Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHẬN ĐỊNH THỜI ĐẠI NGÀY NAY LÀ THỜI ĐẠI QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.43 KB, 21 trang )

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
KHOA TUYÊN TRUYỀN
*****

TIỂU LUẬN

CHỦ ĐỀ:
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM NHẬN ĐỊNH THỜI ĐẠI NGÀY NAY
LÀ THỜI ĐẠI QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở
NƯỚC TA HIỆN NAY

Học viên: NGUYỄN XUÂN HẬU
Lớp: CAO HỌC QLHĐTT-VH K26.2

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Cuối thế kỷ thứ XX, sau khi mô hình chủ nghĩa xã hội (CNXH) ở Liên
Xơ và Đơng Âu sụp đổ, Việt Nam và một số nước XHCN tiếp tục tiến hành
đổi mới, khơng ít vấn đề liên quan đến CNXH được xem xét lại, trong đó có
vấn đề về thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên CNXH. Chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài lý luận và thực tiễn rất cơ
bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và phức tạp, có nhiều cách
tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên cứu rất công phu, nghiêm túc,
tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.
Đảng ta nhận thức rằng, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình xây
dựng, quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội


chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các
nhân tố phi xã hội chủ nghĩa, gồm cả các nhân tố tư bản chủ nghĩa trên một số
lĩnh vực. Sự đan xen, cạnh tranh này càng phức tạp và quyết liệt trong điều
kiện cơ chế thị trường và mở cửa, hội nhập quốc tế. Bên cạnh các mặt thành
tựu, tích cực, sẽ ln có những mặt tiêu cực, thách thức cần được xem xét một
cách tỉnh táo và xử lý một cách kịp thời, hiệu quả. Đó là cuộc đấu tranh rất
gay go, gian khổ, địi hỏi phải có tầm nhìn mới, bản lĩnh mới và sức sáng tạo
mới. Đi lên theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình khơng ngừng
củng cố, tăng cường, phát huy các nhân tố xã hội chủ nghĩa để các nhân tố đó
ngày càng chi phối, áp đảo và chiến thắng. Thành công hay thất bại là phụ
thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Nhận định thời đại ngày nay là thời đại quá độ lên Chủ nghĩa xã hội
của Đảng cộng sản Việt là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng để
xác định hướng đi đúng đắn, chèo lái con thuyền XHCN và nhân dân đến với

2


cuộc sống tốt đẹp hơn. Tiểu luận sau đây sẽ làm sáng tỏ nhận định trên, và
mang tới một số những đề xuất giải pháp có ích cho con đường đi lên CNXH.

3


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
VÀ NHẬN ĐỊNH CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1.1.


THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ CÁC GIAI ĐOẠN CỦA THỜI

ĐẠI.
1.1.1. Quan niệm về thời đại ngày nay
Cách mạng Tháng Mười đã mở đầu một thời đại mới trong lịch sử thế
giới. Một kỷ nguyên mới đã mở ra trong lịch sử thế giới. Nhân loại đang vứt
bỏ hình thức cuối cùng của chế độ nô lệ: chế độ nô lệ tư bản hay chế độ nơ lệ
làm th. Thốt khỏi được chế độ nơ lệ đó, lần đầu tiên nhân loại sẽ bước vào
chế độ tự do chân chính.
Sự thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười là cột mốc đánh dấu sự mở
đầu một thời đại lịch sử mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ
nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản vì cuộc cách mạng này đã làm sụp đổ trật
tự xã hội cũ - xã hội tư bản chủ nghĩa, tổ chức xây dựng một xã hội mới do
nhân dân lao động làm chủ. Sau Cách mạng Tháng Mười, nhân dân Nga (sau
này là Liên Xô) đã là những người làm chủ bộ máy nhà nước, làm chủ những
tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Liên Xô, đã lao động qn mình, nhanh chóng biến nước Nga
lạc hậu thành một nước xã hội chủ nghĩa có nền kinh tế phát triển, nhiều
ngành khoa học tiên tiến, có một xã hội luôn luôn quan tâm tới đời sống của
quần chúng nhân dân lao động.
Chủ nghĩa xã hội với tính ưu việt của nó đã cổ vũ hàng loạt các nước
đứng lên đấu tranh giành độc lập cho dân tộc, dân chủ cho nhân dân, xố bỏ
tàn tích của chế độ thực dân phong kiến. Nhiều nước trong số đó đã lựa chọn
con đường lên chủ nghĩa xã hội hoặc định hướng lên chủ nghĩa xã hội. Chủ

4


nghĩa xã hội đã vượt khỏi phạm vi một nước trở thành hệ thống trên thế giới

đối lập với thế giới tư bản chủ nghĩa.
Sự vận động của lịch sử là quanh co và phức tạp khi tiến, khi lùi. Do
vậy, hiện nay mặc dù tình hình quốc tế đang cịn diễn ra vơ cùng phức tạp,
nhưng Đảng ta vẫn khẳng định: Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó
khăn, thử thách. Lịch sử thế giới hiện trải qua những bước quanh co;
song, loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy
luật tiến hoá của lịch sử.
1.1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội
Nói đến con đường lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) một cách khoa học,
hợp quy luật, thì phải đề cập tới thời kỳ quá độ (TKQĐ) từ chủ nghĩa tư bản
(CNTB) lên CNXH. Nói đến TKQĐ ở Việt Nam một cách phù hợp, hiệu quả,
thì phải đề cập tới TKQĐ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa (TBCN) - TKQĐ
gián tiếp. Nói đến các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN), hay CNXH hiện thực
trên thế giới một thế kỷ qua, kể cả Liên Xô và các nước Đông Âu trước đây,
Trung Quốc hiện nay theo đúng lý luận Mác - Lê-nin, thì phải thấy đó đều là
các xã hội ở TKQĐ gián tiếp với những trình độ khác nhau.
Cho đến nay TKQĐ trình độ cao trực tiếp lên CNXH từ CNTB phát
triển tột bậc mà C. Mác nói đến, chưa từng diễn ra. Nhưng cũng theo đúng lý
luận Mác - Lênin, các nước XHCN trên thế giới một thế kỷ qua, xét về tương
quan kinh tế - kỹ thuật so với các nước phương Tây, đều là những xã hội ở
TKQĐ trình độ thấp, tức là gián tiếp từ xã hội TBCN chưa phát triển, hoặc xã
hội tiền TBCN. Chính vì vậy, các nước này, một mặt, đã đi vào con đường
XHCN; mặt khác, trong thời gian đầu trình độ kinh tế - kỹ thuật đương nhiên
vẫn thấp hơn so với các nước phương Tây.
Bên cạnh đó, CNTB ở phương Tây đã phát triển đến giới hạn định tính tổng
qt vĩ mơ của nó, dù có thể cịn tiếp tục tăng trưởng về mặt quy mơ định
5



lượng cụ thể. Cả thực tế xã hội khách quan lẫn tư duy biện chứng cho thấy rõ,
CNTB từ năm 1825 đã lâm vào khủng hoảng kinh tế chu kỳ không thể nào
tránh khỏi. Tức là từ khoảng 150 năm nay, CNTB thực tế đã bước vào một
giai đoạn tiến triển mới dù có thể sẽ khơng ngắn, nhưng với xu hướng rõ rệt là
tất yếu sẽ bị thay thế bằng một chế độ xã hội phát triển cao hơn.
Ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX, chủ nghĩa Mác - Lênin là kết
quả đỉnh cao của tư duy khoa học, là sản phẩm của hoạt động sản xuất và đấu
tranh cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động, là tinh hoa
văn hóa nhân loại. Nói tới chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết là nói tới thế giới
quan duy vật biện chứng và phương pháp luận biện chứng duy vật cùng hệ tư
tưởng khoa học của giai cấp công nhân cách mạng với đội tiên phong là Đảng
Cộng sản trong cuộc đấu tranh xóa bỏ mọi áp bức, bóc lột, tiến tới xây dựng
chủ nghĩa cộng sản. Chính những yếu tố nói trên đã tạo thành bản chất khoa
học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Với bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, chủ nghĩa Mác - Lênin
là ngọn cờ dẫn đường cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát
triển mạnh mẽ, đưa đến thắng lợi của các cuộc cách mạng vô sản trên thế giới
ở thế kỷ XX. Chủ nghĩa xã hội hiện thực ra đời và tồn tại đã tỏ rõ tính ưu việt
của mình, đồng thời thể hiện sức sống trong lịng nhân loại tiến bộ, u
chuộng hịa bình, tự do. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn sẽ tiếp tục soi rọi con
đường chủ nghĩa xã hội, con đường đưa nhân loại đến cuộc sống ấm no, hạnh
phúc.
Trong giai đoạn hiện nay, trước những biến động to lớn của tình hình
quốc tế, chủ nghĩa xã hội khoa học đang đứng trước nhiều thách thức to lớn
với yêu cầu cấp bách là đổi mới để phát triển. Vì vậy, thêm một lần nữa, làm
sáng tỏ và sâu sắc bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn của chủ nghĩa
Mác - Lênin có tầm quan trọng đặc biệt đối với tương lai của chủ nghĩa xã
hội, nhất là đối với sự nghiệp đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam.
6



1.2. THỜI ĐẠI NGÀY NAY VÀ NHẬN ĐỊNH CỦA ĐẢNG CỘNG
SẢN VIỆT NAM .
1.2.1. Đảng cộng sản Việt Nam và những nhận định về thời đại
ngày nay
Từ Hội nghị Trung ương 1 Đảng Cộng sản Đông Dương (tháng 101930) đến Hội nghị Trung ương 9 khóa VI Đảng Cộng sản Việt Nam (tháng 81990), TKQĐ luôn được xác định là: “do được các nước XHCN giúp đỡ, nên
bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN”, tức là nửa trực tiếp. Đại hội II Đảng Lao
động Việt Nam (tháng 02-1951) nêu rõ: TKQĐ ở Việt Nam có điểm xuất phát
thấp hơn, cho nên lâu dài, khó khăn hơn. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mở
ra thời kỳ đổi mới, bắt đầu thực hiện đa dạng hóa sở hữu - một trong những
nội dung quan trọng nhất của NEP, nhưng vẫn nêu TKQĐ ở nước ta là “bỏ
qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”.
Từ Đại hội VII của Đảng (năm 1991) đến nay, đường lối thực hiện
TKQĐ được xác định là “bỏ qua chế độ TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp, và
được xây dựng, phát triển ngày càng hoàn thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa
VII (tháng 1-1995) khẳng định: trong điều kiện khơng cịn sự giúp đỡ của các
nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ được nguồn lực từ hợp tác, hội nhập
kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng kế thừa mọi thành tựu và kinh
nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX của Đảng nêu rõ, bỏ qua
sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng tiếp thu thành tựu khoa học và công
nghệ trong CNTB...
Hiện nay, để tiếp tục giữ vững, thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc gắn
với CNXH, Việt Nam cần đẩy mạnh vận dụng sáng tạo, phát triển tư tưởng,
đường lối của V. I. Lênin về TKQĐ gián tiếp.
7


Thực tế thành công lẫn thất bại của CNXH hiện thực trên thế giới một
thế kỷ qua đều chứng minh lý luận của V. I. Lênin về TKQĐ gián tiếp là đúng

đắn. Để phát triển, tiến bộ nhanh, mạnh, bền vững, mà không lặp lại những
hạn chế của CNTB, các nước đang phát triển vẫn có thể và cần phải thực hiện
TKQĐ này. Điều đổi mới nhận thức về TKQĐ đó là bỏ qua chính trị TBCN,
mà vẫn sử dụng, khai thác kinh tế CNTB để phục vụ cho CNXH, đặc biệt là
phát triển LLSX, kinh nghiệm quản lý, trình độ khoa học - cơng nghệ... đồng
thời với vai trị của nhà nước pháp quyền XHCN sẽ điều tiết sự phát triển
nhân văn hơn.
Để giữ được bản chất và định hướng XHCN trong thực hiện đường lối
về TKQĐ gián tiếp, thì phải bảo đảm: một là, khi thực hiện, QHSX TBCN và
giai cấp tư sản tuyệt nhiên không thể trở thành thống trị; hai là, người đại diện
(nhà nước XHCN) cho chủ sở hữu (quần chúng nhân dân) không thể thay thế
hồn tồn chính người chủ sở hữu này, để trở thành một chủ sở hữu mới trên
thực tế. Những điều này phụ thuộc vào việc, Đảng phải luôn kiên định và
sáng tạo trong lãnh đạo thực hiện mục tiêu, con đường lên CNXH dựa trên
nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
1.2.2. Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về thời đại ngày nay
Kế thừa những quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng không
ngừng và thời kỳ quá độ lên CNXH; xuất phát từ đặc điểm, điều kiện của Việt
Nam, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Thời kỳ quá độ “là thời kỳ dân chủ mới”,
tiến dần lên CNXH. Ở Việt Nam là hình thái quá độ gián tiếp với: “Đặc điểm
to nhất là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên CNXH không phải
kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đặc điểm này chi phối tác
động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm từng bước xóa bỏ triệt để
các tàn tích của chế độ thực dân, phong kiến, đồng thời từng bước gây dựng
các mầm mống cho CNXH phát triển, đó là một tất yếu.

8


Theo đó, quá độ lên CNXH là một cuộc đấu tranh cách mạng phức tạp,

gian khổ và lâu dài chứ “khơng thể một sớm một chiều”. Bởi vì, “chúng ta
phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử
dân tộc ta. Chúng ta phải thay đổi triệt để những nếp sống, thói quen, ý nghĩ
và thành kiến có gốc rễ hàng ngàn năm... biến nước ta từ một nước nông
nghiệp thành một nước công nghiệp”. Tuy nhiên, muốn “tiến lên chủ nghĩa xã
hội” thì khơng phải “cứ ngồi mà chờ” là sẽ có được chủ nghĩa xã hội. Nếu
nhân dân ta mọi người cố gắng, phấn khởi thi đua xây dựng, thì thời kỳ quá
độ có thể rút ngắn hơn.
Về nhiệm vụ của thời kỳ quá độ lên CNXH. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khẳng định: Phải tạo ra những điều kiện cần và đủ về cơ sở vật chất; đồng
thời, Đảng phải “lãnh đạo toàn dân thực hiện dân chủ mới, xây dựng điều kiện
để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Trong đó, “nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng
ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến
dần lên chủ nghĩa xã hội, có cơng nghiệp và nơng nghiệp hiện đại, có văn hóa
và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta
phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là
nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ nội dung nhiệm vụ cụ thể trong thời kỳ
quá độ lên CNXH rất toàn diện. Trên lĩnh vực kinh tế, phát triển lực lượng sản
xuất là vấn đề mấu chốt, tăng năng suất lao động trên cơ sở cơng nghiệp hố
xã hội chủ nghĩa, cùng với thiết lập quan hệ sản xuất, cơ chế quản lý kinh tế,
cơ cấu thành phần kinh tế, ngành, vùng, lãnh thổ trong thời kỳ quá độ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng quan hệ phân phối và quản lý kinh tế. Theo
Người, quản lý kinh tế phải dựa trên cơ sở hạch toán, đem lại hiệu quả cao, sử
dụng tốt các đòn bẩy để phát triển sản xuất.
Trên lĩnh vực chính trị, nội dung quan trọng nhất là phải giữ vững và
phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng; quan tâm củng cố mở rộng Mặt trận dân
9



tộc thống nhất, nịng cốt là liên minh cơng nhân - nơng dân - trí thức, dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhằm khơng ngừng tăng cường khối đại đồn kết dân tộc
vì sự nghiệp xây dựng CNXH.

Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, xây dựng nền văn hóa dân tộc, khoa
học, đại chúng và mấu chốt của văn hóa là xây dựng con người có đạo đức
cách mạng, con người mới xã hội chủ nghĩa với đức - tài gắn bó hữu cơ với
nhau, tồn tâm tồn ý phục vụ nhân dân, trung thành với sự nghiệp cách mạng
xây dựng nền văn hóa mới, lối sống mới. Về xã hội, thực hiện sự phân phối
theo lao động, thi hành chính sách xã hội vì tồn dân, bình đẳng.
Mấu chốt của vấn đề xã hội là đảm bảo công bằng xã hội hướng vào
phát triển con người, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài, vừa là mục tiêu, vừa là
động của sự phát triển xã hội.
Về bước đi, biện pháp trong thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ Chí Minh
đã xác định bước đi, cách làm phù hợp, Người khẳng định: Chúng ta cũng
phải có phương pháp xây dựng CNXH của riêng mình, gắn với thực tiễn và
lịch sử của Việt Nam. Bước đi trong xây dựng XHCN ở nước ta là “phải làm
dần dần”, ai nói dễ là chủ quan và sẽ thất bại, phải thực hiện “đi bước nào
vững chắc bước ấy”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn chỉ ra những biện pháp hết sức quan trọng
để xây dựng CNXH, đó là: Cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp
cải tạo với xây dựng, lấy xây dựng làm chính; kết hợp thực hiện hai nhiệm vụ
xây dựng và bảo vệ, đồng thời tiến hành hai chiến lược cách mạng; xây dựng
CNXH phải có kế hoạch, biện pháp và quyết tâm. Đặc biệt, Người xác định
biện pháp cơ bản, lâu dài quyết định nhất trong xây dựng CNXH ở nước ta là
phát huy sức mạnh toàn dân, đem của dân, tài dân, sức dân dưới sự lãnh đạo
của Đảng để làm lợi cho dân.

10



CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM NHẬN ĐỊNH THỜI ĐẠI NGÀY NAY LÀ THỜI ĐẠI QUÁ
ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
2.1 ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VÀ THỜI ĐẠI NGÀY NAY
2.1.1 Con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội của Đảng Cộng sản Việt
Nam
Như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư
cách: chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào;
chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác
nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ
thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ nghĩa xã hội khoa học dựa trên học
thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay. Vậy thì chúng ta phải định hình
chủ nghĩa xã hội thế nào, và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội thế nào cho
phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm cụ thể ở Việt Nam?
Trước đây, khi cịn Liên Xơ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa thế
giới thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam dường như khơng có gì
phải bàn, nó mặc nhiên coi như đã được khẳng định. Nhưng từ sau khi mơ
hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xơ và nhiều nước Đông Âu sụp đổ, cách mạng
thế giới lâm vào thối trào thì vấn đề đi lên chủ nghĩa xã hội lại được đặt ra và
trở thành tâm điểm thu hút mọi sự bàn thảo, thậm chí tranh luận gay gắt. Các
thế lực chống cộng, cơ hội chính trị thì hí hửng, vui mừng, thừa cơ dấn tới để
xun tạc, chống phá. Trong hàng ngũ cách mạng cũng có người bi quan, dao
động, nghi ngờ tính đúng đắn, khoa học của chủ nghĩa xã hội, quy kết nguyên
nhân tan rã của Liên Xô và một số nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu là do sai
lầm của chủ nghĩa Mác-Lênin và sự lựa chọn con đường xây dựng chủ nghĩa
xã hội. Từ đó họ cho rằng chúng ta đã chọn đường sai, cần phải đi con đường
khác. Có người cịn phụ họa với các luận điệu thù địch, cơng kích, bài bác chủ
nghĩa xã hội, ca ngợi một chiều chủ nghĩa tư bản.


11


Chúng ta thừa nhận rằng, chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính tồn cầu
như ngày nay và cũng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là trong lĩnh
vực giải phóng và phát triển sức sản xuất, phát triển khoa học - công nghệ.
Nhiều nước tư bản phát triển, trên cơ sở các điều kiện kinh tế cao và do kết
quả đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, đã có những biện
pháp điều chỉnh, hình thành được khơng ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ
hơn so với trước. Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được
những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục
diễn ra. Đặc biệt là, năm 2008-2009 chúng ta đã chứng kiến cuộc khủng
hoảng tài chính, suy thối kinh tế bắt đầu từ nước Mỹ, nhanh chóng lan rộng
ra các trung tâm tư bản chủ nghĩa khác và tác động đến hầu hết các nước trên
thế giới. Các nhà nước, các chính phủ tư sản ở Phương Tây đã bơm những
lượng tiền khổng lồ để cứu các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, các tổ hợp
cơng nghiệp, tài chính, ngân hàng, thị trường chứng khốn, nhưng khơng mấy
thành cơng. Và hơm nay, chúng ta lại chứng kiến cuộc khủng hoảng nhiều
mặt, cả về y tế, xã hội lẫn chính trị, kinh tế đang diễn ra dưới tác động của đại
dịch COVID-19 và cuộc Cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Kinh tế suy thối
đã làm phơi bày sự thật của những bất công xã hội trong các xã hội tư bản chủ
nghĩa: đời sống của đa số dân cư lao động bị giảm sút nghiêm trọng, thất
nghiệp gia tăng; khoảng cách giàu - nghèo ngày càng lớn, làm trầm trọng
thêm những mâu thuẫn, xung đột giữa các sắc tộc.
Cùng với khủng hoảng kinh tế - tài chính là khủng hoảng năng lượng, lương
thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thối của mơi
trường sinh thái,... đang đặt ra những thách thức vô cùng lớn cho sự tồn tại và
phát triển của nhân loại. Đó là hậu quả của một quá trình phát triển kinh tế xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu
dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm
trụ cột của xã hội. Đó cũng chính là những đặc trưng cốt yếu của phương thức

sản xuất và tiêu dùng tư bản chủ nghĩa. Các cuộc khủng hoảng đang diễn ra
12


một lần nữa chứng minh tính khơng bền vững cả về kinh tế, xã hội và môi
trường sinh thái của nó.
Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư
bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của
các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo
công thức "dân chủ tự do" mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên tồn
thế giới khơng hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó
vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đồn
tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm
giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm sốt tới 3/4 nguồn tài chính, tri
thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối tồn xã
hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào "99 chống lại 1"
diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản. Sự
rêu rao bình đẳng về quyền nhưng khơng kèm theo sự bình đẳng về điều kiện
để thực hiện các quyền đó đã dẫn đến dân chủ vẫn chỉ là hình thức, trống rỗng
mà không thực chất.
Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con
người, chứ khơng phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con
người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng
xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã
hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới
các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, "cá lớn nuốt
cá bé" vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự
phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống
trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác,

chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường.
Và chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân
dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho
13


một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những
giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên
định, kiên trì theo đuổi.
2.1.2 Những thành tựu quan trọng trong thời kỳ quá độ lên Chủ
nghĩa Xã hội của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhận thức sâu sắc sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết
định thắng lợi của công cuộc đổi mới và bảo đảm cho đất nước phát triển theo
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đặc biệt chú trọng công tác xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, coi đây là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn đối
với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên
phong của giai cấp công nhân Việt Nam; Đảng ra đời, tồn tại và phát triển là
vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng
ta kiên trì lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng
tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động cách mạng, lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản. Đảng lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các
định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền,
thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát và bằng hành động gương
mẫu của đảng viên; thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ.
Trước Đổi mới (năm 1986), Việt Nam vốn là một nước nghèo lại bị
chiến tranh tàn phá rất nặng nề, để lại những hậu quả hết sức to lớn cả về
người, về của và mơi trường sinh thái. Tơi chỉ nêu thí dụ, cho đến nay vẫn có
hàng triệu người chịu các bệnh hiểm nghèo và hàng trăm ngàn trẻ em bị dị tật
bẩm sinh bởi tác động của chất độc da cam/dioxin do quân đội Mỹ sử dụng

trong thời gian chiến tranh ở Việt Nam. Theo các chuyên gia, phải mất đến
hơn 100 năm nữa Việt Nam mới có thể dọn sạch hết bom mìn cịn sót lại sau
chiến tranh. Sau chiến tranh, Mỹ và phương Tây đã áp đặt cấm vận kinh tế
với Việt Nam trong suốt gần 20 năm. Tình hình khu vực và quốc tế cũng diễn
14


biến phức tạp, gây nhiều bất lợi cho chúng ta. Lương thực, hàng hóa nhu yếu
phẩm hết sức thiếu thốn, đời sống nhân dân hết sức khó khăn, khoảng 3/4 dân
số sống dưới mức nghèo khổ.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế bắt đầu phát triển và phát
triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng
trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở
rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỉ đô la Mỹ (USD), trở thành nền kinh tế lớn thứ tư
trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức
3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm
2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không
những đã bảo đảm được an ninh lương thực mà còn trở thành một nước xuất
khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát
triển khá nhanh, tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện nay
chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm
2020 đạt trên 540 tỉ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỉ USD.
Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỉ USD vào năm 2020. Đầu tư nước
ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỉ USD vào cuối năm 2020. Về cơ cấu
nền kinh tế xét trên phương diện quan hệ sở hữu, tổng sản phẩm quốc nội của
Việt Nam hiện nay gồm khoảng 27% từ kinh tế nhà nước, 4% từ kinh tế tập
thể, 30% từ kinh tế hộ, 10% từ kinh tế tư nhân trong nước và 20% từ khu vực
có vốn đầu tư nước ngồi.
Hiện dân số của Việt Nam là hơn 97 triệu người, gồm 54 dân tộc anh
em, trong đó hơn 60% số dân sống ở nơng thơn. Phát triển kinh tế đã giúp đất

nước thốt khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội những năm 80 và cải
thiện đáng kể đời sống của nhân dân. Tỉ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm
khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn
nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu
chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết

15


các xã nơng thơn đều có đường ơ tơ đến trung tâm, có điện lưới quốc gia,
trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Trong khi chưa có
điều kiện để bảo đảm giáo dục miễn phí cho mọi người ở tất cả các cấp, Việt
Nam tập trung hồn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm
2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao
đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua…
Như vậy, có thể nói, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những
chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển,
lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống
nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội
ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế
ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin
của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố. Tổng kết 20 năm đổi
mới, Đại hội Đảng lần thứ X (năm 2006) đã nhận định, sự nghiệp đổi mới đã
giành được "những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử". Trên thực tế, xét trên
nhiều phương diện, người dân Việt Nam ngày nay đang có các điều kiện sống
tốt hơn so với bất cứ thời kỳ nào trước đây. Đó là một trong những lý do giải
thích vì sao sự nghiệp đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo được tồn dân Việt Nam đồng tình, hưởng ứng và tích cực phấn đấu
thực hiện.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng một lần nữa lại

khẳng định và nhấn mạnh: "Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm
thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được
hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch
sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với
tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có

16


được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay; tiếp tục khẳng
định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với
quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại.
CHƯƠNG III, NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
3.1 Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội

17


KẾT LUẬN
Thành tựu đặc sắc trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam
từ năm 1986 đến nay là đã kịp thời đổi mới nhận thức, đánh giá về thời đại và
thế giới, tạo cơ sở, tiền đề cho hàng loạt chủ trương, chính sách đối nội, đối
ngoại thiết thực, hiệu quả.
Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ XX, ngày càng có nhiều chuyển động to lớn,
sâu sắc, khơng chỉ làm thay đổi cục diện thế giới mà còn làm các khuynh
hướng vận động của lịch sử trở nên phức tạp hơn, đa chiều hơn. Trước hiện


18


thực này, Đảng ta vừa tiếp tục khẳng định đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất
yếu vì đó là quy luật của tiến bộ xã hội; vừa nhạy bén tập trung nghiên cứu,
đánh giá các vấn đề trọng yếu của giai đoạn hiện nay của thời đại, tức là thế
giới ngày nay, trong đó có cục diện và trật tự thế giới, các đặc điểm và xu thế
lớn, các khối quyền lực và các nước lớn… Đó là quá trình vận dụng sáng tạo
quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh vào nghiên cứu một thế giới cụ thể với hàng loạt diễn biến, sự kiện, vấn
đề… đặc thù trong những bước vận động quanh co của lịch sử. Kết quả đạt
được từ quá trình này tạo thành một trong những cơ sở lý luận và thực tiễn
hàng đầu, quan trọng nhất cho Đảng, Nhà nước hoạch định đường lối, chính
sách đối nội và đối ngoại; và đó cũng là tiền đề cho những thành tựu to lớn,
có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới gần 30 năm qua.
Kế thừa di sản nhận thức quý báu này, tư duy lý luận Việt Nam trong
những năm tới tiếp tục phải giải quyết nhiều nhiệm vụ phức tạp, cấp bách.
Riêng trên chủ đề thời đại và thế giới, các vấn đề vừa cơ bản vừa cấp bách
nhất gồm: mối quan hệ giữa quy luật và các xu thế lịch sử; nội dung quá độ từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; những mâu thuẫn cơ bản của thời đại
ngày nay; đặc điểm và khuynh hướng vận động của trật tự thế giới; bản chất
chính trị, kinh tế - xã hội của q trình tồn cầu hố; mối quan hệ giữa đấu
tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh vì những giá trị chung của nhân
loại; khả năng biến động của các mối quan hệ giữa các nước lớn; châu Á Thái Bình Dương trong quan hệ so sánh với các không gian địa - chiến lược
khác… Để có thể giải quyết được các nhiệm vụ này, cơng tác lý luận của
chúng ta vừa cần không gian học thuật dân chủ rộng mở, vừa cần ánh sáng
phương pháp luận khoa học và cách mạng.

19



DANH MỤC THAM KHẢO
1. Cương lĩnh Đại hội VII-ĐCSVN Nxb Sự thật Hà Nội. 1991, tr.8
2. Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh,( tập bài giảng): “ Thời đại
và những vấn đề lớn của thế giới hiện nay”, Nxb Chính trị- tài chính,
2013
3. Nguyễn Phú Trọng( chủ biên): “Đổi mới và phát triển ở Việt Nam- Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Chính trị quốc gia, HN 2006
4. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lênin, Nxb Chính trị quốc gia
5. Giáo trình Triết học Mác- Lenin, Nxb Chính trị quốc gia
6. Vũ Văn Hiển: “Nhận thức về thời đại ngày nay”, Nxb, Chính trị Quốc
gia 2010

/> /> /> /> />
20


/>p_p_auth=5Ugfbglz

21



×