liên quan tới
sự tồn tại và phát triển của mỗi Ngân hàng và của cả hệ thống.
Tính thanh khoản của Ngân hàng được tạo lập bởi tính thanh khoản
của tài sản và tính thanh khoản của nguồn. Do vậy, một Ngân hàng có tính
thanh khoản cao khi có nhiều tài sản thanh khoản hoặc có khả năng mở rộng
nguồn nhanh với chi phí thấp hoặc cả hai, phù hợp với nhu cầu thanh khoản
* Khả năng sinh lời:
Sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng chủ yếu dựa vào khả năng sinh
lời của Ngân hàng. Cách an tồn tuyệt đối là khơng làm gì cả. Tuy nhiên đối

với Ngân hàng, giữ tiền trong két cũng khơng phải là giải pháp an tồn. Tăng
khả năng sinh lời có thể coi là cách đảm bảo an tồn nhất. Nó là cách tốt nhất
để có thể trả lương cao cho người lao động, để tăng năng suất và tính liêm
khiết rất cần thiết đối với cán bộ Ngân hàng. Đồng thời, nó là biện pháp quan
trọng để Ngân hàng tăng quỹ tích luỹ ( tăng vốn của chủ), thiết lập quỹ dự
phòng lớn, đủ sức chống đỡ rủi ro.
Khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại gắn liền với chất lượng
tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản của Ngân hàng thương mại. Nâng cao chất
lượng tài sản, chất lượng nguồn vốn cũng chính là nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của Ngân hàng thương mại. Khả năng sinh lời là chỉ tiêu
tổng hợp đánh giá hiệu quả kinh doanh và mức độ phát triển của một Ngân
hàng thương mại. Để đánh giá khả năng sinh lời của Ngân hàng thương mại,
người ta thường sử dụng các chỉ tiêu lợi nhuận ròng trên tài sản có (ROA), chỉ
tiêu lợi nhuận rịng trên vốn tự có (ROE) hoặc chỉ tiêu lợi nhuận rịng trên
doanh thu.

19


 Chỉ tiêu lợi nhuận rịng trên tài sản có (ROA):
ROA

=

Lợi nhuận sau thuế
Tổng tài sản

Ý nghĩa của chỉ tiêu này một đồng tài sản có tạo ra bao nhiêu đồng lợi
nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy chất lượng của cơng việc quản lý tài sản có - tài
sản có sinh lời càng lớn thì hệ số này càng lớn

 Chỉ tiêu lợi nhuận rịng trên vốn tự có (ROE):

ROE =

Lợi nhuận sau thuế
Tài sản sinh lãi

Ý nghĩa của chỉ tiêu này là một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại, khả năng sinh lời trên một đồng vốn của Ngân hàng.
Hệ số này càng lớn thì khả năng sinh lời tài chính càng lớn.
(2) Chất lượng sản phẩm dịch vụ:
Chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn là vấn đề quan tâm của mọi khách
hàng và của mọi ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ ngày nay trở thành
một lợi thế cạnh tranh mang ý nghĩa sống còn đối với mọi Ngân hàng thương
mại.
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, cung cấp
các sản phẩm dịch vụ cho khách hàng. Trong xu hướng phát triển ngân hàng
tại các nền kinh tế phát triển hiện nay, ngân hàng được coi như một siêu thị
dịch vụ, một bách hố tài chính với hàng trăm, thậm chí hàng nghìn dịch vụ
khác nhau tuỳ theo cách phân loại và tuỳ theo trình độ phát triển của ngân
hàng. Ngân hàng cung ứng các sản phẩm dịch vụ là để đáp ứng nhu cầu của

20


khách hàng. Nếu như chất lượng của các sản phẩm dịch vụ ngày càng hồn
hảo, có chất lượng cao thì khách hàng sẽ gắn bó lâu dài và chấp nhận ngân
hàng. Không những vậy, những lời khen, sự chấp nhận, thoả mãn về chất
lượng của khách hàng hiện hữu họ sẽ thơng tin tới những người khác có nhu

cầu dịch vụ tìm đến ngân hàng để giao dịch. Điều này góp phần nâng cao uy
tín, thương hiệu của Ngân hàng, tạo điều kiện để Ngân hàng mở rộng mạng
lưới hoạt động, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Như vậy, chất lượng sản phẩm dịch vụ luôn được đánh giá theo quan
điểm của khách hàng. Nó thể hiện qua sự tin tưởng, cảm tình, ưa thích của
khách hàng đối với dịch vụ ngân hàng. Chất lượng sản phẩm dịch vụ phụ
thuộc rất lớn vào chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ. Ngoài ra,
đối tượng kinh doanh của các Ngân hàng thương mại là tiền tệ, nên chất
lượng dịch vụ không chỉ được đánh giá thông qua chất lượng phục vụ của
nhân viên Ngân hàng mà còn được đánh giá thơng qua độ an tồn chính xác
trong xử lý nghiệp vụ, tính đơn giản, thuận tiện trong giao dịch và khoảng
thời gian cần thiết để có thể hoàn tất một giao dịch.
Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng
thương mại bao gồm:
 Chất lượng nhân viên trực tiếp cung ứng dịch vụ.
 Độ an tồn, chính xác.
 Thủ tục giao dịch.
 Tốc độ xử lý giao dịch.
(3) Chất lượng nguồn nhân lực:
Sự phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính ngân hàng đòi hỏi
nguồn cung cấp nhân lực rất lớn, nhất là nguồn nhân lực có kinh nghiệm làm
việc và đáp ứng được nhu cầu mới. Bởi vì theo nguyên lý, con người là yếu tố
quyết định.

21


Về mặt quản lý: Nếu ngân hàng quản lý tốt về mặt nhân sự, tài sản,
nguồn vốn, phòng tránh rủi ro tốt nhất, quản lý các danh muc đầu tư hiệu quả
thì hoạt động của ngân hàng sẽ đảm bảo an tồn và tăng trưỏng, tăng uy tín,

thu hút khách hàng.
Về mặt nghiệp vụ: Với trình độ nghiệp vụ cao, mọi thao tác nghiệp vụ
thực hiện chính xác, hiệu quả, tác phong làm việc nhiệt tình, cởi mở, tạo điều
kiện thuận lợi cho khách hàng sẽ gây ấn tượng tốt đối với khách hàng. Khách
hàng là người có quyền lựa chọn, vì vậy họ sẽ chọn nơi làm họ hài lòng nhất
để gửi tiền, vay tiền tiền và sử dụng các dịch vụ khác của ngân hàng cung cấp.
Chính vì vậy, để nâng cao năng lực cạnh tranh trước yêu cầu của hội
nhập, các Ngân hàng thương mại cần hết sức quan tâm nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực và có chiến lược lâu dài phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng cao.
Chất lượng nguồn nhân lực có thể được đánh giá thông qua các chỉ
tiêu sau:
 Số lượng lao động
 Độ tuổi lao động
 Cơ cấu lao động qua các cấp học như: trung cấp, cao đẳng,
đại học ...
 Trình độ ngoại ngữ, tin học ...
(4) Năng lực quản trị, điều hành:
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng và dịch vụ Ngân hàng. Cũng như các doanh
nghiệp khác, các Ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh nhằm mục
đích sinh lời. Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng có nhiều yếu tố khách
quan và chủ quan mang lại rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên không tránh
khỏi rủi ro. Từng nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng nếu không được quản lý

22


theo những qui trình chặt chẽ cũng có nhiều khả năng rủi ro. Ví dụ: các
nghiệp vụ tín dụng, bảo lãnh, thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, tiền tệ kho quỹ,

huy động và sử dụng vốn,...Vì vậy cơng tác quản trị trong hoạt động kinh
doanh Ngân hàng giữ vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa, hạn chế và xử
lý rủi ro, đảm bảo hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Quản trị ngân hàng là điều hành những quan hệ liên quan đến việc xây
dựng chiến lược, chiến thuật, phân tích, nghiên cứu, điều chỉnh, kiểm tra,
quản lý tài chính, hoạt động marketing, quản lý nhân sự và điều hành các
nghiệp vụ ngân hàng. Quản trị ngân hàng tác động đến giá trị và hoạt động
của Ngân hàng, đồng thời quản trị ngân hàng cũng tác động đến khả năng
chấp nhận rủi ro của ngân hàng và rủi ro của khủng hoảng tài chính, cả đối
với các ngân hàng cá thể và toàn bộ hệ thống ngân hàng của nền kinh tế.
Quản trị ngân hàng tốt là một trong những cơ sở tạo niềm tin của công chúng
vào ngân hàng. Do vậy, việc quản trị trong Ngân hàng thương mại có vai trị
quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển của nó.
(5) Trình độ cơng nghệ:
Ngày nay các Ngân hàng thương mại cạnh tranh với nhau theo hướng
phát triển đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng đi kèm với việc nâng cao chất
lượng dịch vụ, mà chất lượng dịch vụ ngân hàng ln phụ thuộc và trình độ
cơng nghệ ngân hàng. Nếu trình độ cơng nghệ ngân hàng khơng tiên tiến, hiện
đại thì chất lượng dịch vụ cũng khơng thể nâng cao được. Do đó, một xu thế
tất yếu là các Ngân hàng thương mại phải ứng dụng công nghệ tiên tiến để
phát triển và nâng cao chất lựong dịch vụ ngân hàng. Việc ứng dụng và phát
triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại là vấn đề tất yếu, vấn đề sống còn của
các Ngân hàng nhằm nâng cao năng lực hoạt động, năng lực cạnh tranh của
các Ngân hàng trong q trình hội nhập. Nó giúp cho Ngân hàng thoả mãn
hơn trước các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Nếu một ngân hàng

23


ứng dụng và sử dụng cơng nghệ có hiệu quả thì Ngân hàng đó sẽ mở rộng

khơng giới hạn về không gian hoạt động, thời gian phục vụ và cung cấp
những dịch vụ Ngân hàng mới tối đa hoá tiện ích cho khách hàng.
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, việc thu thập thông tin là
rất cần thiết. Nhờ có hệ thống tin học hiện đại, Ngân hàng có thể thu thập
thông tin về khách hàng, về thị trường tốt hơn, qua đó có thể xác định được
thị trường đầu tư vốn có hiệu quả, phát triển nghiệp vụ và dịch vụ của mình,
hạn chế rủi ro trong kinh doanh, tạo điều kiện mở rộng vốn tự có.
Như vậy, xác định đúng tầm quan trọng của công nghệ và việc hiện
đại hố cơng nghệ là một trong những điều kiện cơ bản để hướng tới việc đảm
bảo các chuẩn mực quốc tế của các Ngân hàng thương mại Việt Nam trong
quá trình cạnh tranh và hội nhập. Hiện đại hố cơng nghệ ngân hàng là điều
tất yếu phù hợp với tiềm lực tài chính của ngân hàng, phù hợp với mặt bằng
chung về công nghệ của đất nước, đảm bảo xu thế chung của khu vực và quốc
tế.
Trình độ công nghệ của Ngân hàng được thể hiện qua những dịch vụ
mà ngân hàng đã và đang áp dụng để nâng cao hiệu quả hoạt động.
(6) Uy tín thương hiệu của Ngân hàng:
Thương hiệu là tài sản vô cùng quý giá đối với doanh nghiệp nói
chung và ngân hàng nói riêng. Thương hiệu là yếu tố đầu tiên và quan trọng
nhất tạo nên khả năng nhận biết, gợi nhớ, phân biệt và định hướng cho khách
hàng sử dụng sản phẩm dịch vụ. Ngày nay, thương hiệu càng có ý nghĩa rất
quan trọng và việc xây dựng thương hiệu là cả một q trình khó khăn. Bởi lẽ,
các đối thủ cạnh tranh cũng sẽ có những phản ứng rất nhanh và khách hàng
yêu cầu cao hơn đối với một sản phẩm. Do đó, phải xem việc xây dựng
thương hiệu là một q trình đầu tư dài hạn và phải có đường đi nước bước
thích hợp. thương hiệu khơng phụ thuộc hồn toàn vào thời gian xuất hiện

24



trên thị trường, mà còn nhiều yếu tố khác như thông tin, chất lượng về sản
phẩm, sự truyền tải những thơng tin, thương hiệu đó v.v đến với người tiêu
dùng một các chính xác và nhanh nhất. Trong thời đại ngày nay, với hệ thống
mạng internet tồn cầu thì mọi ngăn cách về địa lý coi như khơng có. Các
doanh nghiệp sử dụng hệ thống Internet, Website làm kênh truyền thông trực
tiếp truyền tải các chiến lược quảng bá, xây dựng thương hiệu một cách hữu
hiệu. Đối với một ngân hàng thương mại, việc xây dựng thương hiệu cịn khó
khăn hơn do tính đặc thù của các sản phẩm. Đó là tính chất vơ hình và thường
có nhiều điểm giống nhau giữa các sản phẩm, dịch vụ của các ngân hàng. Do
đó, thương hiệu đối với một Ngân hàng thương mại không chỉ đơn thuần là
một nhãn hiệu, một cái tên mà nó bao gồm cả uy tín, chất lượng, giá cả sản
phẩm dịch vụ, phong cách giao dịch và văn hoá của mỗi ngân hàng.
Thương hiệu được coi như một tài sản có giá trị rất lớn bởi nó có khả
năng tác động đến thái độ và hành vi của khách hàng. Nó đảm bảo uy tín của
Ngân hàng với tư cách như là một thể nhân ra vào thị trường, đồng thời là một
cơng cụ đảm bảo tính cạnh tranh cao của Ngân hàng trên thị trường. Đặc biệt,
trong xu thế của tồn cầu hố thì thương hiệu ngày càng trở lên quan trọng
đối với sự sống còn của Ngân hàng. Thương hiệu có thể cam kết một tiêu
chuẩn hay đẳng cấp chất lượng của một sản phẩm dịch vụ và đáp ứng mong
muốn của khách hàng, giúp họ tìm kiếm, lựa chọn sản phẩm một cách dễ
dàng, thuận tiện. Lòng trung thành với thương hiệu của khách hàng cho phép
Ngân hàng dự báo và kiểm soát thị trường. Hơn nữa, nó tạo nên một rào cản,
gây khó khăn cho các Ngân hàng khác muốn xâm nhập thị trường. Như vậy,
thương hiệu có thể được coi như một cách thức hữu hiệu để Ngân hàng đảm
bảo lợi thế cạnh tranh.
Để xây dựng và chiếm lĩnh lòng tin đối với người tiêu dùng, đòi hỏi
sản phẩm của ngân hàng đó cần phải có những điểm phù hợp,đồng thời phải

25



×