Tải bản đầy đủ (.pdf) (66 trang)

Tiểu luận Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.8 MB, 66 trang )

Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 1









Tiểu luận

Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay









Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 2

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4


I. Lý luận chung về lạm phát 5
I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát 5
I.1.1 Khái niệm lạm phát 5
1.1.2 Cách tính lạm phát 5
I.2 Phân loại lạm phát 6
I.2.1 Xét về mặt định lượng 6
I.2.2 Xét về mặt định tính 7
I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát 8
I.3.1 Lạm phát do cầu kéo 8
I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy 9
I.3.3 Lạm phát ỳ 10
I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ 11
I.4 Tác động của lạm phát 12
I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát 13
II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam 14
II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới 14
II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011 19
II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011 19
II.2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011 23
II.2.3 Tác động của lạm phát đối với nền kinh tế Việt Nam 28
II.3 Lạm phát 2 tháng đầu năm và nhận diện lạm phát trong năm 2012 32
III. Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay và đề
xuất chính sách thời gian tới 35
III.1 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2011 35
III.1.1 Chính sách tiền tệ 35
III.1.1.1 Lãi suất 36
III.1.1.2 Nghiệp vụ thị trường mở 38
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 3


III.1.1.3 Quản lý tín dụng ngân hàng 39
III.1.1.4 Điều hành thị trường ngoại hối và tỷ giá 40
III.1.1.5 Kiểm soát và điều hành thị trường vàng 42
III.1.2 Chính sách tài khóa 44
III.1.3 Các biện pháp hỗ trợ ổn định đời sống, sản xuất 47
III.1.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh 47
III.1.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu 48
III.1.3.3 Quản lý cán cân thương mại 48
III.1.4 Thực hiện các chính sách về an sinh xã hội 50
III.2 Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong năm 2012 50
III.2.1 Chính sách tiền tệ - Thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng
linh hoạt 51
III.2.1.1 Lãi suất 51
III.2.1.2 Quản lý tín dụng ngân hàng 52
III.2.1.3 Điều hành tỷ giá 52
III.2.1.4 Dự trữ ngoại hối, kiểm soát và điều hành thị trường vàng và ngoại
hối 52
III.2.2 Chính sách tài khóa – thực hiện chính sách tài khóa chặt chẽ hiệu quả 52
III.2.2.1 Thuế và các khoản thu ngân sách của chính phủ 52
III.2.2.2 Các khoản chi của chính phủ 53
III.2.3 Các biện pháp hỗ trợ, ổn định đời sống và sản xuất 54
III.2.3.1 Thúc đẩy sản xuất kinh doanh 54
III.2.3.2 Quản lý giá cả các mặt hàng thiết yếu 54
III.2.3.3 Quản lý cán cân thương mại 55
III.2.3.4 Nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước 56
III.3 Đề xuất một số chính sách kiểm soát lạm phát cho Việt Nam trong thời gian
sắp tới 56
KẾT LUẬN 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66

Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 4

LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới trong một thế kỷ vừa qua đã chứng kiến nhiều đợt bùng phát lạm phát ở
nhiều nước. Trong các đợt lạm phát này, đồng tiền mất giá, giá cả hàng hóa tăng vọt và
kèm theo rất nhiều hệ lụy. Đối với Việt Nam, trong một vài thập kỷ vừa qua, kể từ khi
đổi mới nền kinh tế, cũng đã trải qua nhiều đợt bùng phát lạm phát và lạm phát hằng năm
thường ở mức cao.
Theo phân tích của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và một số thành viên Chính phủ,
trong các nguyên nhân dẫn đến lạm phát cao thì các nguyên nhân nội tại là chủ yếu, trong
đó nguyên nhân chính yếu là do chính sách tài chính tiền tệ nới lỏng kéo dài (Cổng thông
tin điện tử chính phủ VGP).
Việc tìm ra đúng nguyên nhân là một điều quan trọng, nhưng quan trọng hơn là có
chính sách đúng đắn để kiềm chế lạm phát và hơn nữa chính sách cũng phải linh hoạt
uyển chuyển tùy thuộc vào tình hình thực tế.
Hiện tại vấn đề điều hành của chính phủ nhằm kiềm chế và giảm lạm phát vẫn
đang là một vấn đề nhiều khó khăn. Để có cái nhìn thấu đáo về nguyên nhân lạm phát và
nắm được các chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay là
gì? hiệu quả của các chính sách như thế nào? Thông qua tiểu luận “Chính sách kiểm soát
lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” hy vọng sẽ làm rõ được phần nào câu
hỏi trên.
Nội dung tiểu luận gồm 3 phần:
- Phần I: Lý luận chung về lạm phát
- Phần II: Thực trạng lạm phát ở Việt Nam
- Phần III: Chính sách kiểm soát lạm phát của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
Hy vọng bài tiểu luận này mang đến cho các bạn một lượng kiến thức nhỏ. Trong
quá trình làm tiểu luận có những sai sót mong nhận được sự góp ý quý giá từ thầy cùng
tất cả các bạn để tiểu luận được hoàn thiện hơn, rút được kinh nghiệm cho nhóm sau khi

nghiên cứu đề tài này.
Nhóm 2 xin chân thành cảm ơn.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 5

I. Lý luận chung về lạm phát
I.1 Khái niệm về lạm phát và cách tính lạm phát
I.1.1 Khái niệm lạm phát
Theo các sách giáo khoa về tiền tệ, lạm phát được coi là hiện tượng giấy bạc lưu
thông vượt quá nhu cầu cần thiết làm cho chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả của hầu hết
các hàng hoá trong lưu thông không ngừng tăng lên.
Nghĩa nguyên gốc “lạm phát” là việc lạm dụng phát hành tiền tệ (in nhiều giấy bạc
hơn mức cần thiết) làm cho khối lượng tiền tệ trong lưu thông thừa tương đối, dẫn đến
giá cả một đơn vị hàng hoá tăng lên tương ứng và do đó, làm suy giảm sức mua của đồng
tiền. Đây có thể coi là khái niệm nguyên bản về lạm phát (inflation). Tuy nhiên, việc xác
định khối lượng “đúng” của tiền tệ cần thiết cho lưu thông là bất khả thi vì tổng lượng
hàng hoá, dịch vụ luân chuyển luôn biến động, vòng quay của đồng tiền không ổn định,
mục đích sử dụng tiền cũng luôn luôn thay đổi. Do đó, người ta chỉ có thể nhận diện được
lạm phát khi có dấu hiệu giá cả hàng hoá dịch vụ gia tăng một cách có hệ thống mà song
song với nó là sự suy giảm sức mua của đồng tiền.
Ví dụ: Lạm phát vào thời điểm tháng 10/2008 của Zimbabwe lên tới 231 triệu %
làm cho giá 1 ổ bánh mì lên tới 10.000 đôla.
1.1.2 Cách tính lạm phát
Lạm phát được đo bằng hai chỉ tiêu cơ bản là chỉ số giá tiêu dung CPI (Consumer
price index) và chỉ số khử lạm phát GDP (GDP deflator).
- Cách tính CPI sẽ dựa trên một rổ hàng hóa tiêu dùng (goods basket) và giá cả của
những hàng hóa trong rổ ở hai thời điểm khác nhau. Từ đó, chỉ số lạm phát được tính như
sau:
Chỉ số lạm phát năm t =

CPI
t
– CPI
0

CPI
0
- Cách tính GDP
f
thì căn cứ vào toàn bộ khối lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng
được sản xuất trong một năm và giá cả ở hai thời điểm khác nhau, thông thường theo
ngôn ngữ thống kê là giá cố định (constant price) và giá hiện hành (current price).

Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 6

GDP
f
=
GDP
danh nghĩa
x 100%
GDP
thực tế

Chỉ số lạm phát năm t =
GDP
ft
– GDP

f0
GDP
f0

Phương pháp GDP deflator sẽ tính lạm phát chính xác hơn theo định nghĩa của
lạm phát. Tuy nhiên, CPI sẽ có ưu điểm là tính được lạm phát tại bất kỳ thời điểm nào
căn cứ vào rổ hàng hóa, còn GDP deflator thì chỉ tính được lạm phát của một năm sau khi
có báo cáo về GDP của năm đó.
I.2 Phân loại lạm phát
Có nhiều cách phân loại lạm phát dựa trên các tiêu thức khác nhau:
I.2.1 Xét về mặt định lượng
Dựa trên độ lớn nhỏ của tỷ lệ % lạm phát tính theo năm, người ta chia lạm phát ra
thành:
a. Thiểu phát
Thiểu phát là sự lên giá của đồng tiền, hay giá cả hàng hoá và dịch vụ giảm. Đây
là tình trạng lạm phát ở tỷ lệ rất thấp, khoảng dưới 3-4%/năm. Có hai điểm đáng chú ý
trong thời gian thiểu phát. Điểm thứ nhất, người tiêu dùng có tâm lý chờ đợi giá sẽ giảm
xuống nữa nên chưa mua, làm giảm nhu cầu đối với sản xuất. Điểm thứ hai là hàng nhập
khẩu giá rẻ sẽ gia tăng, và sẽ càng mạnh nếu trên thế giới cũng bị thiểu phát. Khi đó,
nhập siêu sẽ gia tăng, mà lại là nhập siêu giảm phát, làm cho sản xuất trong nước càng trì
trệ.
b. Lạm phát vừa phải (Lạm phát 1 con số mỗi năm)
Còn gọi là lạm phát một con số, có tỷ lệ lạm phát dưới 10% một năm. Lạm phát
vừa phải làm cho giá cả biến động tương đối. Trong thời kì này nền kinh tế hoạt động
một cách bình thường, đời sống của người lao động ổn định. Sự ổn định đó được biểu
hiện: Giá cả tăng chậm, lãi xuất tiền gửi không cao, không xảy ra tình trạng mua bán và
tích trữ hàng hóa với số lượng lớn …
Có thể nói đây là mức lạm phát mà nền kinh tế chấp nhận được, những tác động
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật


Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 7

của nó là không đáng kể.
c. Lạm phát phi mã (Lạm phát 2,3 con số mỗi năm)
Khi tỷ lệ tăng, giá đã bắt đầu tăng đến 2 chữ số mỗi năm. Ở mức lạm phát 2 chữ số
thấp (11,12,13%/năm), nói chung những tác động tiêu cực của nó là không đáng kể, nền
kinh tế vẫn có thể chấp nhận được nhưng khi tỷ lệ tăng giá ở mức 2 chữ số cao hoặc ở
mức 3 con số, lạm phát sẽ trở thành kẻ thù của sản xuất và thu nhập vì những tác động
tiêu cực của nó là không nhỏ. Lúc đó lạm phát 2,3 chữ số sẽ trở thành mối đe dọa đến sự
ổn định của nền kinh tế. Ở mức 2,3 chữ số, lạm phát làm cho giá cả chung tăng lên nhah
chóng, gây biến động lớn về kinh tế, các hợp đồng được chỉ số hóa. Lúc này người dân
tích trữ hàng hóa, vàng bạc, bất động sản và không bao giờ cho vay tiền ở mức lãi suất
bình thường. Loại này khi đã trở nên vững chắc sẽ gây ra những biến dạng kinh tế
nghiêm trọng.
d. Siêu lạm phát (Lạm phát 4 con số trở lên)
Siêu lạm phát có tỷ lệ lạm phát rất cao và tốc độ tăng nhanh. Với siêu lạm phát,
những tác động tiêu cực của nó đến đời sống và đến nền kinh trở nên nghiêm trọng: kinh
tế suy sụp một cách nhanh chóng, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, thu nhập thực tế của
người lao động giảm mạnh, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền giấy… dẫn đến đời
sống kinh tế của người dân trở nên khó khăn.
I.2.2 Xét về mặt định tính:
Xét về mặt định tính, lạm phát bao gồm:
a. Lạm phát cân bằng và lạm phát không cân bằng
- Lạm phát cân bằng: khi nó tăng tương ứng với thu nhập, do vậy loại lạm phát
này không ảnh hưởng đến đời sống của người lao động.
- Lạm phát không cân bằng: tỷ lệ lạm phát tăng không tương ứng với thu nhập,
trên thực tế lạm phát không cân bằng thường hay xảy ra nhất.
b. Lạm phát dự đoán trước và lạm phát bất thường:
- Lạm phát dự đoán trước: Đây là loại lạm phát xảy ra trong một thời gian tương
đối dài với tỷ lệ lạm phát tăng hàng năm khá đều đặnvà ổn định. Do vậy, người ta có thể

dự đoán trước được tỷ lệ lạm phát cho những năm tiếp theo.Về mặt tâm lý, người dân đã
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 8

quen với tình hình lạm phát đó và người ta đã có những chuẩn bị để thích nghi với tình
trạng lạm phát này.
- Lạm phát bất thường: Là lạm phát xảy ra có tính đột biến mà trước đó chưa từng
xuất hiện. Do vậy tâm lý, cuộc sống và thói quen của người dân đều chưa thích ứng được.
Lạm phát bất thường gây ra những cú sốc cho nền kinh tế và sự thiếu tin tưởng của người
dân vào chính quyền.
I.3 Nguyên nhân gây ra lạm phát
I.3.1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xảy ra do tổng cầu tăng, đặc biệt khi sản lượng đã đạt hoặc
vượt quá mức tự nhiên.
Lạm phát có thể hình thành khi xuất hiện sự gia tăng đột biến trong nhu cầu về
tiêu dùng và đầu tư. Chẳng hạn, khi có những làn sóng mua sắm mới làm tăng mạnh tiêu
dùng, giá cả của những mặt hàng này sẽ tăng, làm cho lạm phát dâng lên và ngược lại.
Tương tự, lạm phát cũng phụ thuộc vào sự biến động trong nhu cầu đầu tư: sự lạc quan
của các nhà đầu tư làm tăng nhu cầu đầu tư và do đó đẩy mức giá tăng lên.
Khi chính phủ quyết định tăng chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư nhiều hơn vào cơ
sở hạ tầng, thì mức giá sẽ tăng. Ngược lại, khi chính phủ quyết định cắt giảm các chương
trình chi tiêu công cộng, hoặc các công trình đầu tư lớn đã kết thúc, thì mức giá sẽ giảm.

Hình 1 Lạm phát do cầu kéo
Lạm phát cũng có nguyên nhân từ nhu cầu xuất khẩu. Khi nhu cầu xuất khẩu tăng,
lượng còn lại để cung ứng trong nước giảm và do vậy làm tăng mức giá trong nước.
Ngoài ra, nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn chảy vào cũng có thể gây ra lạm phát, đặc biệt
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật


Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 9

trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định, vì điều này có thể là nguyên nhân dẫn tới sự gia tăng
lượng tiền cung ứng 2. Tình hình ngược lại sẽ xảy ra khi nhu cầu xuất khẩu và luồng vốn
nước ngoài chảy vào giảm do nền kinh tế thế giới hay trong khu vực lâm vào suy thoái.
Lạm phát do cầu kéo sẽ không phải là vấn đề mà thực ra còn cần thiết và có lợi
cho nền kinh tế nếu như nền kinh tế còn nhiều nguồn lực chưa sử dụng như trong trường
hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD0 đến AD1: lạm phát sẽ khá thấp trong khi sản
lượng và việc làm sẽ tăng đáng kể. Ngược lại, lạm phát do cầu kéo sẽ trở thành vấn đề
thực sự nếu như toàn bộ nguồn lực đã sử dụng hết và đường tổng cung trở nên rất dốc
như trong trường hợp đường tổng cầu dịch chuyển từ AD1 đến AD2. Khi đó, sự gia tăng
tổng cầu chủ yếu đẩy lạm phát dâng cao trong khi sản lượng và việc làm tăng lên rất ít.
I.3.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Lạm phát cũng có thể xảy ra khi một số loại chi phí đồng loạt tăng lên trong toàn
bộ nền kinh tế. Trong đồ thị tổng cung-tổng cầu, một cú sốc như vậy sẽ làm đường tổng
cung dịch chuyển lên trên và sang bên trái. Trong bối cảnh đó, mọi biến số kinh tế vĩ mô
trong nền kinh tế đều biến động theo chiều hướng bất lợi: sản lượng giảm, cả thất nghiệp
và lạm phát đều tăng. Chính vì vậy, loại lạm phát này được gọi là lạm phát do chi phí đẩy
hay lạm phát đi kèm suy thoái.
Ba loại chi phí thường gây ra lạm phát là: tiền lương, thuế gián thu và giá nguyên
liệu nhập khẩu. Khi công đoàn thành công trong việc đẩy tiền lương lên cao, các doanh
nghiệp sẽ tìm cách tăng giá và kết quả là lạm phát xuất hiện.
Việc chính phủ tăng những loại thuế tác động đồng thời đến tất cả các nhà sản
xuất cũng có thể gây ra lạm phát. Ở đây, thuế gián thu (kể cả thuế nhập khẩu, các loại lệ
phí bắt buộc) đóng một vai trò đặc biệt quan trọng, vì chúng tác động trực tiếp tới giá cả
hàng hóa. Nếu so sánh với các nước phát triển là những nước có tỷ lệ thuế trực thu cao,
thì ở các nước đang phát triển, nơi mà thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn
thu từ thuế, thay đổi thuế gián thu dường như có tác động mạnh hơn tới lạm phát.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật


Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 10


Hình 2 Lạm phát do chi phí đẩy
Đối với các nền kinh tế nhập khẩu nhiều loại nguyên, nhiên, vật liệu thiết yếu mà
nền công nghiệp trong nước chưa sản xuất được, thì sự thay đổi giá của chúng (có thể do
giá quốc tế thay đổi hoặc tỷ giá hối đoái biến động) sẽ có ảnh hưởng quan trọng đến tình
hình lạm phát trong nước. Nếu giá của chúng tăng mạnh trên thị trường thế giới hay đồng
nội tệ giảm giá mạnh trên thị trường tài chính quốc tế, thì chi phí sản xuất trong nước sẽ
tăng mạnh và lạm phát sẽ bùng nổ.
I.3.3 Lạm phát ỳ
Trong các nền kinh tế hiện đại trừ siêu lạm phát và lạm phát phi mã, lạm phát vừa
phải có xu hướng ổn định theo thời gian. Hàng năm, mức giá tăng lên theo một tỷ lệ khá
ổn định. Tỷ lệ lạm phát này được gọi là tỷ lệ lạm phát ỳ. Đây là loại lạm phát hoàn toàn
được dự tính trước. Mọi người đã biết trước và tính đến khi thỏa thuận về các biến danh
nghĩa được thanh toán trong tương lai.

Hình 3 Lạm phát ỳ
Hình 3 cho thấy lạm phát ỳ xảy ra như thế nào. Cả đường tổng cung và đường
tổng cầu cùng dịch chuyển lên trên với tốc độ như nhau. Sản lượng luôn được duy trì ở
mức tự nhiên, trong khi mức giá tăng với một tỷ lệ ổn định theo thời gian.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 11

I.3.4 Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ
Lý thuyết tiền tệ là cách giải thích thuyết phục nhất về nguồn gốc sâu xa của hiện
tượng lạm phát. Những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền tệ cho rằng lạm phát là do
lượng cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra, và được giải thích bằng phương
trình số lượng sau:

M.V = P.Y
Trong đó:
- M: lượng cung tiền danh nghĩa - V: tốc độ lưu thông tiền tệ
- P: chỉ số giá tiêu dùng - Y: sản lượng thực
Do đó nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ cổ điển cho rằng giá cả phụ thuộc vào
lượng tiền phát hành. Khi lượng cung tiền tăng lên thì mức giá cũng tăng theo cùng tỷ lệ,
lạm phát xảy ra. Thuyết này chỉ đúng khi cả V và Y không đổi.
Nhóm nhà kinh tế thuộc phái tiền tệ trọng tiền hiện đại, tiêu biểu là Milton
Friedman cho rằng: Khi dự đoán được tốc độ tăng trưởng của Y hàng năm và tốc độ lưu
thông tiền tệ ổn định, thì chúng ta có thể xác định tỷ lệ tăng lượng cung tiền tương ứng
mà không gây ra lạm phát. Do đó ông đưa ra quy tắc tiền tệ: Khi Y tăng theo tỷ lệ ổn
định thì chính sách tốt nhất là tăng lượng cung tiền theo một tỷ lệ không đổi đã định thì P
sẽ ổn định.
Tuy nhiên trong thực tế tốc độ tăng trưởng của Y là không ổn định, tốc độ lưu
thông của V cũng thay đổi, nên chỉ khi tốc độ tăng của tổng khối tiền tệ hằng năm (M, V)
nhanh hơn tốc độ tăng của Y thì P sẽ tăng lên và lạm phát sẽ xảy ra.

Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 12

Hình 4 sử dụng số liệu tăng tiền và tỷ lệ lạm phát hàng năm ở Việt Nam từ năm
1987 đến năm 2007. Số liệu này xác minh mối tương quan dương giữa tỷ lệ tăng tiền và
tỷ lệ lạm phát. Những năm Việt Nam có tỷ lệ tăng cung tiền cao có xu hướng đi kèm với
lạm phát cao, còn những năm có tỷ lệ tỷ lệ tăng cung tiền thấp có xu hướng đi kèm với
lạm phát thấp.
I.4 Tác động của lạm phát
 Chi phí mòn giày:
Do khi lạm phát cao xảy ra, để tránh thiệt hại lượng tiền mọi người cần giữ sẽ
giảm thiểu và do đó số lần đi đến ngân hàng sẽ tăng lên, hao tốn công sức và lãng phí

thời gian.
 Chi phí thực đơn – tác động đến lĩnh vực sản xuất
Tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và giá đầu ra biến động không ngừng
gây ra sự mất ổn định đối với nhà sản xuất, chi phí sản xuất tăng cao. Sự mất giá của
đồng tiền làm cho nghiệp vụ kế toán không còn chính xác nữa. Những doanh nghiệp có
tỷ xuất lợi nhuận thấp sẽ có nguy cơ phá sản rất lớn.
 Tác động đến lĩnh vực lưu thông
Lạm phát thúc đẩy quá trình đầu cơ, tích trữ dẫn đến khan hiếm hàng hóa, làm mất
cân đối quan hệ cung cầu trên thị trường. Đồng thời do đồng tiền đang bị mất giá nên
không ai muốn giữ tiền. Tiền nhanh chóng bị đẩy ra kênh lưu thông. Do có nhiều người
tham gia vào lưu thông nên lĩnh vực này trỏ nên hỗn loạn, tốc độ lưu thông tiền tăng vọt
và điều này càng thúc đẩy lạm phát gia tăng.
 Tác động đến lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Lạm phát làm cho quan hệ thương mại, tín dụng, ngân hàng bị thu hẹp. Lượng tiền
gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng được nhu cầu của người đi vay, cộng
với việc giảm sút quá nhanh của đồng tiền, sự điều chỉnh lãi suất tiền gửi không làm an
tâm những các nhân, doanh nghiệp đang có lượng tiền nhàn rỗi trong tay. Ngân hàng
gặp khó khăn trong viêc huy động vốn, hệ thông ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì
mức lãi suất ổn định. Lãi suất thực = lãi suất danh nghĩa - tỷ lệ lạm phát. Khi tỷ lệ lạm
phát cao, muốn lãi suất thực tế ổn định thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 13

lệ lạm phát. Trong khi đó, người đi vay là những người có lợi từ sự mất giá của đồng
tiền. Do vậy hoạt động của hệ thống ngân hang không còn bình thường nữa, chức năng
kinh doanh tiền tệ bị hạn chế.
 Tác động đến cán cân ngân sách – chính sách tài chính của nhà nước
Lạm phát gây ra sự biến động lớn trong giá cả và sản lượng hàng hóa. Khi lạm
phát xảy ra thì những thộng tin trong xã hội bị phả hủy do biến động của giá cả và làm

cho thị trường bị rối loạn. Khi đó khó cố thể phân biệt được doanh nghiệp làm ăn tốt hay
kém. Đồng thời làm cho nhà nước thiếu vốn, giảm các nguồn thu. Do đó, các khoản
chuyển nhượng, trợ cấp, phúc lợi xã hội hay các khoản đầu tư của nhà nước trong các
ngành nghề, lĩnh vực đều bị cắt giảm. Một khi ngân sách nhà nước bị thâm hụt thì các
mục tiêu cải thiên và nâng cao đời sống kinh tế xã hội sẽ không có điều kiện thực hiện.
 Tác động làm phân phối lại của cải trong xã hội
Lạm phát có xu hướng phân phối lại của cải từ những người có tài sản với lãi suất
danh nghĩa cố định sang tay những người có những khoản nợ với lãi suất danh nghĩa cố
định.
I.5 Biện pháp khắc phục lạm phát
 Lạm phát do cầu:
Khi xảy ra lạm phát cao, sản lượng lương thực vượt quá sản lượng tiềm năng, nền
kinh tế phát triển quá nóng, phải tìm biện pháp giảm lạm phát, ổn định nền kinh tế là
giảm tổng cầu, bằng cách:
- Áp dụng chính sách tài khóa thu hẹp: giảm chi tiêu ngân sách, tăng thuế.
- Áp dụng chính sách tiền tệ thu hẹp: giảm mức cung tiền, tăng lãi suất
Kết quả tổng cầu sụt giảm, đường AD dịch chuyển sang trái, mức giá giảm, sản lượng
giảm, tỷ lệ thất nghiệp tăng.
 Lạm phát do cung:
Phải làm tăng tổng cung, giảm chi phí sản xuất bằng cách:
- Tìm nguyên liệu mới rẻ tiền thay cho nguyên liệu cũ đắt tiền.
- Giảm thuế, giảm lãi suất.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 14

- Cải tiến kỹ thuật sản xuất, áp dụng công nghệ mới vào sản xuất để tăng năng suất
lao động, giảm chi phí.
- Nâng cao trình độ quản lý : tổ chức lao động khoa học và hợp lý hóa sản xuất.
Kết quả là chi phí sản xuất của nền kinh tế sẽ giảm xuống, đường AS dịch chuyển

sang phải, mức giá giảm, sản lượng tăng, tỷ lệ thất nghiệp giảm.
II. Vài nét về lạm phát trên thế giới và thực trạng lạm phát ở Việt Nam
II.1 Vài nét về lạm phát trên thế giới
Lịch sử thế giới đã từng trải qua 15 lần siêu lạm phát tại Đông Âu và Trung Á
trong đó trong thế kỷ 20 đã trải qua siêu lạm phát 5 lần tại Mỹ - Latinh, 4 lần tại Tây Âu,
1 lần tại Đông Nam Á và 1 lần tại châu Phi. Siêu lạm phát đầu tiên trên thế giới xảy ra
vào thời kỳ Cách mạng Pháp thế kỷ 18 (1789 – 1799) khi đó lạm phát theo tháng lên mức
143%. Thế nhưng phải đến thế kỷ 20 loại lạm phát vượt tầm kiểm soát này mới trở lại.
Trong những biến cố về hệ thống tiền tệ của lịch sử nhân loại, có 2 thảm kịch siêu lạm
phát tiêu biểu như sau, mà khi đó, tiền chỉ có giá trị bằng một tờ giấy bình thường.
 Zimbabwe – tháng 11/2008
Trong lần siêu lạm phát gần đây nhất trên thế giới, khủng hoảng tiền tệ tại
Zimbabwe lên mức tồi tệ nhất vào tháng 11/2008 và tăng 79 tỷ %/tháng. Cứ 24,7 tiếng,
giá tăng gấp đôi.
Chỉ vài ngày sau khi phát hành tờ tiền mệnh giá 100 triệu, Ngân hàng Trung ương
phát hành tiền mệnh giá 200 triệu và hạn chế số tiền rút ra khỏi ngân hàng ở mức 500.000
tương đương 0,25 USD.
Khi tờ 100 triệu được đưa vào lưu hành, giá cả tăng nhảy vọt; báo cáo cho thấy 1 ổ
bánh mi tăng từ 2 triệu lên 35 triệu chỉ sau 1 đêm. Chính phủ còn tuyên bố lạm phát là bất
hộ pháp và bắt giữ giám đốc điều hành công ty nào dám tăng giá bán hàng.
Tình hình tồi tệ đến mức nhiều cửa hàng tại đất nước này từ chối đồng nội tệ và
chỉ nhận đồng USD hay đồng rand của Nam Phi. Ngân hàng Trung ương Zimbabwe cuối
cùng phải định giá lại đồng tiền và neo nó vào đôla Mỹ. Chính phủ cũng buộc phải đóng
cửa sàn chứng khoán.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 15

Đầu thế kỷ 21, Zimbabwe bước vào siêu lạm phát và đến năm 2006, Zimbabwe in
thêm 21 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả nợ IMF. Cùng trong năm đó, Zimbabwe tiếp tục

in thêm 60 nghìn tỷ đồng Zimbabwe để trả lương cho quân đội, cảnh sát và nhiều viên
chức nhà nước.
Năm 2007, nguồn cung thực phẩm, nhiên liệu và thuốc men thiếu trầm trọng, lạm
phát tháng vượt mức 115 nghìn %. 6 tháng cuối năm 2007, chính phủ Zimbabwe quyết
định ngưng trả lương.
Tháng 4/2008, 50 triệu đồng Zimbabwe tương đương 1,20USD trong khi đó Ngân
hàng Trung ương ước tính kinh tế nước này tăng trưởng âm 6% so với 1 năm trước. Theo
Los Anelges Times đưa tin, vào tháng 7/2008, chính phủ Zimbabwe đã có lúc hết giấy để
in tiền bởi phía châu Âu ngừng cung cấp giấy in tiền cho Zimbabwe do lo ngại về lý do
nhân đạo.
 Nguyên nhân lạm phát tại Zimbabwe
Khi Zimbabwe giành được độc lập vào năm 1980, chính phủ nước này quyết định
sử dụng đồng tiền mới với giá trị ban đầu so với đồng USD ở mức khoảng 1,25USD.
Chính phủ Zimbabwe quản lý yếu kém và mất kiểm soát lạm phát.
Xu thế hình thành siêu lạm phát bắt đầu vào đầu thập niên 1990 khi Tổng thống
Mugabe đưa ra chương trình phân phối lại đất đai, ông lấy đất từ người nông dân gốc Âu
dành cho người nông dân bản xứ. Nhóm người nông dân giàu kinh nghiệm bỗng dưng
mất đất, sản lượng nông nghiệp sụt giảm xuống dưới mức cần thiết, giá tăng không tránh
khỏi.
 Đức – tháng 10/1923
Tháng 10/1923 khi lạm phát tháng tăng ở mức 29.500% và với tỷ lệ ngày 20,9%,
cứ sau 3,7 ngày, giá cả hàng hóa tăng gấp đôi.
Đến tháng 8/1923, 1 triệu mác Đức mới đổi được một USD. Đến tháng 11/1923,
con số này lên mức 238 triệu mác Đức/USD và khi trật tự tâm lý có tên “Zero Stroke”
được đưa ra, người ta khi đó đã phải giao dịch hàng trăm tỷ mác Đức cho các chi phí
hàng ngày
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 16


Lạm phát cao buộc chính phủ Đức phải định giá lại đồng tiền, thay thế đồng
papiermark bằng đồng rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và giảm đi 12 số 0 trên
tờ tiền. Dù đồng rentenmark đã bình ổn tình hình và chính phủ cộng hòa Weimar tồn tại
cho dến năm 1933, siêu lạm phát và áp lực kinh tế đã dẫn đến việc nổi lên của đảng Nazi
và Adolf Hitler.
 Nguyên nhân chính của lạm phát tại Đức
Siêu lạm phát của nước cộng hòa Weimar bắt nguồn từ việc chính phủ in quá
nhiều tiền để chi trả cho chiến tranh.
Năm 1914, Đức ngừng hỗ trợ cho đồng tiền nước này bằng vàng và bắt đầu chi
tiền cho chiến tranh thông qua đi vay chứ không phải tăng thuế. Năm 1919, giá cả đã tăng
gần gấp đôi, Đức thua trận. Giai đoạn từ năm 1919 đến 1921, đồng tiền này khá ổn định
nếu so với những năm trước đó.
Việc giải quyết hậu quả chiến tranh theo yêu cầu của hòa ước Versailles buộc Đức
phải trả các chi phí bằng vàng hay ngoại tệ tương ứng chứ không phải đồng papiermark.
Đức sử dụng đồng papeirmarks đảm bảo bằng nợ chính phủ để mua ngoại tệ và vì thế đẩy
nhanh tốc độ phá giá đồng tiền.
Hòa ước Versailles năm 1919 là hòa ước chính thức chấm dứt Thế chiến thứ Nhất
(1914–1918) giữa Đức và các nước thuộc phe Hiệp Ước. Hòa ước quy định Đức phải trả
lại cho Pháp miền Alsace-Lorraine, một mảnh đất cho Bỉ, một mảnh tương tự ở
Schleswig cho Đan Mạch – tùy kết quả một cuộc trưng cầu ý dân. Khi người Đức không
thể trả được tiền, quân Pháp và Bỉ chiếm đóng thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để yêu
cầu trả bằng hiện vật dẫn đến hàng loạt vụ đình công và phản kháng của người Đức khiến
mọi chuyện tồi tệ hơn. Khi chính phủ các nước châu Âu xung đột về việc làm sao giải
quyết được tình hình, kinh tế Đức nhanh chóng suy sụp trong chỉ hơn 1 năm, một nửa
nước Đức chìm trong siêu lạm phát.
 Chính sách kiểm soát lạm phát của chính phủ Đức
Chính phủ Đức đã cải cách tài chính và tiền tệ. Vào cuối năm 1923, chính phủ đã
tinh giảm biên chế 1/3 số lượng công nhân viên chức, các khoản bồi thường chiến tranh
tạm đình lại. Đồng thời Ngân hàng Trung ương mới ra đời, thay cho ngân hàng trung
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật


Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 17

ương cũ và cam kết không tài trợ cho chi tiêu chính phủ bằng cách in tiền. Nhờ đó, đến
cuối tháng 12/1923, lượng cung tiền và giá cả đột nhiên ổn định.
 Nguyên nhân chung của mọi cuộc siêu lạm phát là sự gia tăng quá mức trong
cung tiền, điều này thường bắt nguồn từ sự cần thiết phải tài trợ cho thâm hụt ngân sách
quá lớn. Hơn nữa, một khi lạm phát cao đã bắt đầu, tình hình thâm hụt ngân sách có thể
trở nên không thể kiểm soát được: lạm phát cao dẫn đến giảm mạnh nguồn thu từ thuế
tính theo phần trăm so với GDP, làm tăng thâm hụt ngân sách và chính phủ sẽ phải dựa
nhiều hơn vào phát hành tiền mà điều này đến lượt sẽ đẩy lạm phát dâng lên cao hơn.
Dựa trên các bằng chứng lịch sử, thâm hụt ngân sách kéo dài được tài trợ bằng phát hành
tiền trong khoảng từ 10-12 % của GDP sẽ gây ra siêu lạm phát. Nhìn chung, có một số
điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong
các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ hai, nhiều cuộc siêu lạm phát có xu hướng xuất
hiện trong thời gian sau chiến tranh, nội chiến hoặc cách mạng, do sự căng thẳng về ngân
sách chính phủ. Vào thập niên 1980, các cú sốc bên ngoài và cuộc khủng hoảng nợ của
Thế giới thứ ba đã đóng vai trò quan trọng trong việc gây ra siêu lạm phát ở một số nước
Mỹ La-tinh. Nhìn chung, siêu lạm phát thường đi kèm với chiến tranh, chính sách tài
khóa kém hiệu quả, tuy nhiên nguyên nhân trọng tâm vẫn ở cung tiền tăng trưởng quá
nhanh mà không được hỗ trợ bởi tăng trưởng kinh tế.
Năm 2008 đánh dấu sự quay trở lại của lạm phát phi mã với những tác động
nghiêm trọng đến nền kinh tế thế giới. Những nền kinh tế lớn như Mỹ và EU đã phải đối
phó với tình trạng lạm phát và thất nghiệp gia tăng, tăng trưởng kinh tế đình đốn. Lạm
phát trong khu vực các thành viên EU sử dụng đồng euro lập kỷ lục trong tháng 6/2008
với 4%, gấp đôi mục tiêu kiềm chế lạm phát. Mỹ cũng đang đối mặt với lạm phát tăng
hơn 3% trong năm 2008, mức cao gấp đôi so với nhiều năm trước. Hầu hết những nước
đang phát triển và những nền kinh tế mới nổi sau một thời kỳ tăng trưởng nhanh đã bất
ngờ gặp lạm phát tăng cao và đối mặt với nguy cơ tăng trưởng chậm lại. Đối với các
nước phát triển như Trung Quốc, lạm phát đã đạt mức 8,5%, cao nhất trong 12 năm trở

lại đây. Lạm phát ở Ấn Độ là 7,8%, cao nhất trong vòng 4 năm qua. Lạm phát Inđônêsia
lên tới 12% trong tháng 6 sau khi Chính phủ tăng giá xăng dầu lên gần 30%.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 18

 Nguyên nhân của lạm phát năm 2008
 Nguyên nhân của lạm phát tăng cao trong năm 2008 là do giá lương thực và
nhiên liệu tăng cao. Giá dầu tăng nhanh trong thời gian ngắn phá vỡ mọi kỷ lục về giá
trước đây đã khiến cho giá cả các hàng hóa khác tăng nhanh.
 Lạm phát tăng nhanh và bất ngờ trong thời gian ngắn có nguyên nhân xuất phát
từ nguồn cung. Từ năm 2002 đến nay, riêng các nền kinh tế mới nổi đã chiếm 90% lượng
gia tăng trong nhu cầu tiêu dùng của toàn thế giới đối với dầu và kim loại, 80% đối với
lượng gia tăng của nhu cầu tiêu thụ toàn cầu đối với ngũ cốc. Nguồn cung khan hiếm đối
với nguyên nhiên liệu và lượng thực đã tạo ra những cú sốc đẩy giá tăng vọt.
 Nhưng trên hết, nguyên nhân sâu xa đó là do chính sách tiền tệ nới lỏng được
các nước áp dụng trong nhiều năm qua nhằm đạt được mục tiêu về tăng trưởng kinh tế.
Kết quả là tình trạng tăng trưởng nóng kéo dài trong nhiều năm ở nhiều nước. Chính sách
tiền tệ nới lỏng đã khiến cung tiền tăng mạnh, điều này khiến cho nhu cầu trong nước
tăng vọt và giá cả luôn duy trì ở mức cao. Như vậy, nguyên nhân chính của lạm phát nằm
ở chính sách điều hành kinh tế. Ngân hàng trung ương ở các nước mới nổi thường không
có sự độc lập cần thiết khi phải duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng với việc duy trì lãi suất
thấp để phục vụ cho mục tiêu chính trị là tăng trưởng nhanh và vấn đề việc làm. Điều
hành chính sách tiền tệ không nhanh nhạy và linh hoạt sẽ khiến cho lạm phát tăng nhanh
khi giá cả một số mặt hàng chính yếu tăng cao. Vì mọi người kỳ vọng giá cả sẽ tăng lên
nên lạm phát sẽ gây sức ép đòi tăng lương, hệ quả là giá cả hàng hóa tiếp tục tăng để bù
đắp phần chi phí tăng thêm đó và vòng xoáy lạm phát sẽ lại tăng cao hơn nữa.
 Ngoài ra nguyên nhân còn là từ sự bất ổn của khu vực tài chính ở các nước
phát triển trong đó có nền kinh tế Mỹ với sự sụp đổ hàng loạt các tổ chức tín dụng và
ngân hàng, cùng cuộc khủng hoảng nhà đất với tình trạng đầu cơ và tình trạng “siêu bong

bóng”. Các công cụ tài chính phái sinh đã khiến cho thị trường tài chính thế giới trở nên
bấp bênh, dễ khủng hoảng hơn trước.
 Việc nâng giá đồng nội tệ có thể sẽ khuyến khích các nhà đầu tư kỳ vọng đồng
tiền lên giá cao hơn nữa, hấp dẫn các dòng vốn bên ngoài ồ ạt chuyển vào, điều này khiến
lạm phát tăng cao hơn nữa. Đây là vấn đề mà Trung Quốc đang phải đối mặt.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 19

II.2 Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2011
II.2.1 Sơ lược lạm phát từ năm 1986 đến 2011
Số liệu về chỉ số lạm phát đo bằng CPI tháng 12 năm sau so với tháng 12 năm
trước và tốc độ tăng trưởng GDP được tổng hợp lại ở bảng sau:
Bảng 1: Lạm phát CPI và tốc độ tăng GDP ở Việt Nam từ 1987 đến 2010
Đơn vị tính: %

(Nguồn: Tổng hợp số liệu từ các báo cáo thường niên của Tổng cục Thống kê)
Quan sát vào dãy số liệu ta thấy trong vòng 24 năm này, có 2 năm Việt Nam rơi
vào tình trạng siêu lạm phát với chỉ số lạm phát lên đến trên 200%/năm, thậm chí năm
1988, lạm phát còn ở mức kỷ lục 349,4%/năm.
Thời kỳ 1986-1991, lạm phát phi mã, trong đó 1986-1988 tăng tới 402,1%/năm.
Nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm cho thị trường
bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng. Có một nguyên nhân quan trọng là việc thực hiện lộ
trình giá thị trường đối với hầu hết những mặt hàng bao cấp hiện vật bằng tem phiếu định
lượng trong thời kỳ trước, tạo ra mặt bằng giá chung mới cao hơn nhiều. Phải đến cuối
năm 1988 và qua năm 1989, nhiều biện pháp về tiền tệ nhằm kiểm soát lạm phát mới
được đưa ra. Một trong những quyết định quan trọng ghi nhận được lúc đó là việc lần đầu
tiên mạnh tay nới lỏng tỷ giá USD/VND vào cuối năm 1988 và tiếp tục cơ chế linh hoạt
đến năm 1991, trước khi bước vào giai đoạn đóng băng tỷ giá từ năm 1992.
Thời kỳ 1992-1995, lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với các thời kỳ

trước. Nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng (tăng trưởng kinh tế 1991-1995 đạt
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 20

8,2%/năm, đặc biệt lương thực vượt nhu cầu trong nước, đã có xuất khẩu với khối lượng
lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: đối với ngân sách thì thu lấy mà chi; đối với ngân
hàng thì vay lấy mà cho vay-có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân
sách và bội chi tiền mặt.
Thời kỳ 1996-2003 được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp (mặc dù năm
1998 tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực, với tỷ giá năm 1997 tăng
14,2%, năm 1998 tăng 9,6% và giá lương thực tăng 23,1%, giá thực phẩm tăng 8,6%.
Nhưng nhìn chung cả thời kỳ này đã có 3 năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp;
giá lương thực, thực phẩm giảm hoặc tăng thấp. Kết quả kỳ diệu của cơ chế tỷ giá năm
1997. Đồng nội tệ đã bị đánh giá cao cùng với tỷ giá bị cố định cứng trong khoảng thời
gian dài từ 1992 đến 1996 đã thúc đẩy nhập khẩu ồ ạt. Do vậy, thâm hụt thương mại liên
tục tăng để lên đến đỉnh cao hơn 45% vào năm 1995. Năm 1997, lần đầu tiên cơ chế xơ
cứng của tỷ giá được điều chỉnh và kết quả thật kỳ diệu.
Thời kỳ từ 2004 đến nay là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2
năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn. Năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%,
thì năm 2006 tăng 6,6%. Năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, thì năm 2009
tăng 6,52%. Năm 2010 tăng 11,75%, năm 2011 sau 8 tháng đã tăng 15,68% (nếu tính
theo năm thì tháng 8/2011 so với cùng kỳ năm trước đã tăng tới 23,02%). Dự báo cả năm
phải phấn đấu tích cực mới ở mức 18% (nếu theo “quy luật” trong mấy năm qua thì khả
năng năm 2012 sẽ tăng thấp hơn và từ đó có thể nhận thấy việc Chính phủ đưa ra chỉ tiêu
dưới 10% của năm 2012 là có tính khả thi).
Nhìn chung, lạm phát ở nước ta từ năm 2004 đến nay luôn ở mức khá cao. Từ năm
2007 đến nay, lạm phát luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng GDP
bình quân hàng năm giai đoạn 2006-2010 khoảng 7,1%, trong khi đó lạm phát bình quân
hàng năm khoảng gần 11%.

Năm 2007 lạm phát của Việt Nam tăng cao ở mức hai con số 12,63%. Nếu so sánh
với mức lạm phát của một số nước trong khu vực và trên thế giới như Trung Quốc: 6,5%;
Indonesia: 6,59%; Mỹ: 4,08%, Thái Lan: 3,21%, Khu vực đồng Euro: 3,07%, Nhật Bản:
0,7% thì lạm phát của Việt Nam có phần cao hơn. Bước sang Quý I/08 lạm phát của Việt
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 21

Nam đạt 9,19%, vẫn cao hơn so với mức 3,02% của Quý I/07 và bằng khoảng trên 70%
so với mức tăng của cả năm 2007. Đây là mức tăng cao trong vòng 12 năm trở lại đây.
Đến năm 2009, theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
tháng 12-2009 tăng 1,38% so với tháng trước. Như vậy, CPI của cả năm 2009 dừng ở
mức 6,88%, đúng mục tiêu của Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai con số.
Tăng giá mạnh nhất là nhóm giao thông: 2,47%, tiếp theo là nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn
uống: 2,06%. Trong nhóm này, riêng mặt hàng thực phẩm tăng đột biến: 6,88%. Đứng
thứ 3 là nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng, tăng 1,40%. Các nhóm hàng hóa còn lại đều tăng
1% hoặc thấp hơn. Tăng giá ít nhất là nhóm thiết bị đồ dùng gia đình: 0,25%. Chỉ số giá
USD và vàng biến động mạnh. Giá vàng chỉ tăng thêm 0,49% trong tháng 12 nhưng cả
năm 2009 đã tăng đến 9,16%. Chỉ số giá USD tháng 12 tăng 3,19% khiến mức tăng cả
năm lên đến 9,17%.
Trong Báo cáo do Ngân hàng Thế giới (WB) đưa ra ngày 7/12/2010 tại Hội nghị
Nhóm tư vấn các nhà tài trợ (CG-2010), WB nhận định lạm phát cả năm 2010 ở mức
10,5% - cao hơn nhiều so với mục tiêu 8% mà Quốc hội đề ra trước đó. Báo cáo do Ngân
hàng Thế giới nhận định tỷ lệ lạm phát của Việt Nam đột ngột dâng cao hơn dự kiến
trong tháng 10 và 11. Cụ thể, đến cuối tháng 11, tỷ lệ lạm phát 11 tháng đứng ở mức gần
9,6%. Lạm phát giá lương thực hàng năm lên đến 14,8%, cao nhất kể từ tháng 4/2009. Tỉ
trọng thương mại so với GDP lên đến gần 150% và VNĐ đang mất giá cùng với sự tăng
giá hàng hóa trên thế giới chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới mặt bằng giá trong nước.
Ngoài ra, các cú sốc nguồn cung như lụt lội nghiêm trọng tại các tỉnh miền Trung cũng
góp phần gây ra lạm phát.

Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 22


Trong năm 2011, lạm phát tăng 18,13% so với tháng 12/2010. Mức lạm phát tăng
cao trong 4 tháng đầu năm lên tới mức 3,32% trong tháng 4 do sức ép từ tỷ giá, giá cả
hàng hóa năng lượng và cung tiền.Từ tháng 5 trở đi, nhờ những nỗ lực ổn định hóa quyết
liệt của Chính phủ, CPI đã liên tục giảm tốc và xuống dưới 1% kể từ tháng 8/2011

Đặc biệt, mặc dù là tháng cận tết nhưng chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 chỉ
tăng 0,53% so với tháng trước (thấp hơn nhiều so với mức tăng 1,38% và 1,98% của
cùng kỳ năm 2009 và năm 2010), trong đó các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá
tăng cao hơn mức tăng chung là: May mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,86%; nhóm hàng ăn
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 23

và dịch vụ ăn uống tăng 0,69% (Lương thực tăng 1,40%; thực phẩm tăng 0,49%); Thiết
bị và đồ dùng gia đình tăng 0,68%. Các nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng thấp
hơn mức tăng chung gồm: Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,51%; đồ uống và thuốc lá
tăng 0,49%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,35%; thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,24%;
giao thông tăng 0,16%; giáo dục tăng 0,05%; riêng bưu chính viễn thông giảm 0,09%.
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 12/2011 so với tháng 12/2010 tăng 18,13%. Chỉ số giá tiêu
dùng bình quân năm 2011 tăng 18,58% so với bình quân năm 2010.
Chỉ số giá vàng tháng 12/2011 giảm 0,97% so với tháng trước; tăng 24,09% so với
cùng kỳ năm 2010. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 12/2011 tăng 0,02% so với tháng trước;
tăng 2,24% so với cùng kỳ năm 2010.
Chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng nông, lâm nghiệp và thủy sản năm
2011 tăng 31,8% so với năm trước; chỉ số giá bán sản phẩm của người sản xuất hàng công

nghiệp tăng 18,43%; chỉ số giá nguyên, nhiên, vật liệu dùng cho sản xuất tăng 21,27%; chỉ
số giá cước vận tải tăng 18,52%. Chỉ số giá xuất khẩu hàng hóa năm 2011 tăng 19,62% so
với năm 2010; chỉ số giá nhập khẩu hàng hóa tăng 20,18%.
II.2.2 Nguyên nhân gây ra lạm phát ở Việt Nam giai đoạn 2007-2011
 Giá cả hàng hóa thế giới tăng: Với tỷ trọng XNK/GDP đạt 160% GDP, tỷ lệ nhập
khẩu/GDP khá cao ở mức trên 80%, có thể thấy Việt Nam là một nền kinh tế có độ mở
cửa lớn. Bên cạnh đó, Việt Nam nền kinh tế có mức độ phụ thuộc vào nhập khẩu lớn nhất
khu vực, cơ cấu chi phí sản xuất phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu. Do vậy, giá cả
của hàng hóa trong nước chịu sự ảnh hưởng nhất định của giá cả thế giới. Giai đoạn 2006
- 2011, chỉ số hàng hóa thế giới chung tăng 132%, giá năng lượng tăng 90,9%, giá lương
thực tăng 151,2%. Giá trên thị trường quốc tế tăng tác động đến giá cả trong nước qua
hàng hóa nhập khẩu, đồng thời cũng ảnh hưởng đến giá cả những loại hàng hóa vừa xuất
khẩu vừa tiêu thụ trong nước, đặc biệt là hàng hóa nông sản, đã góp phần làm tăng mặt
bằng giá chung trong nước.
 Cơ cấu kinh tế chưa hợp lý:
 Chi phí sản xuất của nền kinh tế cao: chi phí năng lượng cho một đơn vị GDP
vẫn còn cao so với các nước trong khu vực. Chi phí vận chuyển cao do kết cấu hạ tầng,
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 24

giao thông chưa phát triển. Tiền lương tối thiểu được điều chỉnh tăng góp phần trực tiếp
làm tăng chi phí sản xuất, qua đó ảnh hưởng CPI.
 Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và năng suất lao động thấp: ICOR cũng tăng
nhanh qua các giai đoạn. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) hoạt động kém hiệu
quả nhất về mặt sử dụng vốn. Trong cả giai đoạn 2000 - 2011, để tạo ra 1 đồng giá trị
tăng thêm, khu vực này phải bỏ ra 10,13 đồng vốn. Xét trong giai đoạn 2006 - 2011, giá
trị này phải là 17,42 đồng mới có được 1 đồng giá trị tăng thêm. Khu vực Nhà nước,
trong cả giai đoạn 2000 - 2011, bỏ ra 7,54 đồng để có được 1 đồng giá trị tăng thêm; giai
đoạn 2006 - 2011, hiệu quả đầu tư tiếp tục giảm khi cần 7,98 đồng mới tạo ra được 1

đồng giá trị tăng thêm. Hiệu quả sử dụng vốn ở khu vực ngoài nhà nước lại tốt nhất.
Trong giai đoạn 2006 - 2011, mức đầu tư để tạo ra 1 đồng giá trị tăng thêm của khu vực
này chỉ là 4,32 đồng.

Việc đầu tư tràn lan, dàn trải, thiếu trọng tâm, trọng điểm, dẫn đến hiệu quả đầu tư
không cao và tạo gánh nặng về vốn cho nền kinh tế. Bên cạnh đó, việc triển khai cùng
một lúc nhiều chương trình tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước và tín dụng chính
sách với lãi suất ưu đãi, trong khi hiệu quả đầu tư thấp cũng làm tăng thêm chi phí vốn
cho nền kinh tế.
Tiểu Luận Môn Học Giảng viên: TS. Diệp Gia Luật

Lớp CHKT Ngày 3 - Nhóm 2 Trang 25

Năng suất lao động xã hội của Việt Nam năm 2010 đạt 40,3 triệu đồng/người, chỉ
tương đương với 2.067 USD, thấp xa so với các con số tương ứng của một số nước
 Hoạt động của khu vực doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả: làm cho chi phí
sản xuất, giá thành và giá vốn tăng cao. Công tác quản lý của khu vực này có nhiều hạn
chế: chưa minh bạch hóa hoạt động và công khai thông tin; chủ sở hữu nhà nước chưa
thực sự trở thành một nhà đấu tư; chưa chuyên nghiệp theo kinh tế thị trường; công tác
giám sát còn thiếu tách bạch giữa quản lý và điều hành, giữa chủ thể giám sát và đối
tượng giám sát.
 Phá giá tiền đồng và xuất nhập khẩu: Đồng Việt Nam liên tục mất giá so với USD
trong nhiều năm qua cũng ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả hàng hóa trong nước, tác động
đáng kể đến lạm phát. Trong giai đoạn 2006 - 2010, tỷ giá tăng 21,2%. Xuất khẩu phụ
thuộc vào hàng nhập khẩu từ nước ngoài và tỷ trọng nhập khẩu/GDP cao thì việc đồng
Việt Nam mất giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến mức giá cả trong nước.
 Giá vàng thế giới liên tục tăng: Giá vàng thế giới liên tục tăng từ 2009 cùng với
yếu tố tâm lý, đầu cơ đã đẩy giá vàng trong nước tăng mạnh, nhu cầu nhập khẩu vàng
tăng cao và tác động lên tỷ giá. Khi giá vàng và tỷ giá tăng cao lại tác động đến tâm lý và
lòng tin vào đồng nội tệ dẫn đến lạm phát có xu hướng tăng. Với mức tăng 64.32% năm

2009, 30% năm 2010 và 24.09% năm 2011, giá vàng trong nước đã tác động không nhỏ
đến chỉ số giá tiêu dung trong những năm qua.
 Nới lỏng cung tiền và tín dụng trong một thời gian dài: Tốc độ tăng cung tiền M2
khá cao so với các nước trong khu vực. Trong giai đoạn 2000 - 2010, tốc độ tăng cung
tiền của Việt Nam đạt mức 31,4%, trong khi đó của Trung Quốc là 17,8%, Inđônêxia
13%, Malaysia 8,7%, Thái Lan 6,2%.

×