lời mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài cần nghiên cứu:
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng,
đồng thời gắn liền với mọi hoạt động kinh tế có liên quan, mà trực tiếp là ngời gửi
tiền và ngời vay vốn.
Lãi suất cũng là một công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc gia do
Ngân hàng Trung ơng (NHTƯ) điều hành. Nó có tác động rất lớn đối với vịệc tăng
hoặc giảm khối lợng tiền lu thông, thu hẹp hay mở rộng tín dụng, khích lệ hay hạn
chế huy động vốn, kích thích hay cản trở đầu t, tạo thuận lợi hay khó khăn cho
hoạt động ngân hàng. Một chính sách lãi suất đúng đắn sẽ có tác dụng thúc đẩy
sản xuất, lu thông hàng hoá, thúc đẩy tăng trởng kinh tế và ngợc lại khi chính sách
lãi suất thiếu chuẩn xác sẽ ảnh hởng nghiêm trọng đến nền kinh tế. Và vai trò đó
của chính sách lãi suất ngày càng trở nên quan trọng và phức tạp hơn cùng với quá
trình đổi mới hoạt động ngân hàng trong điều kiện kinh tế thị trờng ngày càng phát
triển sâu sắc.
ở Việt Nam, sau hơn 10 năm đổi mới, ngành ngân hàng đã đạt đợc những
thành tựu nhất định, góp phần không nhỏ vào những thành quả chung của nền kinh
tế. Trong nhiệm vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng Nhà nớc
(NHNN) đã rất chú trọng đến việc đổi mới các công cụ điều tiết nh hạn mức tín
dụng, dự trữ bắt buộc, tỷ giá...nhng quan trọng nhất vẫn là công cụ lãi suất. Nhìn
chung trong hơn 10 năm đổi mới, chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng đã góp
phần bình ổn giá cả, đẩy lùi và kiểm soát lạm phát, kích cầu, tăng trởng kinh tế. Cơ
chế điều hành lãi suất đợc thay đổi theo từng thời kỳ phát triển kinh tế và ngày
càng trở nên linh hoạt hơn. Đặc biệt, trong giai đoạn thúc đẩy phát triển kinh tế và
xu hớng hội nhập vào thị trờng tài chính khu vực cũng nh Quốc tế hiện nay đòi hỏi
NHNN phải xây dựng và thực thi một chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng phù
hợp, tiến tới tự do hoá trên cơ sở đảm bảo sự kiểm soát của Nhà nớc với thị trờng,
phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô.
1
Vì vậy, việc học tập, nghiên cứu chính sách lãi suất cũng nh việc học tập
kinh nghiệm quản lý và điều hành chính sách lãi suất của các nớc phát triển để từ
đó đa ra những điều kiện, giải pháp để xây dựng một chính sách lãi suất đúng đắn
ở nớc ta có một ý nghĩa lý luận và thực tiễn cao. Điều này không chỉ có ý nghĩa
quan trọng đối với quá trình xây dựng và điều hành một chính sách lãi suất phù
hợp với cơ chế quản lý kinh tế hiện nay, mà còn rất quan trọng đối với quá trình
hình thành và hoạt động một cách có hiệu quả của hệ thống thị trờng tài chính ở
Việt Nam, góp phần giải quyết những khó khăn về vốn, đảm bảo sự thắng lợi cho
công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
2. Mục tiêu
- Về lý luận: tìm hiểu sâu hơn những khái niệm có liên quan đến chính sách
lãi suất tín dụng ngân hàng.
- Về thực tiễn: Tìm hiểu và đa ra giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách lãi
suất tín dụng ngân hàng ở Việt Nam.
3. Đối t ợng nghiên cứu của đề tài : tìm hiểu chính sách lãi suất tín dụng
trong giai đoạn đổi mới nền kinh tế.
4. Ph ơng pháp nghiên cứu
- Phơng pháp phân tích tổng hợp.
- Tính chất lịch sử.
5. Kết cấu của đề tài
Ch ơng I . Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng và kinh
nghiệm của một số nớc trong việc điều hành chính sách lãi suất tín dụng ngân
hàng.
2
Ch ơng II . Đánh giá quá trình sử dụng và điều hành chính sách lãi suất tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam trong thời gian qua.
Ch ơng III . Giải pháp nhằm củng cố và hoàn thiện chính sách lãi suất tín
dụng ngân hàng ở Việt Nam.
En xin gửi lời cám ơn chân thành đến thầy giáo Tiến sĩ Nguyễn Hữu Tài và
cô giáo Cao Thị ý Nhi đã giứp đỡ em hoàn thành đề án này. Trong quá trình
nghiên cức vấn đề trên, do trình độ và khả năng có hạn nên bài viết này không thể
tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận đợc sự góp ý của các thầy, các cô để
hoàn thành tốt đề án này.
3
Chơng I
Cơ sở lý luận của chính sách lãi suất tín dụng ngân
hàng và kinh nghiệm của một số nớc trong việc điều
hành chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
1. Khái niệm lãi suất.
Trong nền kinh tế thị trờng tồn tại rất nhiều phạm trù kinh tế - tài chính
trong đó tín dụng và lãi suất tín dụng là một trong số những phạm trù quan trọng.
Hoạt động tín dụng là hoạt động vay mợn, quan hệ sử dụng vốn giữa ngời đi
vay và ngời cho vay theo nguyên tắc có hoàn trả. Đối với chủ thể thừa vốn, tín
dụng mang đến cho họ cơ hội không những bảo tồn đợc vốn mà còn tạo thu nhập.
Đối với các chủ thể thiếu vốn, tín dụng giúp cho họ bổ sung vốn để đáp ứng nhu
cầu sản xuất, kinh doanh hoặc đời sống. Nh vậy, nhờ có hoạt động tín dụng mà có
một bộ phận lớn nguồn vốn trong nền kinh tế đợc huy động, tập trung và phân phối
từ nơi tạm thời d thừa sang nơi thiếu để đáp ứng các nhu cầu khác nhau của các
chủ thể trong nền kinh tế.
Công cụ và là đòn bẩy quan trọng không thể thiếu đợc trong hoạt động tín
dụng chính là lãi suất. Lãi suất tín dụng ngân hàng là tỷ lệ % giữa lợi tức và tổng
số tiền vay trong một thời kỳ nhất định. Nh vậy, lãi suất chính là giá cả sử dụng
tiền vốn, gắn liền với hoạt động tín dụng ngân hàng, đồng thời gắn liền với mọi
hoạt động kinh tế có liên quan đến gửi tiền và vay tiền.
Mặt khác, ở tầm vĩ mô, lãi suất còn là một công cụ điều tiết kinh tế rất nhạy
bén và hiệu quả của chính sách tiền tệ quốc gia. Thông qua việc thay đổi mức và
cơ cấu lãi suất trong từng thời kỳ nhất định, Chính phủ có thể tác động đến quy mô
và tỷ trọng các loại vốn đầu t, do vậy mà có thể tác động đến quá trình điều chỉnh
cơ cấu, đến tốc độ tăng trởng, sản lợng, tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng lạm phát
trong nớc. Hơn thế nữa, trong những điều kiện nhất định của nền kinh tế mở, chính
sách lãi suất còn đợc sử dụng nh một công cụ góp phần điều tiết đối với các luồng
vốn đối với một nớc, tác động đến tỷ giá và điều tiết sự ổn định của tỷ giá. Điều
4
này không những tác động đến đầu t phát triển mà còn tác động trực tiếp đến cán
cân thanh toán và các quan hệ thơng mại quốc tế của nớc đó đối với nớc ngoài.
Chính vì những điều nh vậy mà ở các nớc kinh tế thị trờng phát triển và theo
đuổi chính sách tự do hoá tài chính (financial liberalization ), lãi suất đợc hình
thành trên cơ sở thị trờng, tức là do quan hệ giữa cung và cầu về vốn trên thị trờng
quyết định.
Có nhiều tiêu chí phân loại lãi suất tín dụng ngân hàng.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, lãi suất tín dụng ngân hàng chia thành ba loại.
Đó là lãi suất tín dụng ngắn hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng ngắn hạn, lãi
suất tín dụng trung hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn, lãi suất tín
dụng dài hạn áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn.
Nếu căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất thì lãi suất đợc chia thành lãi
suất thả nổi và lãi suất cố định. Lãi suất thả nổi là lãi suất thay đổi lên xuống còn
lãi suất cố định là lãi suất đợc áp dụng trong suốt thời hạn tín dụng.
Nếu căn cứ vào loại hình lãi suất tín dụng, lãi suất đợc chia thành nhiều loại
khác nhau. Lãi suất tiền gửi là lãi suất trả cho các khoản tiền gửi, lãi suất này có
nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, quy mô tiền gửi. Lãi suất tiền vay
là lãi suất mà ngời đi vay phải trả cho ngân hàng do việc sử dụng vốn vay của ngân
hàng, nó đợc áp dụng để tính lãi tiền vay mà khách hàng phải trả cho ngân hàng.
Lãi suất chiết khấu áp dụng khi ngân hàng cho vay dới hình thức chiết khấu thơng
phiếu hoặc các giấy tờ có giá khác cha đến hạn thanh toán của khách hàng, nó đợc
tính bằng tỷ lệ % trên mệnh giá và đợc khấu trừ ngay khi ngân hàng phát tiền vay
cho khách hàng. Lãi suất tái chiết khấu áp dụng khi ngân hàng tái cấp vốn cho các
ngân hàng dới hình thức chiết khấu lại thơng phiếu hoặc các giấy tờ có giá ngắn
hạn cha đến hạn thanh toán của ngân hàng. Nó cũng đợc tính bằng tỷ lệ % trên
mệnh giá của các giấy tờ có giá và cũng đợc khấu trừ ngay khi NHTƯ cấp tiền vay
cho ngân hàng thơng mại (NHTM ). Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất mà các
ngân hàng áp dụng khi cho nhau vay trên thị trờng liên ngân hàng, nó đợc hình
thành bởi quan hệ cung cầu tiền của các tổ chức tín dụng và chịu sự chi phối của
lãi suất tái cấp vốn của NHTƯ. Lãi suất cơ bản là lãi suất đợc các NHTM sử dụng
làm cơ sở để ấn định mức lãi suất kinh doanh của mình.
5
Một vấn đề quan trọng trong việc tìm hiểu khái niệm lãi suất tín dụng ngân
hàng đó là phải phân biệt đợc lãi suất thực tế và lãi suất danh nghĩa.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất tính theo giá trị danh nghĩa của tiền tệ vào
thời điểm nghiên cứu hay nói cách khác là lãi suất cha trừ đi tỷ lệ lạm phát. Lãi
suất danh nghĩa thờng đợc công bố chính thức trong các quan hệ tín dụng, trên các
phơng tiên thông tin đại chúng.
Lãi suất thực tế là lãi suất đợc điều chỉnh lại cho đúng theo những thay đổi
dự tính về lạm phát.
Mối quan hệ giữa lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực tế đợc khái quát thành
phơng trình sau đây:
Lãi suất danh nghĩa = Lãi suất thực tế + Tỷ lệ lạm phát.
hay
Lãi suất thực tế = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát.
Vì đợc điều chỉnh lại theo đúng những thay đổi về lạm phát nên lãi suất thực
tế phản ánh chính xác hơn thu nhập từ việc cho vay cũng nh chi phí thật của việc
cho vay.
2. Các nhân tố ảnh h ởng tới lãi suất :
Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nớc đóng vai trò trung tâm
trong hầu hết tất cả các hoạt động kinh tế xã hội trong đó có thị trờng tài chính. Vì
lẽ đó, lãi suất trong các nớc đó đều do Nhà nớc qui định, thậm chí một số nớc còn
quy định đến cả mức chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay của các
ngân hàng. Sự biến động của lãi suất trong các điều kiện nh vậy phần lớn phụ
thuộc vào ý chí của chính phủ và không vận động theo bất cứ một quy luật nào.
Trái lại, trong các nền kinh tế thị trờng, Nhà nớc chỉ đóng vai trò là ngời
điều tiết vĩ mô, thị trờng tài chính hoạt động theo cơ chế tự do hoá, cơ chế hình
thành lãi suất là cơ chế thị trờng. Lãi suất vì vậy mà chịu ảnh hởng của rất nhiều
nhân tố kinh tế vĩ mô cũng nh nhiều các nhân tố khác.
ảnh hởng của cung cầu tiền tệ:
6
Lãi suất là giá cả sử dụng vốn vì vậy bất kỳ sự thay đổi nào của cung và cầu
hoặc cả cung và cầu tiền tệ không cùng một tỷ lệ đều sẽ là thay đổi mức lãi suất
trên thị trờng. Tuy mức biến động của lãi suất ít nhiều phụ thuộc vào các quy định
của chính phủ và NHTƯ, song đa số các nớc có nền kinh tế thị trờng đều dựa vào
nguyên lý này để xác định lãi suất. Do vậy, có thể tác động vào cung cầu trên thị
trờng vốn để thay đổi lãi suất trong nền kinh tế cho phù hợp với mục tiêu, chiến lợc
trong từng thời kỳ chẳng hạn nh thay đổi cơ cấu vốn đầu t, tập trung vốn cho các
dự án trọng điểm. Mặt khác, muốn duy trì sự ổn định của lãi suất thì sự ổn định
của thị trờng vốn phải đợc đảm bảo vững chắc.
ảnh hởng của lạm phát kỳ vọng:
Khi lạm phát đợc dự đoán tăng trong một thời kỳ nào đó, lãi suất sẽ có xu h-
ớng tăng. Điều này là xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất thực và lãi suất danh
nghĩa và để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ lạm phát tăng đòi hỏi lãi suất danh
nghĩa phải tăng lên tơng ứng. Mặt khác, công chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành
phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ hàng hoá hoặc những dạng thức phi tài sản
khác nh vàng, ngoại tệ mạnh hoặc đầu t vốn ra nớc ngoài nếu có thể. Tất cả những
điều này làm giảm cung quỹ cho vay và gây áp lực tăng lãi suất trên thị trờng. Từ
mối quan hệ này cho thấy ý nghĩa và tầm quan trọng của việc khắc phục tâm lý
lạm phát đối với việc ổn định lãi suất, sự ổn định và tăng trởng của nền kinh tế.
ảnh hởng của tỷ suất lợi nhuận bình quân:
Tỷ suất lợi nhuận bình quân của các dự án đầu t phải cao hơn lãi suất các
khoản vay tài trợ cho dự án. Có nh vậy các nhà đầu t mới có lợi nhuận từ các dự án
đầu t và phấn khởi mở rộng đầu t. Do đó, cách đánh giá, lựa chọn chính sách lãi
suất phù hợp sẽ dựa trên cơ sở ớc lợng tỷ suất lợi tức trung bình của nền kinh tế.
ảnh hởng của bội chi ngân sách:
Bội chi ngân sách ở trung ơng và địa phơng trực tiếp làm cho cầu tiền tăng
và làm tăng lãi suất. Sau nữa, bội chi ngân sách sẽ tác động đến tâm lý công chúng
về gia tăng mức lạm phát và sẽ gây áp lực tăng lạm phát. Thông thờng, Chính phủ
thờng tài trợ cho thâm hụt ngân sách bằng cách phát hành trái phiếu. Lợng cung
trái phiếu trên thị trờng tăng lên làm cho giá trái phiếu có xu hớng giảm và lãi suất
7
thị trờng có xu hớng tăng. Mặt khác, do tài sản có của NHTM tăng ở khoản mục
trái phiếu chính phủ, dự trữ vợt mức giảm nên lãi suất ngân hàng cũng sẽ tăng.
Những thay đổi trong thuế:
Thuế thu nhập cá nhân và thuế thu nhập doanh nghiệp luôn có tác động đến
lãi suất. Khi các hình thức thuế này tăng sẽ điều tiết đi một phần thu nhập của các
cá nhân và tổ chức cung cấp dịch vụ tín dụng hay những ngời tham gia kinh doanh
chứng khoán. Mọi ngời đều quan tâm đến thu nhập thực tế hơn là thu nhập danh
nghĩa. Do vậy, để duy trì một mức lợi nhuận thực tế nhất định, họ phải cộng thêm
vào lãi suất cho vay những thay đổi của thuế.
ảnh hởng của tỷ giá hối đoái kỳ vọng:
Khi đồng nội tệ yếu, bị những sức ép lớn do những dao động của các đồng
ngoại tệ mạnh thì tâm lý phổ biến của ngời dân là coi ngoại tệ mạnh nh một trong
những loại tài sản tiết kiệm an toàn. Chẳng hạn, khi hiện tợng đô la hoá xảy ra, ng-
ời dân sẽ ồ ạt chuyển sang tiết kiệm bằng ngoại tệ cụ thể là đô la Mỹ. Làm nh vậy
ngời gửi hởng lợi kép gồm lãi suất tiền gửi và sự lên giá của đồng đô la Mỹ. Sự
chuyển dịch này tạo ra sự khan hiếm nội tệ ở các NHTM và buộc các ngân hàng
này phải tăng lãi suất tiền gửi đồng nội tệ để huy động cho vay nền kinh tế. Nh
vậy, khi xây dựng chính sách lãi suất cần phải xem xét đến khía cạnh tỷ giá để
giảm bớt mức chênh lệch giữa lợi tức lãi suất tiền gửi nội tệ và ngoại tệ hay lãi suất
cho vay nội tệ và ngoại tệ. Điều này giúp giảm bớt sự dịch chuyển không mong đợi
từ tiền gửi nội tệ sang đô la khi đồng đô la lên giá.
Những thay đổi trong đời sống xã hội:
Ngoài những yếu tố trên, sự thay đổi của lãi suất còn chịu ảnh hởng của các
yếu tố thuộc về đời sống xã hội khác nh tình hình về kinh tế, chính trị cũng nh
những biến động tài chính quốc tế nh các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trên
thế giới, các luồng vốn đầu t ra vào đối với các nớc...
Tất cả những điều này gợi ý cho những nhà nghiên cứu, soạn thảo và điều
hành chính sách lãi suất phải có một cách nhìn và đánh giá một cách tổng thể trớc
khi đa ra bất cứ một kết luận hay một quyết định nào có liên quan đến lãi suất.
8
3. Các nguyên tắc cơ bản hình thành lãi suất tín dụng ngân hàng.
Nh đã nói, lãi suất tín dụng chính là giá cả của tín dụng, là tỷ lệ % tính theo
một thời hạn xác định ( ngày, tuần, tháng, quý, năm... ) dùng làm căn cứ để tính
toán số lợi tức tín dụng mà các chủ thể tín dụng phải trả ( đối với chủ thể đi vay )
hoặc nhận đợc ( đối với chủ thể cho vay ) để điều hoà lợi ích của các chủ thể tham
gia quan hệ tín dụng. Do vậy, việc xác định lãi suất tín dụng sao cho hợp lý là một
vấn đề vô cùng quan trọng sao cho đảm bảo đợc lợi ích giữa các chủ thể trong quan
hệ tín dụng.
Trớc hết, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho ngời
gửi tiền vào ngân hàng. Do vậy trong thực tế, lãi suất thực tế phải lớn hơn hoặc
bằng tỷ lệ lạm phát tức là:
Lãi suất thực tế = tỷ lệ lạm phát + tỷ lệ khuyến khích ngời gửi tiền.
Mặt khác, lãi suất tín dụng phải đảm bảo một phần thu nhập hợp lý cho các
tổ chức tín dụng (TCTD ) và NHTM tức là:
Lãi suất = Lãi suất + Các chi phí hợp lý + Bù đắp rủi ro + tỷ lệ thu nhập
cho vay tiền gửi trong hoạt động trong hoạt động hợp lý của
tín dụng ngân hàng ngân hàng ngân hàng
Đồng thời, lãi suất cho vay của ngân hàng phải đảm bảo phát triển nền kinh
tế tức là phải đảm bảo cho những ngời vay vốn ngân hàng có thu nhập hợp lý,
nghĩa là:
Lãi suất cho vay < Tỷ lệ lợi nhuận bình quân của nền kinh tế.
Do vậy, có thể khẳng định rằng giới hạn tối đa của lãi suất tín dụng ngân
hàng nói chung là tỷ suất lợi nhuận bình quân, còn giới han thấp nhất của lãi suất
là chỉ số lạm phát vì nó sẽ làm cho ngời gửi tiền bảo toàn đợc vốn.
Tóm lại, để lãi suất tín dụng trở thành đòn bẩy kích thích và mở rộng các
quan hệ tín dụng trong nền kinh tế thì phải đảm bảo lãi suất tín dụng đợc kiểm soát
trong khung giới hạn sau đây:
Tỷ lệ lạm phát <= lãi suất tín dụng <= tỷ suất lợi nhuận bình quân.
9
Nếu vợt quá giới hạn trên, lãi suất tín dụng sẽ gây ra tác động tiêu cực đối
với nền kinh tế xã hội, hệ thống ngân hàng sẽ rơi vào tình trạng bất ổn, rối loạn.
4. Chính sách lãi suất tín dụng ngân hàng.
Lãi suất là công cụ có ý nghĩa khi thực hiện chính sách tiền tệ, NHTƯ sẽ
căn cứ vào thực trạng của nền kinh tế để quy định một số chỉ tiêu lãi suất áp dụng
trong toàn hệ thống ngân hàng. Thông thờng, ngời ta thờng quy định hai chỉ tiêu cơ
bản là lãi suất tái chiết khấu và lãi suất cơ bản.
a. Lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản là lãi suất có tác dụng chi phối tất cả các loại lãi suất khác
hình thành trong nền kinh tế thị trờng. Đó là loại lãi suất chiếm vị trí quan trọng
trong cơ chế thị trờng.
Lãi suất cơ bản do NHTƯ xác định và công bố trên cơ sở tình hình thực tế
của thị trờng và mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia.
Lãi suất cơ bản có một số chức năng nhất định. Nó là công cụ để điều hành
chính sách tiền tệ quốc gia. Qua lãi suất cơ bản, NHTƯ tác động vào thị trờng tiền
tệ, thúc đẩy, mở rộng hay thu hẹp tín dụng, giữ mức tơng quan cần thiết giữa tổng
cung và tổng cầu tiền tệ. Mặt khác, lãi suất cơ bản là giá cả sử dụng vốn trong hoạt
động tín dụng, là cở sở hình thành lãi suất thị trờng, tức là lãi suất kinh doanh tiền
tệ. Nó là điểm dung hoà một cách tự nhiên lợi ích của ngời gửi tiền, của ngời vay
tiền và của TCTD.
Lãi suất cơ bản đợc xác định một cách trực tiếp dới nhiều góc độ. Nếu đứng
trên giác độ bảo vệ lợi ích của khách hàng ( ngời gửi tiền và ngời vay vốn) ngời ta
quy định lãi suất tiền gửi tối thiểu và lãi suất cho vay tối đa. Điều này có nghĩa là,
vì lợi ích của ngời gửi tiền, các TCTD không đợc hạ lãi suất một cách tuỳ tiện và vì
yêu cầu phát triển sản xuất, các tổ chức tín dụng không đợc tăng lãi suất cho vay
quá mức. Nếu đứng trên giác độ bảo vệ lợi ích của các TCTD, tạo khuôn khổ cạnh
tranh lành mạnh, đảm bảo an toàn hệ thống các TCTD, ngời ta quy định lãi suất cơ
bản theo chiều hớng ngợc lại đó là quy định lãi suất tiền gửi tối đa và lãi suất cho
vay tối thiểu. Điều này làm cho các TCTD không đợc vì muốn tạo lợi thế trong
10
cạnh tranh mà nâng lãi suất huy động quá cao hoặc cho vay theo lãi suất quá thấp,
gây thiệt hại chung cho toàn hệ thống các TCTD.
Khi xác định lãi suất cơ bản phải tính đến tổng thể quan hệ cung cầu vốn
thông qua một loạt các yếu tố trong hoạt động kinh doanh tiền tệ thông thờng. Đó
là tỷ suất lợi nhuận bình quân, mức tăng trởng kinh tế, chỉ số lạm phát dự báo hàng
quý, hàng năm, lãi suất thực dơng cho ngời gửi tiền, bù đắp chi phí và có lãi cho
TCTD, yêu cầu điều hành chính sách tiền tệ từng thời kỳ, rủi ro trong hoạt động tín
dụng, mức độ dự trữ bắt buộc, lãi suất hình thành trên thị trờng tiền tệ nói chung,
mối tơng quan giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ, mối tơng quan giữa lãi suất
và tỷ giá hối đoái...
Có rất nhiều cách hiểu khác nhau về lãi suất cơ bản, cách thức xác định và
điều hành lãi suất cơ bản. Có thể lấy lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa, lãi
suất cho vay tối đa, lãi suất tái chiết khấu của NHTƯ đối với các TCTD hoặc lãi
suất trên thị trờng liên ngân hàng.
a1. Lãi suất cơ bản là lãi suất tái chiết khấu.
Đây là phơng pháp phổ biến đợc NHTƯ các nớc áp dụng. Do lãi suất này đ-
ợc chủ động công bố và đợc xem xét, tính toán tơng đối thờng xuyên nên thực sự
đóng vai trò quyết định đối với các mức lãi suất kinh doanh cũng nh cung cầu vốn
của các TCTD. Nhng lãi suất chiết khấu lại mang nặng tính chất để điều hành
chính sách tiền tệ.
a2. Lãi suất cơ bản là lãi suất tiền gửi tối đa.
Thực chất của lãi suất cơ bản loại này là NHTƯ công bố và kiểm soát lãi
suất tiền gửi tối đa và tự do hoá lãi suất cho vay. Các TCTD sẽ ấn định các mức lãi
suất tiền gửi trong phạm vi khống chế lãi suất tiền gửi tối đa và ấn định các mức lãi
suất cho vay cụ thể phù hợp với cung cầu về vốn.
a3. Lãi suất cơ bản là lãi suất cho vay tối đa.
NHTƯ công bố một mức lãi suất trần nhng có thể quy định một số mức biên
độ phù hợp với từng loại hình TCTD, thời hạn khác nhau.
a4. Lãi suất cơ bản là lãi suất trên thị trờng liên ngân hàng.
11
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất cho vay giữa các NHTM. Lãi suất liên
ngân hàng hình thành trên cơ sở thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia và quan hệ
cung cầu vốn trong nền kinh tế. Do vậy, lãi suất liên ngân hàng gắn với thị trờng
nhiều hơn và dễ biến động hơn. Thông thờng lãi suất cơ bản bằng lãi suất liên ngân
hàng cộng thêm một biên độ gồm phí quản lý món vay, phí rủi ro...
b. Lãi suất tái chiết khấu.
Khi nền kinh tế phát triển cả chiều sâu lẫn chiều rộng, NHTƯ chuyển sang
điều hành lãi suất một cách gián tiếp, mang nặng yếu tố kinh tế. Đó là lãi suất tái
chiết khấu của NHTƯ. Lãi suất chiết khấu có tác động và có ý nghĩa hớng dẫn lãi
suất thị trờng một cách gián tiếp, tức là tác động đến lãi suất kinh doanh của các
TCTD.
Lãi suất chiết khấu chủ yếu ảnh hởng đến cung ứng tiền tệ bằng cách ảnh h-
ởng đến khối lợng cho vay chiết khấu và cơ số tiền tệ. Một sự tăng lên trong cho
vay chiết khấu sẽ làm tăng cơ số tiền tệ và tăng cung ứng tiền tệ. Còn một sự giảm
xuống trong cho vay chiết khấu sẽ làm giảm bớt cơ số tiền tệ và thu hẹp cung ứng
tiền tệ.
Ngoài việc sử dụng làm công cụ để tác động đến cơ số tiền tệ và cung ứng
tiền tệ, lãi suất chiết khấu còn đợc sử dụng để giúp cho việc tránh khỏi những cơn
sụp đổ tài chính vì ngân hàng đóng vai trò là ngời cho vay cuối cùng. NHTƯ đóng
vai trò là ngời cho vay cuối cùng không chỉ cho các NHTM mà còn cho cả hệ
thống tài chính nói chung. NHTƯ cung cấp dự trữ cho hệ thống ngân hàng khi các
ngân hàng bị đe doạ phá sản, do đó ngăn chặn xảy ra những cơn sụp đổ ngân hàng
và tài chính.
Lãi suất chiết khấu có hai tác dụng: tác dụng về lợng đối với khối lợng tiền
tệ trong lu thông và tác dụng về giá đối với cơ cấu lãi suất trong nền kinh tế.
Tác dụng về lợng: Việc phân tích quá trình tạo tiền đã cho thấy các NHTM
sau khi tạo ra tiền ghi sổ còn phải tiền trung ơng để đảm bảo. Nhu cầu này khiến
họ phải đi vay ở NHTƯ bằng cách tái chiết khấu một phần chứng từ có giá của
mình. Việc tái cấp vốn của NHTƯ cho các NHTM có tác dụng về lợng đối với
khối lợng tiền tệ vì nó dẫn đến việc phát hành tiền của NHTƯ cho các NHTM để
họ có thể chi trả cho việc rút vốn khỏi các NHTM.
12
Tác dụng về giá: NHTƯ tái chiết khấu các chứng từ do NHTM xuất trình
với điều kiện NHTM phải trả một tỷ suất nhất định do NHTƯ đơn phơng quy định.
Lãi suất này gọi là tỷ suất chiết khấu hay lãi suất chiết khấu. Các loại lãi suất cho
vay t nhân tức là lãi suất tín dụng cấp cho nền kinh tế và lãi suất cho vay Nhà nớc
đều gắn chặt với lãi suất tái chiết khấu.
Mỗi khi tỷ suất chiết khấu thay đổi đều có xu hớng làm tăng hay giảm chi
phí cho vay của NHTƯ đối với các NHTM và do đó khuyến khích hoặc cản trở
nhu cầu xin vay.
Mặt khác, khi kho bạc muốn bán tín phiếu kho bạc cho lĩnh vực ngân hàng
thì họ phải chào một lãi suất tơng đơng với tỷ suất chiết khấu. Nói cách khác, khi
ấn định tỷ suất chiết khấu, NHTƯ cũng ấn định luôn mức lãi suất đi vay của Nhà
nớc.
Nh vậy, lãi suất chiết khấu chính là một công cụ để NHTƯ điều hành chính
sách lãi suất tín dụng ngân hàng sao cho phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền
tệ quốc gia.
5. Kinh nghiệm của một số n ớc trong việc sử dụng chính sách lãi
suất tín dụng ngân hàng.
Lãi suất là một trong những công cụ quan trọng của chính sách tiền tệ quốc
gia. Tuỳ theo nhịp độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định tiền tệ của mỗi nớc mà
mỗi nớc có nội dung, phơng pháp điều hành, quản lý chính sách lãi suất tín dụng ở
mức độ khác nhau.
5.1 Kinh nghiệm của Nhật Bản.
Thị trờng tiền tệ của Nhật Bản chỉ dành cho các ngân hàng và một số định
chế tài chính đợc chính thức công nhận trong giai đoạn Nhật Bản phát triển với tốc
độ cao. Sau này, Nhật Bản mở rộng thị trờng tiền tệ cho các thành phần tham gia
và thị trờng liên ngân hàng gồm có thị trờng mua tiền tệ (call money market) dành
cho những giao dịch cực ngắn, phục vụ cho giao dịch thơng mại và thị trờng thơng
phiếu (bills market) dành cho các giao dịch dài hạn.
13
Hai thị trờng này gồm có ngời cho vay, ngời đi vay và các nhà trung gian
chuyên nghiệp, ngời buôn tiền ở thị trờng tiền tệ. Vì giao dịch không ký quỹ nên
ngời buôn tiền chỉ hoạt động nh ngời môi giới. Ngân hàng Nhật cũng tham gia vào
thị trờng thơng phiếu.
Để điều hành lãi suất, bên cạnh lãi suất có tính chất định hớng là lãi suất
chiết khấu, Nhật Bản còn áp dụng một số loai lãi suất có điều tiết đợc xây dựng
dựa trên lãi suất chiết khấu và xác định dợc lãi suất cơ bản là sàn lãi suất cho vay
nhằm đảm bảo an toàn hệ thống. Lãi suất trên thị trờng tiền tệ liên ngân hàng đợc
tự do xác định trên cơ sở cung cầu về vốn và làm lãi suất tham chiếu cho mọi định
chế tài chính.
5.2 Kinh nghiệm của Pháp.
Pháp dùng lãi suất của thị trờng liên ngân hàng làm lãi suất chỉ đạo (lãi suất
cơ bản). Lý do là vì Pháp là một nớc mà lợng vay vốn ngân hàng nhiều hơn lợng
vay vốn qua thị trờng tài chính. Pháp dùng lãi suất cho vay chào mời vào lúc 11 giờ
hàng ngày của 8 ngân hàng và hiện nay là của 12 ngân hàng để tính theo số trung
bình cộng ra lãi suất cho vay bằng đồng nội tệ và bằng Ecu.
ở Pháp, các tín phiếu kho bạc đợc dành riêng cho thị trờng liên ngân hàng.
Về lý thuyết, ngời ta cho rằng Pháp xác định lãi suất cơ bản do cung cầu tín
dụng quy định. Trong 12 ngân hàng lớn, mỗi ngân hàng có quan hệ giữa nguồn
vốn và cung cầu vốn tín dụng riêng, từ đó xác lập nên cung cầu vốn riêng của
mình. Nếu cung < cầu thì ngân hàng đó phải đi vay ở thị trờng liên ngân hàng và
phản ánh bên cầu của thị trờng liên ngân hàng. Nếu cung > cầu, ngân hàng đó sẽ là
ngời cung ứng vốn cho thị trờng liên ngân hàng và phản ánh bên cung của thị trờng
liên ngân hàng. Sự gặp gỡ cung cầu của eác ngân hàng lớn phản ánh cung cầu tín
dụng của nền kinh tế. Nếu cung > cầu, lãi suất hạ xuống, nếu cung < cầu, lãi suất
tăng lên. NHTƯ với vai trò là ngời cho vay cuối cùng trên thị trờng liên ngân hàng
có thể không muốn lãi suất tăng lên sẽ cho vay một phần hoặc toàn bộ số cung <
cầu. Có thể nói đây là một công cụ hữu hiệu để NHTƯ tác động vào lãi suất trên
thị trờng. Nhng trong thực tế, lãi suất chỉ đạo đã biến động rất mạnh chứng tỏ vai
trò quyết định hành chính của NHTƯ.
14
Lãi suất chiết chiết khấu của NHTƯ Pháp hoàn toàn không phụ thuộc vào
lãi suất cơ bản mà phụ thuộc vào lãi suất trên thị trờng tiền tệ.
5.3. Kinh nghiệm của Hồng Kông.
Hồng Kông có một nền kinh tế thị trờng tự do - Phơng Đông, do vậy mà lãi
suất trên thị trờng cũng là thả nổi. Hồng Kông không có các quan chức tiền tệ
Trung ơng. Viên toàn quyền và Hội đồng lập pháp chịu trách nhiệm công việc tài
chính và tiền tệ.
Hồng Kông không có chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất độc lập trong
dài hạn. Hiệp hội ngân hàng Hồng Kông đặt ra lãi suất tiền gửi tối đa để các ngân
hàng căn cứ vào đó mà tự do định lãi suất cụ thể.
5.4 Kinh nghiệm của Malaysia.
Từ những năm 70, Malaysia đã có nhiều đổi mới trong điều hành chính sách
lãi suất theo hớng tự do hoá. Tuy nhiên, không phải tự do hoá lúc nào cũng là giải
pháp tối u. NHTƯ Malaysia đã liên tục điều chỉnh lãi suất, phục vụ linh hoạt việc
thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ. Từ năm 1981,
Malaysia cho phép các NHTM tự tính mức lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình dựa
trên cơ sở chi phí thực tế. Nhng ngay sau đó, NHTƯ nhận thấy trong điều kiện thị
trờng tiền tệ cha thực sự phát triển, việc cho phép các NHTM tự xác định mức lãi
suất cơ bản nh vậy theo nguyên tắc tự do hoá lãi suất sẽ dẫn đến cạnh tranh quá
mức về lãi suất giữa các ngân hàng và khi đó vấn đề an toàn trong hoạt động kinh
doanh của các NHTM sẽ bị đe doạ. Chính vì vậy, để giải quyết kịp thời vấn đề nêu
trên nhất là sau thời kỳ suy thoái kinh tế (1985 - 1986), vào năm 1987, Malaysia
đã chuyển sang điều hành lãi suất theo hớng vừa đảm bảo sự phối hợp chỉ đạo của
NHTƯ, vừa duy trì ở một mức độ nào đó quyền tự chủ của các NHTM. Với tinh
thần đó, NHTƯ yêu cầu các NHTM tính lãi suất cơ bản của ngân hàng mình dựa
trên mức lãi suất cơ bản của hai ngân hàng lớn "leader banks ". Các NHTM sẽ
điều chỉnh lãi suất cơ bản của mình theo nguyên tắc áp dụng biên độ giao động
xung quanh lãi suất cơ bản.
Hiện nay, các ngân hàng đợc phép tính lãi suất cơ bản cho ngân hàng mình,
nhng để đảm bảo tính khách quan và tơng đồng giữa các ngân hàng trong khi tính
lãi suất cơ bản, NHTƯ đa ra công thức chuẩn chung nhất để tính lãi suất cơ bản.
Lãi suất cơ bản đợc xây dựng trên cơ sở các yếu tố: chi phí huy động (sau khi đã
15