Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch diễn án dân sự 07: Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.24 KB, 12 trang )

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: Kỹ năng cơ bản của Luật sư tham gia giải quyết các vụ việc dân sự
Hồ sơ tình huống số LS.DS 07/B3.TH2 – DA1/HNGĐ
Tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản
I.

XÁC ĐỊNH TƯ CÁCH CỦA CÁC ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN
-

Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Hảo
Sinh năm: 1978
Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương

-

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn Nguyệt
Sinh năm: 1976
Địa chỉ: Thôn Thượng Triệt I, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương

-

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
 Bà Nguyễn Thị Thoa
Sinh năm: 1944
Địa chỉ: Khu dân cư số 2, thôn Thượng Triệt, xã Thượng Đạt, thành phố Hải
Dương, tỉnh Hải Dương
 Cháu Nguyễn Thị Nhi
Sinh năm: 2000
Địa chỉ: Thôn Nam Giàng, xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải


Dương.
 Cháu Nguyễn Đức Anh: sinh năm 2007
 UBND thành phố Hải Dương
Địa chỉ: Số 106 Trần Hưng Đạo, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương.

-

Người làm chứng: Ơng Nguyễn Văn Bích
Sinh năm: 1961
Là cơng chức địa chính xây dựng UBND xã Thượng Đạt, Thành phố Hải Dương.

II.

TĨM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN

1.

Tóm tắt nội dung vụ án

-

Ngày 26/03/1999 chị Hoàng Thị Hảo và anh Nguyễn Văn Nguyệt kết hôn tự
nguyện và đã được UBND xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải
Dương cấp Giấy chứng nhận kết hôn. Hai vợ chồng có 2 người con chung là
cháu Nguyễn Thị Nhi sinh năm 2000 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh năm 2007.
Theo chị Hảo, tài sản chung của anh chị bao gồm: (i) 01 thửa đất có số thửa 496,


tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2 do UBND huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương
cấp ngày 31/12/2005; và (ii) tài sản trên đất.

-

Sau một thời gian chung sống thì phát sinh mâu thuẫn nên cuối năm 2014 hai
người không còn sống chung với nhau. Hiện tại cháu Nhi ở với chị Hảo, cháu
Đức Anh ở với anh Nguyệt.

-

Ngày 02/01/2016, chị Hảo làm đơn khởi kiện anh Nguyệt ra TAND thành phố
Hải Dương yêu cầu xin ly hôn, nuôi 02 con chung - không đề nghị cấp dưỡng và
chia đôi tài sản chung là thửa đất số 496 tờ bản đồ số 01, diện tích 216m2.

-

Anh Nguyệt đồng ý với ly hôn của chị Nguyệt nhưng không đồng ý về nuôi con
và chia tài sản theo yêu cầu của chị Hảo. Về nuôi con, anh Nguyệt đề nghị mỗi
người nuôi một con, anh Nguyệt nuôi cháu Đức Anh, chị Hảo nuôi cháu Nhi. Về
chia tài sản, anh Nguyệt cho rằng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên
hai vợ chồng nhưng thực tế là đất của bố mẹ và anh em của anh Nguyệt đã đóng
góp tiền mua của UBND xã Thượng Đạt năm 1994; đề nghị hủy Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Nguyệt - chị Hảo để cấp lại cho bố mẹ
mình là bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang.

-

Bà Thoa (mẹ anh Nguyệt) cho rằng đây là thửa đất của vợ chồng bà. Gia đình bà
đã bỏ cơng sức, chi phí để san lấp được khoảng ¾ thửa đất. Gia đình bà chỉ cho
anh Nguyệt, chị Hảo ở nhờ, không cho hẳn vì khơng có bất cứ văn bản nào
chuyển nhượng, tặng cho vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo. Bà Thoa đã biết việc
anh Nguyệt chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng không

phản đối hay thắc mắc và khơng tranh chấp gì. Bà Thoa đề nghị hủy giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo.

-

Ngày 10/01/2016, TAND TP Hải Dương có thơng báo số 02/TB-TLVA về việc
thụ lý vụ án.

-

Toà án đã tổ chức nhiều phiên hịa giải nhưng hịa giải khơng thành (ngày
19/05/2016, ngày 17/06/2016), lấy lời khai của đương sự và những người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, xác minh nguồn gốc tài sản, xem xét thẩm định
tại chỗ;…

-

Ngày 12/07/2016, Tòa án tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận cơng
khai chứng cứ và hịa giải.

-

Ngày 03/08/2017, tịa án có quyết định số 73/2017/QĐST-DS về việc đưa vụ án
ra xét xử.

2.

Quan hệ pháp luật tranh chấp của vụ án: Tranh chấp về quan hệ hôn nhân và
gia đình: ly hơn, ni con, chia tài sản.


3.

u cầu khời kiện của nguyên đơn:
Chị Hoàng Thị Hảo nộp đơn khởi kiện anh Nguyễn Văn Nguyệt ra TAND Thành
phố Hải Dương, Tỉnh Hải Dương với những yêu cầu:

-

Thứ nhất: Yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn Nguyệt;

-

Thứ hai: Yêu cầu được nuôi hai con chung là Nguyễn Thị Nhi (sinh 04/01/2001)
và Nguyễn Đức Anh (sinh 13/06/2007), không yêu cầu anh Nguyệt cấp dưỡng;
2


-

Thứ ba: Yêu cầu chia đôi tài sản chung là (i) đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01,
diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải; và (ii) tài sản trên đất.
Các tài liệu, chứng cứ kèm theo có:

-

Giấy chứng nhận đăng ký kết hơn;

-

Giấy khai sinh cháu Nguyễn Thị Nhi;


-

Giấy khai sinh cháu Nguyễn Đức Anh,

-

Sổ hộ khẩu;

-

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;

-

Đơn đề nghị của cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn Đức Anh.

4.

Nội dung thống nhất giữa các đương sự: Đã thống nhất vấn đề ly hôn.

5.

Nội dung chưa thống nhất giữa các đương sự:

5.1. Nguyên nhân dẫn đến việc ly hôn:
-

Nguyên đơn: Bị đơn có tính chơi bời hay chửi bới, đánh đập vợ con, hai bên đã
không sống chung với nhau đã một năm.


-

Bị đơn: Nguyên đơn hay ghen, mỗi lần như vậy lại bỏ về nhà mẹ đẻ sống; có
hành vi gọi điện thoại cho đầu gấu về đâm chết bị đơn, hai vợ chồng khơng cịn
sống chung với nhau, nguyên đơn bỏ về nhà mẹ đẻ từ ngày 14/12/2014.

5.2. Nuôi con:
-

Nguyên đơn: đề nghị được nuôi cả hai con, không yêu cầu bị đơn cấp dưỡng.

-

Bị đơn: đề nghị mỗi người nuôi một con, bị đơn nuôi cháu Đức Anh, nguyên đơn
nuôi cháu Nhi.

5.3. Tài sản chung của vợ chồng:
-

Nguyên đơn: xác nhận (i) thửa đất có số thửa 496, tờ bản đồ số 01, diện tích
216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương; và (ii) tài sản trên đất. Đề nghị
Tòa án chia tài sản chung bằng hiện vật, khơng có u cầu với tài sản trên đất.

-

Bị đơn: xác nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất có số thửa 496, tờ bản
đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương đứng tên hai
vợ chồng nhưng thực tế là đất của bố mẹ đẻ bị đơn (Bà Thoa – ông Cang) để lại
nên không phải là tài sản chung của vợ chồng. Đề nghị Tòa án hủy Giấy chứng

nhận quyền sử dụng đất và cấp lại cho Bà Thoa – ông Cang.

-

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: xác nhận thửa đất có số thửa 496, tờ bản
đồ số 01, diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, thành phố Hải Dương là của vợ
chồng bà Thoa, gia đình bà chỉ cho vợ chồng anh Hảo, chị Nguyệt ra ở chứ
không cho hẳn. Bà Thoa đã biết việc anh Nguyệt chị Hảo được cấp sổ đỏ nhưng
không phản đối hay thắc mắc và khơng tranh chấp gì. Đề nghị Tịa án hủy Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo.

III.
1.

XÂY DỰNG KẾ HOẠCH HỎI TẠI PHIÊN TÒA SƠ THẨM
Hỏi để làm rõ nguyên nhân dẫn đến ly hôn
3


1.1 Hỏi nguyên đơn:
-

Chị và anh Nguyệt phát sinh mâu thuẫn từ thời điểm nào?

-

Trong quá trình chung sống, anh Nguyệt có thường xuyên dùng lời lẽ xúc phạm
hoặc sử dụng vũ lực với chị không?

-


Những lời lẽ xúc phạm mà anh dùng để chửi bới chị là gì?

-

Chị và anh Nguyệt xảy ra mâu thuẫn trong quá trình chung sống có ai biết
khơng?

-

Khi anh Việt xúc phạm và sử dụng vũ lực với chị các con của chị chứng kiến
không?

1.2 Hỏi bị đơn
-

Anh và chị Hảo không sống chung với nhau từ thời điểm nào?

-

Nguyên nhân dẫn đến việc anh chị khơng cịn chung sống là gì?

-

Anh đã từng hoà giải với chị Nguyệt sau khi xảy ra mâu thuẫn chưa?

-

Khi sống chung với nhau anh có thường xuyên quan tâm, chăm sóc chị Hảo và
các con khơng?


-

Trong thời gian cịn chung sống, anh có thường xun đi chơi, tụ tập bạn bè
không?

-

Sau khi đi chơi về anh thường làm gì?

-

Chị Hảo nói rằng sau khi đi chơi về, anh thường dùng lời lẽ xúc phạm, thậm chí
sử dụng vũ lực với chị Hảo, điều này có đúng khơng?

2.

Hỏi để làm rõ yêu cầu nuôi con

2.1 Hỏi nguyên đơn:
-

Chị Hảo hiện tại làm đang làm việc ở đâu?

-

Chị cho biết mức thu nhập hàng tháng của chị là bao nhiêu?

-


Thời gian làm việc của chị tại công ty như thế nào?

-

Chị Hảo đang ở đâu và sống cùng với ai?

-

Nếu chị bận cơng việc, ai có thể hỗ trợ chị chăm sóc các con?

-

Chị có thường xuyên tâm sự và chia sẻ với các con không?

-

Cháu Nhi và cháu Đức Anh hiện tại đang học tại trường nào? Tình hình học tập
của các cháu như thế nào? Chị có thường xuyên trao đổi vấn đề học tập của các
cháu với cô giáo chủ nhiệm không?

-

Khi về gặp cháu Đức Anh, anh Nguyệt cho chị gặp con không? Nếu chị và Đức
Anh gặp nhau, anh Nguyệt hành xử như thế nào?

2.2 Hỏi bị đơn
-

Anh Nguyệt cho biết anh đang làm cơng việc gì?


-

Cơng việc hiện tại của anh có ổn định hay không?
4


-

Mức thu nhập bình quân của anh là bao nhiêu?

-

Anh có giành thời gian tâm sự với các con khơng?

-

Ai là người chủ yếu giành thời gian chăm sóc các con?

-

Khi còn sống chung với nhau, mỗi lần đi chơi về, anh có hành vi sử dụng vũ lực
với con đúng khơng?

-

Các con anh có chứng kiến những lần anh và chị Hảo xảy ra mâu thuẫn không?

-

Từ khi cháu Nhi về sống với chị Hảo, anh đã đi gặp con lần nào chưa?


-

Anh có nắm được tình hình học tập của các con tại trường như thế nào?

-

Anh có cho cháu Đức Anh gặp mẹ và chị không?

-

Khi Đức Anh và chị Hảo gặp nhau, anh có hành vi sử dụng vũ lực với cháu đúng
không?

2.3 Hỏi hai cháu Nguyễn Thị Nhi và Nguyễn Đức Anh
-

-

3.

Hỏi cháu Nhi:


Cháu Nhi năm nay mấy tuổi rồi? Hiện tại cháu đang học lớp mấy và học tại
trường nào?



Trong gia đình, ai là người thường xuyên tâm sự và chia sẻ với cháu?




Mẹ Hảo có quan tâm với việc học tập của cháu không?



Khi mẹ bận công việc, cháu ở với ai? Mẹ có nhờ ai chăm sóc cháu khơng?



Từ khi bố mẹ khơng cịn sống chung với nhau, bố cháu có thường xun gặp
gỡ cháu khơng? Bố có cho cháu gặp em Đức Anh khơng?



Khi bố đi chơi về mắng mẹ thì cháu và em làm gì? Cháu có thấy buồn
khơng?



Nếu bố mẹ cháu ly hôn, cháu muốn ở cùng với ai?

Hỏi cháu Đức Anh:


Đức Anh năm nay học lớp mấy? Cháu học tại trường nào?




Trong gia đình ai là người dạy cháu học bài? Khi có bài tập về nhà khó, cháu
sẽ nhờ ai giảng bài cho mình?



Khi khơng cịn sống chung, bố có cho cháu gặp mẹ Hảo và chị Nhi khơng?



Khi khơng có mẹ ở cùng cháu có thấy nhớ mẹ và chị khơng? Những khi như
thế cháu có xin bố cho gặp mẹ không?



Khi mẹ gặp gỡ và hỏi thăm cháu, bố cháu có thái độ và hanh vi gì với cháu?



Khi bố mẹ cháu ly hơn, cháu muốn sống cùng ai?

Hỏi để làm rõ về tài sản chung của vợ chồng

3.1 Hỏi nguyên đơn
-

Thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01 diện tích 216m 2 tại xã Thượng Đạt, thành phố
Hải Dương vợ chồng anh chị đã sinh sống ổn định từ năm nào?
5



-

Từ thời điểm sinh sống đến nay, diện tích đất đó có tranh chấp với ai khơng?

-

Vợ chồng chị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi nào?

-

Khi biết vợ chồng chị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gia đình
bên nhà anh Nguyệt có ai có ý kiến gì khơng?

3.2 Hỏi bị đơn
-

Gia đình anh cho vợ chồng anh ở trên diện tích đất 215m2 ở từ khi nào?

-

Trong q trình ở trên diện tích đất, mọi người trong gia đình anh có tranh chấp
với nhau khơng?

-

Trong q trình ở trên diện tích đất, anh chị đã tơn tạo, xây dựng những gì? Ai là
người bỏ tiền ra để tôn tạo và xây dựng?

-


Ai là người kê khai để cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất?

-

Vợ chồng anh chị thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối với diện tích đất từ khi nào?

-

Việc anh chị được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất những thành viên
khác trong gia đình anh có ai biết khơng? Họ có ý kiến phản đối gì khơng?

3.3 Hỏi người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (Bà Nguyễn Thị Thoa)
-

Có phải bà cho vợ chồng anh Nguyệt và chị Hảo thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1
diện tích 216m2 tại xã Thượng Đạt, Thành phố Hải Dương không?

-

Bà cho từ khi nào?

-

Từ năm 1999 khi được bà cho đất, vợ chồng chị Hảo anh Nguyệt thực hiện làm
nhà và tôn tạo lại mảnh đất, bà có biết việc đó khơng? Bà có ý kiến gì khơng?

-

Từ năm 1999 đến nay bà có thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho diện tích đất này
khơng?


-

Khi anh Nguyệt và chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bà có
biết khơng?

-

Thời điểm nào bà biết diện tích đất 216m2 được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đứng tên chị Hảo, anh Nguyệt? Khi biết bà có phản đối khơng?

-

Bà có hiểu việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất đồng nghĩa với việc thửa đất đó sẽ trở thành tài sản chung của vợ chồng
không?

-

Bà cho vợ chồng anh Nguyệt và ở nhờ chứ không phải cho luôn, nhưng khi biết
việc anh chị được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đứng tên chị Hảo, anh
Nguyệt bà lại không phản đối?

3.4 Hỏi người làm chứng là ông Nguyễn Văn Bích (cơng chức địa chính xây dựng
UBND xã Thượng Đạt, TP Hải Dương)
-

Trong suốt quá trình sử dụng thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1 diện tích 216m2 tại
xã Thượng Đạt, TP Hải Dương vợ chồng anh Nguyệt, chị Hảo có phát sinh tranh
chấp với ai khơng? Có biến động gì đối với thửa đất đó khơng?

6


IV.

-

Trong q trình sinh sống trên diện tích đất, chị Hảo – anh Nguyệt có thực hiện
đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế với Nhà nước không?

-

Sau khi anh Nguyệt, chị Hảo được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất anh
có nhận đơn thư khiếu nại nào về việc cấp khơng?
BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CHO
NGUN ĐƠN

ĐỒN LUẬT SƯ TỈNH VĨNH PHÚC

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

VĂN PHÒNG LUẬT SƯ ÁNH DƯƠNG

Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
Ngày 20 tháng 04 năm 2021

BẢN LUẬN CỨ
Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Hoàng Thị Hảo – nguyên đơn trong vụ án
“tranh chấp ly hôn, nuôi con, chia tài sản” với bị đơn là anh Nguyễn Văn Nguyệt
Kính thưa Hội đồng xét xử!

Tôi là Luật sư Dương Thị Ngọc Ánh thuộc Văn phịng Luật sư Ánh Dương –
Đồn Luật sư tỉnh Vĩnh Phúc. Theo yêu cầu của nguyên đơn là chị Hoàng Thị Hảo và
được sự chấp thuận của Quý Tịa, tơi có mặt tại phiên tịa ngày hơm nay với tư cách là
Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị Hoàng Thị Hảo - nguyên đơn trong
vụ án dân sự “Tranh chấp hôn nhân và gia đình: Ly hơn, ni con và chia tài sản”.
Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ cùng các lời khai của các đương sự cũng
như người làm chứng, căn cứ vào việc xét hỏi và tranh luận tại phiên tịa hơm nay, tơi
xin trình bày bản luận cứ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn như sau:
Thứ nhất, về yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn: Chị Hảo và anh Nguyệt kết
hôn trên cơ sở tự nguyện và hợp pháp tại UBND xã Thượng Đạt theo giấy chứng nhận
kết hôn ngày 26/03/1999. Sau một thời gian chung sống hai vợ chồng phát sinh mâu
thuẫn. Anh Nguyệt ít quan tâm đến vợ con, đi chơi về thường xuyên có hành vi chửi
bới, đánh đập chị Hảo và các con. Hai bên gia đình đã hịa giải nhiều lần nhưng anh
Nguyệt vẫn không sửa chữa dẫn đến mâu thuẫn ngày càng gay gắt hơn. Đặc biệt, hai
vợ chồng anh chị đã khơng cịn sống chung từ tháng 12 năm 2014 đến nay. Xét thấy
tình cảm vợ chồng khơng cịn, tình trạng hơn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, mục
đích hơn nhân khơng đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Đồng thời, tại các
biên bản lấy lời khai và bản tự khai vào các ngày 18/01/2016 (Bút lục số 18),
20/01/2016 (Bút lục 24) của anh Nguyệt và việc xét hỏi tại phiên tịa hơm nay đều thể
hiện ý chí của anh Nguyệt đồng ý ly hôn với chị Hảo. Do vậy, căn cứ khoản 1 Điều 56
luật Hơn nhân và gia đình 2014 thì có đủ căn cứ để chị Hảo ly hơn với anh Nguyệt.
Thứ hai, về yêu cầu nuôi con: Chị Hảo và anh Nguyệt có 2 con chung là cháu
Nguyễn Thị Nhi sinh ngày 04/1/2001 và cháu Nguyễn Đức Anh sinh ngày 13/6/2007.
Chị Hảo có mong muốn được ni cả hai cháu, bởi lẽ:
7


Xét về điều kiện thu nhập: Hiện tại chị Hảo là công nhân tại Công ty Trấn An,
đường Ngô Quyền, Thành phố Hải Dương. Chị Hảo đã làm việc tại đây nhiều năm,
công việc ổn định với mức thu nhập bình quân hàng tháng là 5- 6 triệu đồng/tháng. Tại

địa phương nơi chị Hảo đang sinh sống, mức thu nhập này là phù hợp so với chi tiêu
bình quân hàng tháng. Còn Anh Nguyệt chỉ là lao động tự do, công việc không thể ổn
định lâu dài như chị Hảo. Vì vậy tơi khẳng định, chị Hảo có đủ điều kiện để ni
dưỡng và chăm sóc cháu Nhi, cháu Đức Anh.
Xét về điều kiện nơi ở: Chị Hảo đang sống tại nhà mẹ đẻ - nơi ở ổn định và lâu
dài. Mẹ chị Hảo thường xuyên giúp đỡ chị chăm sóc và quan tâm các cháu. Với tình
u thương của một người bà, tôi khẳng định rằng, cháu Nhi và cháu Đức Anh sẽ có
được cuộc sống ổn định và lâu dài tại đây đồng thời cũng được tạo điều kiện tốt nhất
để học tập và phát triển.
Xét về điều kiện tinh thần: Cháu Nhi là con gái, cháu đang ở tuổi phát triển nên
tâm trạng, cảm phúc có nhiều phức tạp, suy nghĩ và hành động cũng có nhiều sự thay
đổi nên việc cháu ở với mẹ là điều hoàn toàn đúng. Giữa mẹ và con gái lúc nào cũng
dễ chia sẻ và tâm sự với nhau hơn. Còn cháu Đức Anh, tuy là con trai nhưng ở nhà
cũng hay chia sẻ với mẹ và nhận được sự quan tâm của mẹ hơn là của bố. Ở cái tuổi
đang lớn, chắc chắn các bé trai như cháu Đức Anh cần nhận được nhiều sự quan tâm,
dạy dỗ và uốn nắn của người mẹ để không cảm thấy hụt hẫng và thiếu vắng tình cảm.
Khi chị Hảo và anh Nguyệt còn sống chung với nhau, chị Hảo cũng là người thường
xuyên gần gũi quan tâm tới các con, đặc biệt là cháu Đức Anh vì là con út trong gia
đình. Chị hay giảng bài, hay trao đổi với cháu về tình hình học tập trên lớp. Khi khơng
cịn sống chung với nhau, chị vẫn thường xuyên về gặp con, động viên tinh thần của
Đức Anh để cháu không bị thiếu thốn tình cảm dù cho anh Nguyệt cấm cản.
Mặt khác, anh Nguyệt là một người vơ tâm. Khi cịn sống chung với nhau, anh
không quan tâm với vợ và các con. Khi đi chơi về lại có những lời lẽ xúc phạm và
dùng vũ lực trút giận lên vợ cũng như các con. Chưa kể đến việc, khơng cịn sống
chung với nhau, anh cũng không quan tâm tới các con, không thường xuyên thăm nom
cháu Nhi, cấm cháu Đức Anh gặp mẹ dù biết rằng một đứa trẻ 10 tuổi phải sống xa mẹ
thì thiếu thốn tình cảm tới mức nào. Thậm chí, khi chị Hảo về gặp con, anh lại có
những hành động cấm cản thậm chí sử dụng vũ lực với Đức Anh. Điều này chính
quyền và bà con hàng xóm láng giềng đều biết và ơng Đỗ Văn Tứ, cán bộ tư pháp xã
Thượng Đạt cũng đã xác nhận thực tế. Việc hành hạ con mình là khơng thể chấp nhận

được vì sẽ gây ra những tổn thương trong tâm hồn trẻ thơ mà khơng thể có cách nào
hàn gắn được. Thử hỏi, những đứa trẻ sống chung với một người bố vô trách nhiệm
như vậy và lớn lên trong một mơi trường như thế liệu có phát triển được bình thường
hay khơng?
Như vậy, nếu như anh Nguyệt được giao ni cháu Đức Anh thì sau khi ly hơn,
quyền được thăm nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục cháu Đức Anh của chị Hảo
theo khoản 2 Điều 83 Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 Điều 15 Luật Trẻ em quy
định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, ni dưỡng để phát triển tồn diện” anh
Nguyệt đã khơng đảm bảo được việc chăm sóc và ni dưỡng để cháu Đức Anh phát
triển toàn diện và đảm bảo quyền được thăm nom của người còn lại sau khi ly hôn.
8


Khi về sống chung với chị Hảo, cháu Đức Anh sẽ nhận được sự quan tâm, chăm
sóc ân cần của mẹ, của bà, hàng ngày được vui chơi, nô đùa cùng chị gái, được học tập
và phát triển trong một mơi trường tràn ngập tình u thương – điều này rất tốt cho
những đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn đặc biệt là những đứa trẻ phải chịu nhiều tổn
thương từ nhỏ như Đức Anh. Vì vậy, tơi khẳng định chị Hảo ni dưỡng và chăm sóc
cháu Nhi, cháu Đức Anh là hoàn toàn hợp lý.
Xét về nguyện vọng của các con: về phía cháu Nhi hiện cháu đang ở với mẹ và
cũng có nguyện vọng được ở với mẹ như đã nêu tại đơn đề nghị gửi Quý tòa ngày
20/01/2016. Về phía cháu Đức anh, cháu cũng thể hiện nguyện vọng được ở với mẹ tại
biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 05/7/2016 (tại bút lục số 166) có sự chứng kiến
của bà Nguyễn Thị Thoa là bà nội của cháu.
Với các lý do đã nêu trên và xét đến quyền lợi về mọi mặt đối với con chung của
ngun đơn và bị đơn, tơi kính đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật
Hơn nhân và Gia đình năm 2014 để giao cả hai cháu Nhi và Đức Anh cho nguyên đơn
nuôi dưỡng, chăm sóc.
Thứ ba, về yêu cầu chia tài sản: Vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt đã sống trên
thửa đất số 496 từ sau khi kết hôn năm 1999. Hai vợ chồng đã xây dựng một nhà lợp

ngói, 1 gian bếp và nhà vệ sinh 1 giếng khơi và 1 bể xây gạch xi măng trên thửa đất
này. Đây là tài sản chung của hai vợ chồng vì:
Một là, chị Hảo và anh Nguyệt đều thừa nhận rằng anh chị được bố mẹ chồng là
bà Nguyễn Thị Thoa và ông Nguyễn Văn Cang cho vợ chồng xây dựng nhà và cơng
trình phụ để ra ở riêng từ năm 1999 sau khi kết hơn. Điều này cũng đã được Ơng Đỗ
Văn Tỏ là anh em trong họ với anh Nguyệt xác nhận cùng với ông Nguyễn Văn Giới
và một số thợ khác đã xây nhà và cơng trình phụ cho hai vợ chồng năm 1999.
Hai là, tại bản xác minh ngày 9/3/2016 của TAND thành phố Hải Dương, ông
Nguyễn Văn Bích, cán bộ địa chính xã Thượng Đạt đã xác nhận rằng thửa đất này
trước đây là thùng vũng, tại biên bản lấy lời khai của Quý tòa ngày 9/3/2016, ông Đỗ
Văn Tạo là hàng xóm của hai vợ chồng đã nêu rõ tại thời điểm năm 2002 chị Nguyệt
và anh Hảo đã ở trên thửa đất được một thời gian và khi đó diện tích thùng vũng chiếm
khoảng ¾ thửa đất, ông Tạo đã giúp phun bùn bồi lắp và đến năm 2004 có thấy hai vợ
chồng tiếp tục đắp thêm cho thửa đất thùng vũng này. Điều này cho thấy, thửa đất này
được như ngày hôm nay là do công xây dựng và tôn tạo của hai vợ chồng anh Nguyệt
và chị Hảo.
Thửa đất này đã được cấp GCNQSDĐ cho hai vợ chồng chị Hảo và anh Nguyệt
từ năm 2005 hợp pháp bởi các căn cứ sau:
+ Ngày 31/12/2005, UBND huyện Nam Sách tỉnh Hải Dương đã cấp Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 496, tờ bản đồ số 1, diện tích 216m 2 tại xã
Thượng Đạt cho chị Hảo và anh Nguyệt. Tại cơng văn ngày 10/6/2016 của Phịng Tài
ngun và Mơi trường UBND Thành phố Hải Dương (bút lục số 133-134) đã xác nhận
“Căn cứ theo Điều 135 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 của Chính
phủ về thi hành Luật Đất đai 2003 về trình tự thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử
9


dụng đất cho anh Nguyệt và chị Hảo là đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy
định của pháp luật đất đai”.
+ Tại buổi hòa giải ngày 19/5/2016 và trong phần xét hỏi tại phiên tịa hơm nay,

bà Thoa nêu rằng đã biết việc anh Nguyệt và chị Hảo được cấp GCNQSD đất từ năm
2006 đến nay là hơn 10 năm nhưng bà Thoa khơng có ý kiến phản đối hay thắc mắc gì,
khơng ai tranh chấp gì. Đồng thời các thành viên trong gia đình bà Thoa cũng khơng
có tranh chấp hay ý kiến phản đối gì. Bên cạnh đó, tại biên bản xác minh ngày
23/6/2016 và tại phiên tịa ngày hơm nay ơng Bích cán bộ địa chính xã Thượng Đạt
xác nhận kể từ khi được cấp GCNQSDĐ đến nay anh Nguyệt và chị Hảo sử dụng đất
ổn định khơng có tranh chấp với các hộ giáp danh cũng như với ông Cang, bà Thoa và
các thành viên khác trong gia đình anh Nguyệt.
+ Theo Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 220/QĐ-CA
ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao Khái quát nội dung
của án lệ: “Trường hợp cha mẹ đã cho vợ chồng người con một diện tích đất và vợ
chồng người con đã xây dựng nhà kiên cố trên diện tích đất đó để làm nơi ở, khi vợ
chồng người con xây dựng nhà thì cha mẹ và những người khác trong gia đình khơng
có ý kiến phản đối gì; vợ chồng người con đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn
định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì
phải xác định vợ chồng người con đã được tặng cho quyền sử dụng đất”.
Các tình tiết về yêu cầu chia tài sản giữa nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án đang giải quyết ngày hôm nay có nhiều điểm tương tự
giống với phần yêu cầu chia tài sản là diện tích đất 80m2 tại xóm Vân Hịa, xã Vân
Tảo, huyện Thường Tín tại án lệ số 03 với nội dung “Theo xác minh tại Ủy ban nhân
dân xã Vân Tảo thì năm 2001 xã tổ chức cho các hộ dân trong xã Vân Tảo đăng ký kê
khai để xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng và các hộ kê khai tại trụ sở thơn xóm
(BL 103). Tất cả các hộ dân trong xã đều được biết về chủ trương kê khai đất này.
Ông Phác là chủ đất nhưng không đi kê khai. Anh Nam đang ở trên đất và là người đi
kê khai làm thủ tục cấp giấy chứng nhận. Ngày 21-12-2001 anh Nam được cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất số U060645 đứng tên hộ ông Phạm Gia Nam. Vợ
chồng anh chị đã xây nhà 2 tầng kiên cố vào năm 2002 và đến năm 2005 thì xây thêm
tum tầng 3. Ơng Phác và các anh chị em trong gia đình anh Nam đều biết việc xây
dựng trên của vợ chồng anh Nam chị Hồng, nhưng cũng khơng ai có ý kiến gì. Như

vậy, từ khi được cấp giấy chứng nhận (2001) cho đến khi có việc ly hơn của anh Nam,
chị Hồng (2009), gia đình ơng Phác cũng khơng ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây
nhà này. Điều đó thể hiện ý chí của gia đình ơng Phác là đã cho anh Nam và chị Hồng
diện tích đất nêu trên. Do đó, việc ơng Phác và anh Nam khai rằng anh Nam tự ý kê
khai giấy tờ đất, ông Phác khơng biết là khơng có cơ sở chấp nhận. Như vậy, có căn
cứ xác định lời khai của chị Hồng về việc gia đình ơng Phác đã cho anh chị diện tích
đất trên, là có cơ sở.
Do đó, việc Tòa án các cấp nhận định rằng anh Nam đi làm giấy tờ đất ông
Phác không biết và việc chị Hồng khai gia đình chồng đã cho vợ chồng nhưng khơng
có chứng cứ chứng minh, để xác định diện tích đất 80m 2 tại thơn Vân Hịa, xã Vân
10


Tảo, huyện Thường Tín, thành phố Hà Nội là tài sản thuộc hộ gia đình ơng Phạm Gia
Phác; đồng thời buộc anh Nam, chị Hồng trả lại đất cho gia đình ơng Phác, là khơng
đúng, cần phải xác định diện tích đất tranh chấp trên là tài sản chung của vợ chồng
anh Nam, chị Hồng và khi chia phải coi anh Nam có cơng sức đóng góp nhiều hơn
để chia theo công sức của mỗi bên và cần phải căn cứ vào nhu cầu về chỗ ở để chia
hiện vật cho các bên nhằm đảm bảo quyền lợi cho các đương sự.”
Với các tài liệu và chứng cứ nêu trên cho thấy từ khi vợ chồng chị Hảo, anh
Nguyệt sinh sống trên diện tích đất 216m 2 đã tơn tạo, xây dựng và đến khi được cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đến khi có việc ly hơn của anh Nguyệt, chị
Hảo vợ chồng anh chị đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định. Vợ chồng bà
Thoa và các thành viên trong gia đình đã biết về việc giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất 216m2 đứng tên anh Nguyệt, chị Hảo từ năm 2006 ( năm 2006 anh Chuyển- em trai
anh Nguyệt nhờ vợ chồng anh Nguyệt Chị Hảo thế chấp nhà đất để vay số tiến 10 triệu
đồng- Bút lục số 86) nhưng không ai có ý kiến phản đối và khơng có đơn khiếu nại về
trình tự, thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, điều đó đã thể hiện ý chí của
các thành viên trong gia đình bà Thoa là đã công nhận việc cho vợ chồng anh Nguyệt chị Hảo diện tích đất nêu trên. Do đó, việc bà Thoa, anh Nguyệt khai rằng là đất của bà
Thoa, bà khơng cho vợ chồng vì vợ chồng ly hơn là khơng có căn cứ pháp lý. Diện

tích đất và tài sản trên đất nêu trên thuộc phần tài sản chung của hai vợ chồng chị Hảo,
anh Nguyệt nên chấp thuận u cầu của chị Hảo được chia đơi diện tích này và chị lấy
phần khơng có tài sản trên đất và khơng u cầu gì đối với tài sản trên đất.
Từ những phân tích trên, tơi kính đề nghị HĐXX xem xét, áp dụng: Khoản 1
Điều 56, Khoản 2 Điều 81 Luật Hơn nhân và Gia đình 2014; Điều 50 Luật Đất đai
2003 và các tình tiết trong án lệ 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016 chấp nhận yêu cầu khởi kiện
của nguyên đơn về việc ly hôn với bị đơn, giao quyền nuôi hai con cho nguyên đơn;
chia đôi thửa đất số 496, tờ bản đồ số 01, diện tích 216m 2 phần khơng có tài sản trên
đất cho nguyên đơn.
Trên đây là những quan điểm của tôi về việc giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng
xét xử xem xét trước khi nghị án, tôi mong rằng Hội đồng xét xử sẽ đưa ra được những
phán quyết sáng suốt, hợp tình, hợp lý.
Tơi xin trân trọng cảm ơn!
LUẬT SƯ
(Đã ký)

DƯƠNG THỊ NGỌC ÁNH

11


V.

NHẬN XÉT DIỄN ÁN

_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________

_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________

_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
_____________________________________________________________________
____________________________________________________________________
12



×