Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận Một số thách thức, khó khăn trong quản lý báo chí truyền thông hiện nay và phương hướng khắc phục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (151.56 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
Theo kịp sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, báo chí trong sự
nghiệp đổi mới hiện nay đã có nhiều sự khởi sắc mới, khơng chỉ đáp ứng nhu
cầu thông tin ngày càng tăng của xã hội mà cịn góp phần đắc lực như một cầu
nối giữa Đảng, Nhà nước với đông đảo quần chúng nhân dân. Với sự chỉ đạo
kịp thời của Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin - Truyền thông, Hội
Nhà báo Việt Nam, sự quản lý trực tiếp của cơ quan chủ quản, các cơ quan báo
chí đã có nhiều bước tiến trong hoạt động, tiếp tục phát triển mạnh mẽ về số
lượng, chất lượng, hình thức và nội dung báo chí cũng như đội ngũ những
người làm báo.
Trong bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước có những diễn biến phức
tạp, có thể nói, báo chí đã làm tốt vai trị, trách nhiệm là cơ quan ngơn luận của
Đảng, Nhà nước và diễn đàn của nhân dân, với nhiều kết quả, thành tích đáng
ghi nhận. Trong những năm qua, báo chí trong cả nước đã thực hiện đúng sự
lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng thông tin, đưa thông tin nhanh nhạy, đầy đủ, toàn
diện về mọi diễn biến của đời sống chính trị, kinh tế - xã hội ở trong nước và
quốc tế, trở thành món ăn tinh thần khơng thể thiếu của cơng chúng. Báo chí
phát huy tính chủ động, sáng tạo, tích cực tuyên truyền các giải pháp điều hành
kinh tế - xã hội của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế, kiềm chế lạm phát, ổn
định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao niềm tin của nhân dân
vào sự lãnh đạo của Đảng, sự điều hành của Chính phủ. Báo chí cũng đã tập
trung phản ánh một số nhiệm vụ cấp bách mà Đảng, Nhà nước đang chỉ đạo
như tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, tài chính tiền tệ, giá cả thị trường, quản
lý và sử dụng đất đai, xuất khẩu hàng hóa, xóa đói giảm nghèo... Bên cạnh đó,
những vấn đề nóng của nền kinh tế được cả xã hội quan tâm như sự phá sản
của nhiều doanh nghiệp; nợ thuế và nợ ngân hàng của các đơn vị kinh tế tư
nhân được báo chí phản ánh với thái độ khách quan, thận trọng, không gây bức
xúc trong xã hội. Báo chí cũng đã đưa ý kiến của nhiều chuyên gia, nhà chuyên

1



môn đánh giá, dự báo trên tinh thần khách quan, xây dựng, góp phần xử lý
những khó khăn, vướng mắc trong sản xuất và đời sống.
Tuy nhiên, sự phát triển với tốc độ nhanh chóng của báo chí lại tạo ra
những khó khăn, thách thức trên nhiều mặt. Trong đó phải kể đến vấn đề lãnh
đạo và quản lý báo chí. Sự phát triển mạnh cả về số lượng và quy mô, sự phát
triển của khoa học kỹ thuật đe dọa sự đơn giản của quản lý báo chí trước đây,
trình độ của cơng chúng ngày càng được nâng cao, trình độ của cơ quan quản
lý chưa đáp ứng được địi hỏi của thực tế. Ngồi ra cịn có những bất cập trong
cơ chế, chính sách lãnh đạo, quản lý báo chí…
Để xây dựng và phát triển một nền báo chí cách mạng, dân chủ, các cấp
lãnh đạo quản lý báo chí nói chung và các nhà quản lý nói riêng cần phải nhận
thức được một cách rõ ràng nhất những thách thức, khó khăn trong nhiệm vụ
của mình. Từ đó mới có thể thống nhất những biện pháp, phương hướng nâng
cao công tác lãnh đạo - quản lý, thực sự trở thành “kim chỉ nam” cho báo chí
nước ta phát triển nhanh, mạnh, đáp ứng những yêu cầu trong thời kỳ mới.
Với tất cả lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Một số thách thức, khó
khăn trong quản lý báo chí truyền thơng hiện nay và phương hướng khắc
phục” làm tiểu luận mơn quản lý báo chí – xuất bản.

2


NỘI DUNG
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ BÁO CHÍ
1.1. Báo chí và vai trị của báo chí
1.1.1. Báo chí
Báo, hay gọi đầy đủ là báo chí xuất phát từ 2 từ: “báo” – thơng báo và
“chí” - giấy, nói một cách khái quát là những xuất bản phẩm định kỳ. Báo chí

là mơt bộ phận của truyền thông đại chúng, nhưng là bộ phận chiếm vị trí trung
tâm, vai trị nền tảng và có khả năng quyết định tính chất, khuynh ướng, chi
phối năng lực và hiệu quả tác động của truyền thông đại chúng. Do đó, trong
nhiều trường hợp, có thể dùng báo chí để chỉ truyền thơng đại chúng; và ngược
lại, nói đến đến truyền thong đại chúng - trước hết phải nói đến báo chí.
Báo chí trong trường hợp này đươc dùng, đươc hiểu theo nghĩa rộng,
bao gồm báo in, báo chí phát thanh, báo chí truyền hình, báo mạng điện tử
(“phát hành” trên mạng internet) và hãng thơng tấn. Báo chí theo nghĩa hẹp, là
bao gồm báo, tạp chí và bản tin thời sự.
Báo chí là hiện tượng xã hội đa nghĩa, phức tạp và có nhiều cách tiếp
cận khơng giống nhau trong các xã hơi có thể chế chính trị khác nhau.
Khi nhìn nhận xã hội như một hệ thống trong tổng thể đang vận hành,
báo chí cũng cần được tiếp cận từ quan điểm hệ thống; nhìn nhận báo chí như
một tiểu hệ thống cấu thành hệ thống xã hội nói chung; trong đó, báo chí là
một bộ phận cấu thành và chịu sự chi phối của hệ thống lớn cũng như sự tác
động của các tiểu hệ thống (hoặc hệ thống con).
Có những loại báo chí sau:
Báo viết, là thể loại báo chí xuất hiện lâu đời nhất, hình thức thể hiện
trên giấy, có hình ảnh minh họa. Báo viết có nhiều loại, gồm: báo và các ấn
phẩm của báo như số phụ (ấn phẩm định kỳ ngoài số báo chính như số cuối
tuần, tháng, năm, cuối tháng), phụ trương (trang tăng thêm ngoài quy định); tạp

3


chí và các ấn phẩm của tạp chí; bản in của các cơ quan thông tấn phát hành
định kỳ (bản tin thời sự, bản tin chuyện đề …).
Báo nói, ra đời thế kỷ 19, là loại hình báo chí thực hiện trên sóng phát
thanh, bao gồm nhiều chương trình phát thanh độc lập với nhau. Thông tin
được chuyển tải qua thiết bị đầu cuối là radio bằng nhơn ngữ.

Báo hình, là loại hình thơng tin được chuyển tải bằng hình ảnh và âm
thanh qua thiết bị đầu cuối là máy phát hình (đài truyền hình) và máy thu hình
(television).
Báo điện tử, là loại hình sử dụng giao diện website trên Internet để
truyền tải thông tin bằng bài viết, âm thanh, hình ảnh, các đoạn video gồm cả
hình ảnh động và âm thanh (video clip).
1.1.2. Vai trị của báo chí
Báo chí có chức năng, vai trị ngày càng quan trọng trong đời sống xã
hội. Đó là các chức năng thơng tin, chức năng tư tưởng, chức năng khai sáng
-giải trí, chức năng tổ chức - quản lý, giám sát và phản biện xã hội, chức năng
kinh tế - dịch vụ.
- Thông tin là chức năng cơ bản, chức năng khởi nguồn của báo chí. Báo
chí ra đời là để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu thông tin giao tiếp của con người và
xã hội. Xã hội càng phát triển, con người càng văn minh thì nhu cầu thơng tin
giao tiếp càng cao, càng đa dạng phong phú. Quá trình đáp ứng nhu cầu này
làm cho báo chí phát triển nhanh chóng.
- Chức năng tư tưởng là chức năng xuyên suốt, thể hiện tính mục đích
của báo chí. Với chức năng này, theo quan điểm của Đảng ta, báo chí là cơng
cụ, phương tiện quan trọng dùng để truyền bá hệ tư tưởng của Đảng, giáo dục
lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và làm cho hệ tư tưởng - lý luận
này trở thành chủ đao, chiếm ưu thế trong đời sống tinh thần, tư tưởng của
đâng đảo nhân dân. Báo chí là một binh chủng xung kích, đi đầu trong công tác
tư tưởng của Đảng.

4


- Chức năng khai sáng – giải trí được hiểu rằng, báo chí khơng chỉ là
kênh thơng tin - truyền thông quan trọng cung cấp thông tin, kiến thức, mà còn
là diễn đàn trao đổi, chia sẻ kỹ năng và kinh nghiệm phong phú nhằm nâng cao

trình độ dân trí, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững. Văn hóa là hiện tượng xã
hội đặc biệt. Hệ thống giá trị văn hóa được tồn tai và phát triển trong quá trình
giao lưu và truyền tải từ người này sang người khác, từ cộng đồng này sang
cộng đồng khác và từ thế hệ này đến thế hệ khác. Báo chí là kênh quan trọng
cung cấp thông tin, kiến thức, giáo dục, giao lưu, truyền tải, tiếp biến văn hóa
có hiệu quả nhất.
Giải trí là nhu cầu ngày càng địi hỏi cao trong điều kiện kinh tế thị
trường. Đó là q trình báo chí tham gia và tạo điều kiện giúp cơng chúng sử
dụng thời gian rỗi hợp lý, đáp ứng nhu cầu cân bằng trạng thái tâm lý để tái sản
xuất sức lao động. Trên các loại hình báo chí và các dạng thức truyền thơng
hiện đại ngày càng có nhiều phương thức giải trí thú vị và hữu ích, nhất là
truyền hình, phát thanh, báo mạng điện tử và mạng xã hội. Giải trí cũng là cách
thức phổ biến, bảo vệ hệ giá trị văn hóa.
- Chức năng quản lý, giám sát và phản biện xã hội của báo chí thể hiện ở
chỗ, báo chí duy trì và phát triển mối liên hệ chặt chẽ giữa chủ thể và khách thể
quản lý thơng qua việc duy trì và phát triển dịng thơng tin hai chiều, bảo đảm
cho các quyết định quản lý được thông suốt và thực thi,... Giám sát có thể được
hiểu là “theo dõi, kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định khơng”.
Điều đó có nghĩa là, giám sát bao gồm hai quá trình, theo dõi và kiểm tra.
Giám sát có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo đảm cho hoạt động được
thực hiện đúng mục đích và đạt hiệu quả tốt nhất trong điều kiện có thể, theo
mục tiêu, chương trình, kế hoạch đã đề ra.
Giám sát xã hội của báo chí là q trình báo chí bằng mọi phương thức
huy động sức lực, trí tuệ và cảm xúc của đơng đảo nhân dân với tinh thần trách
nhiêm chính trị cao nhất trong việc theo dõi, kiểm tra quá trình thưc hiện
đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, bảo đảm
5


đạt được mục đích cao nhất trong điều kiện có thể. Giám sát xã hội của báo chí

bao gốm các bình diện khác nhau, như theo dõi, kiểm tra phát hiện những nơi
làm đúng, làm tốt để biểu dương và nhân rộng; theo dõi và kiểm tra để phát
hiện những nơi làm trệch, làm sai để uốn nắn và đấu tranh, bảo đảm cho đường
lối, chính sách chủ trương của Đảng, pháp luật Nhà nước được thực thi đúng
trong thực tế…
Ngồi ra báo chí cịn có chức năng kinh tế – dịch vụ.
1.1.3. Quản lý nhà nước về báo chí
Có thể nói rằng, báo chí là hiện tượng xã hội tác động và chi phối ngày
càng sâu sắc đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong họat động lãnh đạo
và quản lí kinh tế - xã hội, báo chí cũng là phương tiện và phương thức lợi hại.
Nếu biết sử dụng thì cơng năng sẽ đặc biệt hữu dụng; nếu khơng sẽ gây ra
những hậu quả khó lường, thậm chí là nguy cơ trực tiếp của các bung nổ xã
hội.
Do đó, quản lý nhà nước về báo chí là đòi hỏi tất yếu khách quan, là
nguyên tắc và phương thức bắt buộc để huy động tối đa năng lực tác động của
báo chí, truyền thơng vào mục đích phát triển đất nước, hạn chế đến mức thấp
nhất những hiệu ứng ngoài mong đợi.
Quản lý nhà nước (QLNN) về báo chí là làm cho sức mạnh của báo chí
được phát huy cao nhất, để báo chí tập trung nguồn lực và mọi cố gắng vào
phục vụ mục đích phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng; là tao mọi
điều kiên cho báo chí phát triển và phục vụ sự phát triển kinh tế xã hội của đất
nước.
Báo chí gắn liền với vấn đề tự do tư tưởng, tự do ngơn luận, tự do báo
chí, tự do ngơn luận trên báo chí. Quản lý nhà nước về báo chí là nhằm bảo
đảm tự do báo chí và tự do ngơn luận trên báo chí được thực hiện trong khn
khổ pháp luật, vì mục tiêu “dân giàu, nước manh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”.

6



Dư luận báo chí gắn liến với dư luận xã hội. QLNN về báo chí là nhắm
bảo đảm cho báo chí phát huy vai trị định hướng DLXH khơng chỉ trong nước,
trong khu vực mà cịn trên phạm vi tồn thế giới.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý báo chí
Trên cơ sở những văn kiện của Đảng ta, có thể thấy những quan điểm
sau đây cần được nhận thức, quán triệt và thực hiện trong quá trình quản lý nhà
nước về báo chí cũng như họat động báo chí:
- Cơng tác báo chí là một bộ phận cấu thành hữu cơ trong bộ máy hoạt
động của Đảng ta, là yếu tố cầu thành hoạt động tư tưởng, lý luận. Không chỉ
là yếu tố cấu thành hữu cơ, báo chí là vũ khí xung kích trên mặt trận tư tưởng,
lý luận. Báo chí có vai trị quan trọng đối với công tác tư tưởng, lý luận và tổ
chức. Quan điểm này đã được thể hiện xuyên suốt trong hoạt động của MácĂnghen, Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng như trong lịch sử đấu tranh cách
mạng của Đảng ta. Báo chí là bộ phận hữu cơ và đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện
và trực tiếp của Đảng.
- Báo chí nước ta phải góp phần tích cực vào tuyên truyền lý luận MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng
và pháp luật của Nhà nước. Báo chí phải góp phần tích cực xây dựng lý tưởng
xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”, góp phần ổn định chính trị tư tưởng, bình ổn đời sống tinh thần để huy
động nguồn lực phát triển kinh tế-xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống. Xây
dựng lý tưởng xã hội, tuyên truyền tư tưởng của Đảng là một cơng việc lâu dài,
khó khăn, phức tạp, nhất là trong tình hình hiện nay, cho nên địi hỏi phải kiên
trì, sự nhiệt thành, trung thành, hiểu biết và tính chun nghiệp cao.
- Báo chí là tiếng nói của Đảng, Nhà nước, của tổ chức chính trị - xã hội
và là diễn đàn của nhân dân, đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng, sự quản
lí của Nhà nước và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật; phải bảo đảm tính tư
tưởng, tính chân thật, tính nhân dân, tính chiến đấu và tính đa dạng của hoạt
động báo chí. Báo chí của ta là cơ quan của Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính
7



trị - xã hội - nghề nghiệp đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, triệt để của Đảng và
quản lý của Nhà nước.
- Đảng lãnh đạo báo chí bằng việc định hướng chính trị, bằng và thơng
qua nhà nước, thơng qua công tác tổ chức - cán bộ, thông qua giám sát, kiểm
tra hoạt động thường xuyên trong thực tiễn. Quản lý nhà nước về báo chí cịn
bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- “Cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ
khí sắc bén của họ”. Mỗi nhà báo là một cán bộ hoạt động trong lĩnh vực cơng
tác tư tưởng - văn hóa của Đảng, là nhà truyền thong - vận động xã hội dưới sự
lãnh đạo của Đảng và quản lý của nhà nước. Nhà báo là chủ thể tích cực trong
quá trình họat động báo chí cũng như quản lý nhà nước về báo chí.

8


Chương 2
KHĨ KHĂN, THÁCH THỨC TRONG CƠNG TÁC LÃNH ĐẠO VÀ
QUẢN LÝ BÁO CHÍ HIỆN NAY
2.1. Về mặt chủ quan
2.1.1. Từ phía các cơ quan báo chí
Khó khăn đầu tiên và dễ dàng nhận thấy nhất lại đến từ chính sự phát
triển của các cơ quan báo chí. Việc phổ biến rộng khắp hệ thống báo chí từ báo
in, phát thanh, truyền hình, báo điện tử… từ Trung ương tới địa phương đã
khiến việc quản lý gặp khơng ít khó khăn. Theo báo cáo Đánh giá cơng tác Báo
chí của Hội nhà báo Việt Nam, tính đến cuối năm 2013, cả nước có 835 cơ
quan báo chí với 1050 ấn phẩm báo in. Về phát thanh, truyền hình, hiện tồn
quốc có 67 đài Phát thanh truyền hình Trung ương và địa phương, trong đó có
2 đài quốc gia, 1 đài truyền hình kỹ thuật số, 64 Đài Phát thanh - truyền hình
cấp tỉnh. Ngồi hệ thống truyền hình quảng bá, hệ thống truyền hình trả tiền ở

nước ta phát triển mạnh bằng nhiều loại công nghệ truyền dẫn như cáp, vệ tinh,
số mặt đất và đang bước đầu thử nghiệm cơng nghệ IPTV. Cả nước có 47 đơn
vị được cấp phép hoạt động truyền hình cáp, 09 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền
dẫn tín hiệu truyền hình cáp. Trong đó có 3 đơn vị cung cấp dịch vụ truyền dẫn
tín hiệu truyền hình cáp lớn nhất trong cả nước là VCTV, SCTV và HTVC.
Riêng 5 cơ quan báo chí truyền hình lớn nhất của Việt Nam (Đài Truyền hình
Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Đài Phát thanh - Truyền hình Hà
Nội, Đài Truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, Đài Phát thanh - Truyền hình
Bình Dương) đã sản xuất 62 kênh truyền hình trả tiền. Ngồi ra, trên hệ thống
truyền hình trả tiền hiện có 75 kênh truyền hình nước ngồi, phục vụ gần 2,5
triệu th bao trên toàn quốc. Năm 2011, toàn ngành phát thanh - truyền hình
nộp ngân sách nhà nước 900 tỷ đồng. Cũng tính đến cuối năm 2013, trong lĩnh
vực thơng tin điện tử, cả nước có 92 báo, tạp chí điện tử, hàng trăm trang tin
thông tin điện tử của các cơ quan và hơn 1.000 trang thông tin tức điện tử tổng
hợp. Với một số lượng “khổng lồ” như thế, việc quản lý, giám sát, kiểm tra lại
9


thường chỉ “quy” về một vài cơ quan có thẩm quyền như Ban Tuyên giáo, Bộ
TT&TT, Hội Nhà báo, khiến cho công tác này khá “nặng nề”, hoạt động chưa
thực sự hiệu quả.
Mặt khác, cả sự phát triển lớn mạnh về quy mô, đội ngũ những người
làm báo cũng khiến cho việc quản lý ngày càng trở nên khó khăn. Với số lượng
gần 17.000 nhà báo được cấp thẻ hành nghề, hàng nghìn phóng viên đang hoạt
động báo chí chuẩn bị đến thời hạn cấp thẻ hiện nay đã khiến hiện tượng “giả
mạo” là phóng viên, nhà báo để làm việc phạm pháp gần đây xảy ra ngày càng
nhiều. Nhiều vụ việc cho đến khi bị phát hiện đã gây ra khơng ít hậu quả xấu
tới xã hội. Một số nhà báo còn lợi dụng danh nghĩa nhà báo, cơ quan báo chí
dọa dẫm, sách nhiễu địa phương, doanh nghiệp để vụ lợi, vi phạm đạo đức
nghề nghiệp và quy trình tác nghiệp, thậm chí dẫn đến vi phạm pháp luật.

Sự quản lý trong việc cung cấp thông tin cho báo chí cịn có những hạn
chế nhất định. Một số cơ quan hành chính nhà nước cung cấp thơng tin cho báo
chí chưa đầy đủ nên đã gây khó khăn cho phóng viên khi tác nghiệp. Cũng
nhiều trường hợp thơng tin cung cấp cho báo chí thiếu sự định hướng, thậm chí
cung cấp thơng tin sai lệch dẫn đến việc thơng tin báo chí khơng chính xác, tác
động xấu trong xã hội. Một số cơ quan, tổ chức khi có vụ việc bị báo chí nêu
chưa tiếp thu, xử lý thơng tin nghiêm túc, thậm chí có trường hợp cịn có
những phát ngơn, hành động làm nóng hơn thơng tin báo chí, tạo bức xúc trong
dư luận xã hội.
Trong bối cảnh kinh tế có nhiều khó khăn, do sự tác động của “đồng
tiền”, vì chạy theo lợi nhuận khơng ít cơ quan báo chí coi nhẹ tính định hướng,
giáo dục của báo chí, vi phạm các quy định của pháp luật, làm ảnh hưởng
khơng tốt đến chất lượng báo chí. Khuynh hướng “thương mại hóa” gia tăng
(đăng tải những chuyện giật gân, tình dục, bạo lực, mê tín dị đoan). Có những
vụ việc thơng tin thiếu chính xác, thiếu khách quan, mang tính một chiều, gây
nhiễu thơng tin, đưa tin sai khơng cải chính hoặc cải chính chiếu lệ, gây ảnh
hưởng xấu hoặc xúc phạm uy tín, danh dự của tổ chức, nhân phẩm của công
10


dân, làm ảnh hưởng tới uy tín đội ngũ làm báo.Thậm chí, việc đưa thơng tin
bịa đặt hồn tồn đã diễn ra ở một số tờ báo (như bịa đặt bài phỏng vấn khi
không phỏng vấn), từ tin đồn, tin từ mạng xã hội không được kiểm chứng biến
thành tin chính thức trên báo chí. Theo số liệu xử lý vi phạm trên báo chí của
Cục Báo chí, Cục Quản lý Phát thanh Truyền hình và Thơng tin điện tử trong 3
năm 2009 - 2011, trong 82 trường hợp vi phạm (với tổng số tiền xử phạt hành
chính gần 470 triệu đồng), hành vi thông tin sai sự thật chiếm tỷ lệ khá lớn,
năm 2009 là 22,5%, năm 2010 là 24% và trong năm 2011 là 33%. Dạng sai
phạm này thường chỉ được phát hiện vơi sự “lên tiếng” của công chúng những người trực tiếp tiếp nhận thông tin, rất ít trường hợp được các cơ quan
quản lý phanh phui. Dạng sai phạm này tuy được thường xuyên nhắc nhở, xử

lý nhưng vẫn tiếp tục xảy ra ở một số cơ quan báo chí của tất cả các loại hình
báo chí. Một trong những vụ việc tiêu biểu nhất, có tác động mạnh phải kể đến
nhân vật Lượm trong chuyên mục “Người xây tổ ấm” của Đài truyền hình Việt
Nam phát sóng tháng 2 năm 2011. Đây là nhân vật hồn tồn khơng có thật,
nên dù chương trình mang ý nghĩa xã hội sâu sắc, thu hút sự quan tâm của
nhiều tầng lớp nhân dân nhưng chính việc đưa thông tin thiếu kiểm chứng đã
làm giảm sút niềm tin của cơng chúng vào báo chí.
Bên cạnh sai phạm về thông tin, những dạng sai phạm khác cũng đặt cơ
quan quản lý vào tinh thế khó khăn. Một số sách, báo, tạp chí, nhất là các số
phụ, số chuyên đề xa rời tơn chỉ, mục đích và đối tượng phục vụ, nhất là đối
với công nhân, nông dân. Một số nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp,
thông tin thiếu trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa
được xử lý kịp thời theo pháp luật. Có trường hợp một số bài báo phủ nhận
truyền thống và thành tựu cách mạng, xa rời định hướng xã hội chủ nghĩa, làm
lộ bí mật quốc gia, coi nhẹ công tác đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý luận, khai
thác tin tức, tư liệu, bài vở báo chí nước ngồi thiếu chọn lọc. Thêm vào đó,
một số thơng tin, bình luận có tính suy diễn vẫn cịn khá phổ biến trên các
trang báo mạng và nhiều trang thông tin điện tử. Ví dụ như tin tức về các vụ
11


án, lúc đầu báo chí đưa tin chuẩn xác nhưng một số tờ báo, trang tin điện tử
khai thác, suy diễn quá nhiều theo hướng khác nhau dẫn đến sai lệch bản chất
vụ việc; từ thông tin sai của một tờ báo, nhiều báo khác không kiểm chứng đã
đưa lại, thậm chí “thêm thắt” nên từ một tin sai trên một báo, thành nhiều tin
sai trên nhiều báo. Nhiều thông tin thiếu thẩm mỹ, vô bổ, không phù hợp với
thuần phong mỹ tục, văn hố Việt Nam, có lúc cịn mang tính săm soi, lại được
các phóng viên, các báo khai thác quá nhiều như tin, ảnh về đời tư, những hớ
hênh của nghệ sỹ, người mẫu trong và ngoài nước. Tình trạng sai về văn phạm,
chính tả diễn ra khá phổ biến ở nhiều báo điện tử; phát âm tiếng Việt thiếu

chuẩn mực, đọc sai, đọc vấp ở một số phát thanh viên làm mất đi sự chuẩn
mực và trong sáng của tiếng Việt. Một số chương trình giải trí trên truyền hình,
nhất là các chương trình liên kết khơng được kiểm tra, thẩm định đưa lên
những hình ảnh, lời nói phản cảm, gây bất bình trong dư luận xã hội. Những
sai phạm này tuy tương đối phổ biến, nhưng lại thường được coi là “nhỏ nhặt”,
“không gây hậu quả lớn”, khiến cho một số tờ báo, trang mạng “được nước lấn
tới”, tạo thành một trào lưu “lá cải hóa” phổ biến hiện nay.
2.1.2. Từ phía các cơ quan quản lý báo chí
Ngay trong cơng tác quản lý, chỉ đạo của mình, cơ quan lãnh đạo - quản
lý báo chí cũng vẫn gặp nhiều khó khăn. Việc chỉ đạo, quản lý thơng tin đơi lúc
cịn chưa chủ động, chạy theo sự vụ, tổ chức, cán bộ chuyên trách về quản lý
báo chí ở một số đơn vị vẫn cịn thiếu và yếu nên rất khó nắm bắt tình hình và
đề xuất xử lý, giải quyết cơng việc. Vai trị, trách nhiệm của cơ quan chủ quản,
người đứng đầu cơ quan báo chí (Tổng biên tập, Giám đốc...) có lúc, có nơi
cịn mờ nhạt, chưa được phát huy đầy đủ, cịn có hiện tượng né tránh trách
nhiệm. Cơng tác quản lý, kiểm soát các hoạt động của cơ quan báo chí thuộc
quyền cịn bị bng lỏng, có nơi cịn khốn trắng cho cơ quan báo chí tồn
quyền quyết định trong việc liên kết, một số nội dung trên báo chí bị thao túng,
dẫn đến sai phạm, đưa thông tin không đúng với tơn chỉ, mục đích, khơng đúng
đối tượng phục vụ đã được quy định trong giấy phép. Đây là khuyết điểm lớn
12


nhất, kéo dài nhất, trong đó trách nhiệm trước hết là cơ quan báo chí, cơ quan
chủ quản báo chí. Tình trạng báo của ngành này, địa phương này nhưng lại đưa
thông tin nhiều về ngành khác, địa phương khác, mà lại chủ yếu là các vấn đề
tiêu cực, thông tin một chiều, thiếu kiểm chứng, làm cho báo chí thiếu bản sắc,
trùng lặp thơng tin, thiếu tính định hướng của tờ báo đã gây nên sự bức xúc
trong nhiều năm. Khi sai phạm xảy ra, các cơ quan này xử lý khơng nghiêm, nể
nang, thậm chí bao biện cho sai phạm của cơ quan báo chí thuộc quyền. Cơng

tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức chính trị cho phóng viên, biên tập
viên của cơ quan báo chí chưa được quan tâm đúng mức.
Mặt khác, trong xử lý vi phạm, ngay chính cơ quan quản lý Nhà nước về
báo chí cịn thiếu kiên quyết, điều này xuất phát từ việc luật Báo chí dù thực thi
nhưng hiệu lực pháp lý chưa cao, các chế tài xử lý chưa mạnh, hình thức xử lý
chưa nghiêm, chưa kịp thời. Cơ chế, chính sách và hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật để quản lý còn thiếu và chưa theo kịp thực tiễn phát triển khiến cho
hiệu quả công tác giám sát, quản lý báo chí chưa cao. Việc bổ nhiệm lãnh đạo
cơ quan báo chí khơng đúng quy trình, khơng đúng quy định pháp luật, quy
định của Đảng như không thỏa thuận với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ
Thông tin và Truyền thông, kể cả việc bổ nhiệm ở một số cơ quan báo chí lớn
dẫn đến hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý không được phát huy. Lĩnh vực
quảng cáo, sở hữu trí tuệ cịn có sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa
các bộ, ngành và chưa được phân định rõ ràng, làm hạn chế công tác quản lý,
xử lý vi phạm. Gần đây, trong những lĩnh vực thơng tin của báo chí, Nghị định
79/2013/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) trong lĩnh
vực thống kê; Nghị định 109/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong lĩnh
vực quản lý giá, phí, lệ phí, hóa đơn ngày 24/9/2013; Nghị định 138/2013/NĐCP ngày 22/10/2013 quy định xử phạt VPHC trong lĩnh vực giáo dục; Chính
phủ ban hành Nghị định số 173/2013/NĐ-CP quy định xử phạt VPHC trong
lĩnh vực khí tượng thủy văn, đo đạc và bản đồ có hiệu lực từ 1/1/2014;... lại tạo
ra một cách hiểu khác: quy định cho phép hàng loạt cấp, ngành được xử phạt
13


báo chí đưa tin sai sự thật khiến tính thống nhất về lãnh đạo và quản lý báo chí
bị phá vỡ, gây “lúng túng” trong quyết định thẩm quyền xử lý sai phạm. Quy
định dễ gây hiểu lầm rằng cơ quan nào cũng có quyền “phạt” báo chí này vẫn
chưa có cách giải thích cụ thể và xác đáng hơn, cũng tạo thêm một khó khăn
trong việc quản lý báo chí.
2.2. Về mặt khách quan

Bên cạnh những yếu tố chủ quan, khơng ít các yếu tố khách quan xuất
phát từ thực tiễn trong nước và thế giới đã tác động mạnh mẽ đến báo chí, tạo
ra những thách thức lớn cho việc quản lý, lãnh đạo.
Đầu tiên, tồn cầu hóa, bên cạnh những mặt tích cực, đã và đang dẫn đến
những “tổn thương” sâu sắc về văn hóa từ trực tiếp đến gián tiếp. Các thế lực
chính trị dưới tác động của tồn cầu hóa cố tình gây đảo lộn các giá trị xã hội ở
các quốc gia qua sự can thiệp tinh vi vào đời sống chính trị với chiêu bài tự do
báo chí, tự do tơn giáo, nhân quyền… Sự xuất hiện của mạng xã hội, blog, các
trang cá nhân… cùng với việc phá vỡ mọi ranh giới quốc gia với sự bùng nổ
của Internet đã khiến cho việc thông tin nhiều luồng xuất hiện, gây ảnh hưởng
cả tích cực và tiêu cực cho báo chí nước nhà. TS Nguyễn Thế Kỷ, trong bài
viết “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước yêu cầu mới” đã
nhận định: “Cuộc đấu tranh về chính trị, tư tưởng thể hiện trên trận tuyến báo
chí, dù thời chiến hay thời bình ln gay go, phức tạp; ở giai đoạn hiện nay,
tính chất đó cịn cao hơn so với trước”. Tác động tiêu cực của tồn cầu hóa,
thơng thường được nhìn thấy ở lĩnh vực kinh tế, nhưng điều lo ngại là song
hành với kinh tế là sự “đồng hóa” về văn hóa có tính chất chính trị. Những
quan điểm sai trái, đạo đức lệch lạc, suy đồi, lối sống thực dụng, vị kỷ, chủ
nghĩa cá nhân gần như khơng có biên giới ào ạt tràn vào các quốc gia đang
phát triển. Báo chí Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức và khó
khăn chung, thách thức chung của báo chí khu vực và báo chí thế giới
Điều đáng quan tâm là tồn cầu hóa mang đến nguy cơ “xâm lược chính
trị” thơng qua “tồn cầu hóa báo chí” - một vũ khí của chiến lược “diễn biến
14


hịa bình”. Khi các thế lực chính trị trên thế giới lan truyền thông tin đã bị biến
dạng bằng các thủ đoạn nhân danh cái tốt đẹp để xuyên tạc, bóp méo, mang
tính phá hoại, lừa đảo người tiếp nhận…, thì tính nghiêm trọng của mặt trái
tồn cầu hóa là mất ổn định về chính trị và văn hóa, trong đó có báo chí, đã

tăng lên rất đáng lo ngại. Bối cảnh trong và ngồi nước có diễn biến phức tạp,
nhiều sự kiện diễn ra nhanh, thông tin nhiều chiều nhiễu loạn dẫn đến tình
trạng khó dự đốn đúng bản chất vụ việc. Trong khi thông tin của các cá nhân,
tổ chức khái thác trên mạng thông tin khá dễ dãi và nhanh chóng. Thơng tin
thiếu nhạy cảm về chính trị, khơng phù hợp với lợi ích của đất nước, của nhân
dân, không phù hợp định hướng thông tin. Đây là dạng sai phạm có tác động
xấu đến dư luận xã hội, là kẽ hở để báo chí nước ngồi, các trang tin điện tử
của các thế lực chống đối lợi dụng để xuyên tạc. Khuyết điểm này trước hết
thuộc về người đứng đầu, Ban biên tập và người biên tập cũng như trình độ
nhận thức và độ nhạy cảm chính trị của một bộ phận phóng viên, biên tập viên
cịn những hạn chế nhất định. Khơng ít trường hợp phóng viên có những bài
viết thể hiện sự non kém về nhận thức chính trị nhưng ban biên tập vẫn duyệt
cho đăng mà khơng kiểm chứng lại.
Trong khi đó, trình độ công chúng ngày càng được nâng cao. Cùng với
sự phát triển của báo chí hướng tới cơng chúng số đông, mở rộng ra nhiều đối
tượng xã hội khác nhau thì trình độ nhận thức khác nhau. Cùng với sự nâng
cao dân trí, phát triển của khoa học kỹ thuật và các cơng cụ xã hội, trình độ
hiểu biết, nhận thức của công chúng khác nhau. Mỗi đối tượng, mỗi lứa tuổi họ
đều có nhu cầu thơng tin riêng trong mỗi thời điểm, báo chí cần có sự tác động
khác nhau và yêu cầu khác nhau. Tuy đây là thực tế khách quan, nhưng lại nảy
sinh nhiều khó khăn trong việc quản lý báo chí, nhất là với việc cập nhật các
báo chí ngồi luồng, có khuynh hướng chống đối lại nhà nước và phá hoại đất
nước. Đồng thời, với sự phát triển của xu thế mới, mỗi công chúng đều có thể
trở thành một người đưa tin, thì việc kiểm sốt báo chí trở nên khó khăn hơn,
nhất là trên những trang mạng xã hội hay các thông tin chưa thẩm định.
15


Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG KHẮC PHỤC NHỮNG KHÓ KHĂN TRONG LÃNH

ĐẠO, QUẢN LÝ BÁO CHÍ
3.1. Đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước
Nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện của Đảng đối với báo chí trong
bối cảnh tồn cầu hóa hiện nay là một đòi hỏi khách quan của sự nghiệp cách
mạng. Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí trước hết là bằng quan điểm,
đường lối, thể hiện qua các nghị quyết, chỉ thị và qua sự quản lý của Nhà nước.
Đảng lãnh đạo báo chí là nhằm nắm vững và sử dụng cơng cụ tư tưởng của
mình, đồng thời bảo đảm quyền sáng tạo của báo chí, giúp báo chí hồn thành
chức năng cao cả của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, báo chí mới có quyền
lực chính trị và quyền lực xã hội mạnh mẽ. Quyền lực đó của báo chí nằm
trong sự quy định của pháp luật. Quyền lực đó bảo đảm để báo chí ln giữ
vững bản lĩnh chính trị, đấu tranh kiên quyết với các hành vi, thủ đoạn chống
đối chế độ; Bảo đảm phát triển mạnh mẽ, đóng góp nhiều hơn nữa cho sự
nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, công
bằng, dân chủ, văn minh. Trước tình hình đó, để nâng cao hiệu quả lãnh đạo
đối với báo chí, Đảng ta phải khơng ngừng đổi mới tư duy, phong cách,
phương thức lãnh đạo đối với cơng tác báo chí. Đảng lãnh đạo báo chí bằng
việc đề ra nghị quyết, chỉ thị, định hướng quy hoạch, kế hoạch phát triển hệ
thống báo chí và định hướng nội dung thơng tin, tun truyền của báo chí; lãnh
đạo công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ
chức đảng và đảng viên trong cơ quan báo chí; lãnh đạo các đồn thể chính trị
trong cơ quan báo chí. Nhà nước có trách nhiệm thể chế hố đường lối, quan
điểm của Đảng về báo chí bằng pháp luật, chính sách trong quản lý hoạt động
báo chí. Trong q trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới đất
nước, Đảng ta đã có bước chuyển quan trọng trong việc đổi mới tư duy, phong
cách và phương thức lãnh đạo đối với cơng tác báo chí.
16



Về nội dung lãnh đạo của Đảng đối với báo chí: Đảng tiếp tục bổ sung,
hồn thiện quan điểm, đường lối, phương thức lãnh đạo báo chí sát hợp với đặc
thù của báo chí và tình hình thực tế vận động liên tục, phong phú hiện nay;
Tiếp tục tăng cường nội dung lãnh đạo có tính khoa học cao, có tầm bao quát
vừa rộng, vừa sâu, vừa lâu dài; Đảng tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng đối với hoạt động báo chí; Đảng chỉ đạo
nâng cao vai trò quản lý, chỉ đạo của cơ quan chủ quản báo chí; Tăng cường
vai trị lãnh đạo của cấp ủy trong cơ quan chủ quản và cơ quan báo chí; Cơ
quan chỉ đạo, quản lý báo chí phải cơng khai, minh bạch, chủ động hơn nữa
trong việc cung cấp thông tin và định hướng thông tin...
3.2. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp lý về báo chí
Về vấn đề xây dựng, hồn thiện pháp luật và các chính sách đối với báo
chí: Tăng cường vai trò của pháp luật tức là tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động báo chí thơng qua hoạt động của bộ máy Nhà nước;
Sửa đổi Luật Báo chí cho phù hợp với hoạt động báo chí trong bối cảnh mới;
Củng cố, bổ sung cơ chế để tăng cường giám sát xã hội đối với báo chí; Đảng
và Nhà nước định hướng chính sách xây dựng quy hoạch và phát triển lâu dài
hệ thống báo chí tiên tiến, mạnh về đội ngũ, có khả năng đáp ứng mọi u cầu
thơng tin trong các tình huống phức tạp nhất; Tiếp tục đầu tư xây dựng một số
đơn vị báo chí có vị thế đầu đàn, đủ năng lực cung cấp thông tin cho các tầng
lớp nhân dân, giữ vai trò chi phối dư luận xã hội, giữ nhịp cho cả hệ thống báo
chí, vươn ra thế giới, chủ động thơng tin về những diễn biến kinh tế, chính trị
trong nước và trên thế giới; Bổ sung và hoàn thiện chính sách khuyến khích
theo hướng phải bảo đảm được sự tự chủ, chủ động sáng tạo của báo chí.
Tăng cường sức mạnh của luật Báo chí, điều này phải căn cứ vào việc
chỉ đạo, lãnh đạo, nắm giữ hoạt động báo chí - truyền thơng thơng qua các
cơng cụ luật pháp. Các công cụ pháp lý không thể thay thế chỉ đạo chính trị,
nhưng là cơng cụ chủ yếu, cơ bản của lãnh đạo chính trị đối với báo chí truyền thơng trong bối cảnh mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa trong lĩnh vực
17



ngôn luận. Tăng cường công cụ này cũng là tăng cường sự lãnh đạo chính trị
đối với hoạt động truyền thông. Các quy định pháp lý đối với hoạt động báo
chí - truyền thơng càng đầy đủ, chi tiết, thì càng có tác dụng khuyến khích hoạt
động hữu ích, đồng thời ngăn ngừa các sai phạm của hoạt động báo chí- truyền
thơng. Cả khi cần chấn chỉnh sai sót thì cũng thuận tiện và hiệu quả hơn vì đã
có các quy định pháp lý cụ thể, chi tiết để vận dụng. Hồn chỉnh các quy định
luật pháp khơng những mang lại thuận lợi cho người quản lý, mà còn thuận lợi
cho bản thân hoạt động bị quản lý, bởi có sự minh bạch trong xử lý các vấn đề
của hoạt động đó. Khi đó sự chỉ đạo báo chí sẽ chủ động hơn, chủ yếu là định
hướng, cung cấp thông tin, phát huy năng lực sáng tạo của báo chí.
Hiện nay Luật Báo chí và các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt
động báo chí - truyền thơng, dù đã sửa đổi, bổ sung đáng kể, vẫn còn mang
tính chung chung của luật khung, nhất là các điều khoản quy định các việc báo
chí khơng được làm. Cần cố gắng sao cho các quy định pháp luật có thể bao
trùm đa số các dạng sai phạm của hoạt động báo chí - truyền thơng. Trước mắt
cần dồn sức để hồn chỉnh Luật Báo chí và các luật liên quan đến báo chí truyền thơng, chuyển từ dạng luật khung sang luật chi tiết. Khi có những hiện
tượng mới của báo chí thì cần có các quy định dưới luật thật sát và kịp thời.
3.3. Tăng cường tính chủ động, nâng cao chất lượng của cơ quan
báo chí, đào tạo đội ngũ người làm báo
Về đổi mới hoạt động của các cơ quan báo chí: Báo chí phải tuân thủ sự
lãnh đạo tuyệt đối của Đảng (đó là nghĩa vụ, trách nhiệm và đồng thời là lợi
ích, là phẩm chất chính trị của cơ quan báo chí và người làm báo của Đảng - ý
thức này phải được thực hiện với nguyên tắc nhất quán); Cơ quan báo chí cần
phải nâng cao tính định hướng tư tưởng xã hội, phải trở thành cơ quan đi đầu
về thơng tin chính trị, định hướng dư luận xã hội tin tưởng vào sự nghiệp đổi
mới của Đảng và tiến trình phát triển đất nước; Cơ quan báo chí phải năng
động trong hoạt động kinh tế báo chí nhưng đúng quy định của pháp luật...

18



Về phía cơ quan chủ quản, người đứng đầu cơ quan báo chí: Xác định rõ
ràng, quyền hạn, nâng cao ý thức trách nhiệm, bản lĩnh chính trị, khả năng
chuyên môn của những người trực tiếp quản lý các cơ quan báo chí. Đội ngũ
này là cầu nối giữa cơ quan quản lý Nhà nước về báo chí và những người làm
báo, vừa có trách nhiệm đề ra phương hướng, vừa giám sát, kiểm tra cơng việc,
giúp báo chí đi theo đúng định hướng, mục tiêu đã đề ra.
Về vấn đề tổ chức, nhân sự: Tiếp tục kiện toàn bộ máy và tăng cường
nâng cao năng lực chuyên môn, bản lĩnh chính trị của cán bộ quản lý báo chí;
Nâng cao vai trò, chất lượng hoạt động của Hội Nhà báo Việt Nam; Nâng cao
chất lượng người làm báo, xây dựng chuẩn hóa đội ngũ phóng viên, biên tập
viên; Coi trọng việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao ý thức, bản lĩnh chính trị và
phát triển Đảng tại cơ quan báo chí cũng như cơ sở đào tạo báo chí; Chọn lọc
kỹ và nâng cao vai trò của người lãnh đạo cơ quan báo chí...

19


KẾT LUẬN
Báo chí - truyền thơng ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước. Vì vậy, song song với các quy định pháp luật cần xây dựng và
hoàn chỉnh các quy chế lãnh đạo của các tổ chức đảng đối với hoạt động báo
chí - truyền thơng, chi tiết hóa các quy định và kỷ luật trong Đảng đối với các
sai lầm, khuyết điểm của đảng viên làm cơng việc báo chí - truyền thơng. Tăng
cường thực lực của tồn bộ nền báo chí - truyền thơng nói chung, đặc biệt là
thực lực của các đơn vị báo chí đầu đàn, để truyền thơng nhà nước nhất định
đáp ứng đầy đủ nhu cầu thông tin, nhất định chi phối được dư luận. Quản lý
nhà nước về báo chí khơng chỉ bằng hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật,
… mà còn bằng sức mạnh của cả hệ thống chính trị. Các cấp ủy đảng, chính

quyền, trong đó cơ sở đảng của cơ quan báo chí và cơ quan chủ quản báo chí
có vai trò rất quan trọng. Vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó vai
trị của Hội Nhà báo Việt Nam, chi hội nhà báo cơ sở cần đươc thể hiện và phát
huy. Mỗi tòa soạn báo chí và chi hội nhà báo có vai trị quan trọng trong việc
tuyền truyền, giáo dục, giúp đỡ thành viên của mình, cũng như kiểm tra, giám
sát mọi hoạt động chấp hành pháp luật và quy ước đạo đức nghề nghiệp của
nhà báo.
Đánh giá đúng vai trị của cơng chúng như là lực lượng xã hội quan
trọng quyết định vai trò, vị thế và sức mạnh xã hội của cơ quan báo chí. Cơng
chúng là người giám sát mọi hoạt động của nhà báo, đánh giá và thẩm định sản
phẩm báo chí. Khi cơng tác lãnh đạo - quản lý báo chí có hiệu quả sẽ giúp báo
chí phát huy hiệu quả, huy động được sức mạnh “mềm” của toàn dân, tăng
cường niềm tin chính trị của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, nâng cao đời sống tinh thần của xã hội.

20


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Quốc Bảo (Chủ biên): Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí ở
Việt Nam hiện nay, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, NXB Chính trị Hành Chính, 2010.
2. Đức Dũng: Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý báo chí, Trang thơng tin
điện tử daotao.vtv.vn.
3. Nguyễn Văn Dững: Quan điểm của Đảng và Nhà nước về công tác tư
tưởng, lý luận và quản lý báo chí (Đề cương chuyên đề phục vụ lớp thi
nâng ngạch giảng viên chính, BTVC, PVC và tương đương năm 2012).
4. Vũ Văn Hiền: Báo chí Việt Nam với Đảng, Báo điện tử Đài Tiếng nói
Việt Nam, 21/06/2013.
5. Nguyễn Thế Kỷ: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí
trước yêu cầu mới, Báo điện tử Quân đội nhân dân, ngày 11/6/2010.

6. Tô Phán: Đảng lãnh đạo báo chí trong giai đoạn hiện nay, Báo
Hànộimới điện tử, ngày 22/10/2012.

21


MỤC LỤC

Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản lý báo chí
1.1. Báo chí và vai trị của báo chí
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước về quản lý báo chí
Chương 2: Khó khăn, thách thức trong cơng tác lãnh đạo và quản lý
báo chí hiện nay
2.1. Về mặt chủ quan
2.2. Về mặt khách quan
Chương 3: Phương hướng khắc phục những khó khăn trong lãnh đạo,
quản lý báo chí
3.1. Đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, sự
quản lý của Nhà nước
3.2. Xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp lý về báo chí
3.3. Tăng cường tính chủ động, nâng cao chất lượng của cơ quan báo
chí, đào tạo đội ngũ người làm báo
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

Trang
1
3

3
3
7
9
9
14
16
16
17
18
20
21

22



×