ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
PHÂN HIỆU ĐHTN TẠI TỈNH LÀO CAI
LỤC THỊ THOA
Tên đề tài:
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG CỦA GIỐNG GÀ AI
CẬP NUÔI TẠI HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Ngành: Chăn nuôi
Chuyên ngành: Chăn nuôi – Thú y
Lớp: CN K2
Khoa: Nông lâm
LÀO CAI - năm 2021
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
PHÂN HIỆU ĐẠI TẠI TỈNH LÀO CAI
LỤC THỊ THOA
Đề tài:
KHẢO SÁT KHẢ NĂNG SẢN XUẤT TRỨNG CỦA GIỐNG GÀ AI
CẬP NUÔI TẠI HUYỆN BẢO THẮNG, TỈNH LÀO CAI
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Ngành: Chăn nuôi
Chuyên ngành: Chăn nuôi – Thú y
Lớp: CN K2
Khoa: Nông lâm
Giáo viên hướng dẫn:
1.PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà
2.ThS. Phan Thu Hương
LÀO CAI - năm 2021
3
LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian học tập và rèn luyện tại trường tơi đã nhận được sự giúp
đỡ tận tình của các thầy giáo, cô giáo trong Ban Giám đốc Phân hiệu, các
Phịng chức, Ban Chủ nhiệm khoa Nơng Lâm cùng tồn thể các thầy cơ giáo
trong khoa đã tận tình giảng dạy, dìu dắt tơi hồn thành tốt chương trình học,
tạo cho tơi có được lịng tin vững bước trong cuộc sống và công tác sau này.
Nhân dịp này, tôi xin chân trọng cảm ơn Ban Giám đốc Phân hiệu, Ban
Chủ nhiệm khoa Nơng Lâm cùng tồn thể các thầy giáo, cô giáo Phân hiệu
Đại học Thái Nguyên tại Tỉnh Lào Cai đã tận tình dạy bảo tơi trong tồn khóa
học.
Đặc biệt, tơi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến PGS.TS. Nguyễn Mạnh
Hà và ThS. Phan Thu Hương đã quan tâm, giúp đỡ tận tình và tạo mọi điều
kiện giúp tơi trong suốt q trình thực tập và hồn thành khóa luận.
Cuối cùng, tơi xin kính chúc các thầy giáo, cô giáo luôn mạnh khỏe,
hạnh phúc, thành công trong công tác, đạt nhiều kết quả tốt trong giảng dạy
và nghiên cứu khoa học.
Xin chân thành cảm ơn!
Lào Cai, ngày ... tháng … năm 2021
Sinh viên
Lục Thị Thoa
`
4
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1. Ảnh hưởng của tuổi gia cầm đến sản lượng trứng (Đơn vị: %) ....14
Bảng 3.1. Sơ đồ theo dõi nghiên cứu .............................................................22
Bảng 3.2. Thành phần dinh dưỡng của thức ăn G6AAA ...............................23
Bảng 3.3. Chương trình vacine phòng bệnh cho gà .......................................24
Bảng 4.1. Tỷ lệ sống của gà sinh sản Ai Cập (đơn vị %) ..............................27
Bảng 4.2. Sản lượng trứng của gà Ai Cập (quả) ............................................29
Bảng 4.3. Tỷ lệ đẻ của gà Ai Cập qua 12 tuần khảo sát (%) .........................30
Bảng 4.4. Khối lượng trứng của gà Ai Cập (gam) .........................................33
Bảng 4.5. Tiêu tốn thức ăn cho gà khảo nghiệm (kg) ....................................35
Bảng 4.6. Chi phí thuốc thú y cho 1 quả trứng (đồng) ...............…...............37
Bảng 4.7. Sơ đồ hạch toán thu chi cho đàn gà qua 12 tuần khảo sát ............38
`
5
DANH MỤC CÁC HÌNH
`
6
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
Cs
SL
TL
BQ
ĐVT
CRD
CCRD
TTTĂ
ORT
CORYZA
`
: Cộng sự
: Sản lượng
: Tỉ lệ
: Bình qn
: Đơn vị tính
: Bệnh hen
: Bệnh hen kép
: Tiêu tốn thức ăn
: Bệnh viêm đường hơ hấp cấp tính
: Bệnh sổ mũi truyền nhiễm
7
MỤC LỤC
Trang
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
`
8
PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Chăn nuôi ở nước ta nói chung và gia cầm nói riêng trong những năm
qua đã có những bước phát triển lớn. Từ chăn nuôi phân tán, quy mô nhỏ, tự
cung tự cấp chuyển sang chăn nuôi tập chung với quy mô lớn.
Thực tế đã chứng minh chăn nuôi gia cầm đem lại hiệu quả kinh tế cao,
chu kỳ sản xuất nhanh hơn so với nhiều vật ni khác. Chi phí thức ăn cho
một kilogam tăng trọng thấp và nó tạo ra nguồn sản phẩm có giá trị dinh
dưỡng cao, đáp ứng được nhu cầu thực phẩm ngày càng cao trong xã hội cả
về số lượng và chất lượng sản phẩm. Ngành chăn nuôi nói chung và ngành
chăn ni gà nói riêng trong những năm gần đây được nhà nước chú ý hơn,
đặc biệt là cơng tác giống. Do đó trong những năm qua với mục đích mở rộng
quy mơ đàn gia cầm nâng cao năng suất, chất lượng trong chăn nuôi. Nhà
nước đã tiến hành nhập ngoại nhiều giống gà mới có năng suất cao như: Gà
Golline54 nhập năm 1990 từ Hà Lan; Brown Nick nhập từ Mỹ năm 1993;
Hysex brown nhập từ Mỹ năm 1996, trong đó gà Ai Cập có nguồn gốc từ Ai
Cập được nhập vào nước ta từ tháng 4 năm 1997. Đây là giống gà kiêm dụng
có khả năng đẻ trứng cho sản lượng và chất lượng trứng cao, sản lượng trứng
từ 200 - 220 quả/mái/năm khối lượng trung bình đạt từ 40 - 55 gam. (Nguyễn
Duy Hoan, Trần Thanh Vân (1998)) [7]. Trong những năm gần đây giống gà
này đã được nhập về và cung cấp cho các hộ chăn nuôi ở huyện Bảo Thắng
tỉnh Lào Cai với quy mô khá rộng.
Giống gà Ai Cập là một trong những loại gà được nhà chăn nuôi lựa
chọn. Với khả năng đáp ứng yêu cầu về sức sản xuất, chất lượng trứng, và
tiêu tốn thức ăn ít cũng như khả năng thích nghi cao, chống đỡ bệnh tật tốt và
đặc biệt là nhu cầu thị trường về trứng gà có chất lượng cao ngày càng tăng.
Do vậy việc ni dòng gà này đã mang lại hiệu quả và thu nhập khá ổn định
cho người chăn nuôi.
Để đánh giá được hiệu quả chăn nuôi từ gà sản xuất trứng thương phẩm
tại địa bàn huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai, được sự đồng ý của khoa Nông
lâm - Trường Phân hiệu Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai và giáo viên
hướng dẫn tôi đã tiến hành thực hiện chuyên đề: “Khảo sát khả năng sản
`
9
xuất trứng của giống gà Ai Cập nuôi tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá được khả năng sản xuất trứng của giống gà Ai Cập trong
trang trại chăn nuôi nông hộ tại huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Xác định sức sống của gà Ai Cập
- Xác định khả năng sản suất của gà Ai Cập
- Đánh giá hiệu quả kinh tế của giống gà thông qua các chỉ tiêu kĩ thuật.
- Bản thân làm quen với công tác nghiên cứu khoa học. Thành thạo các
quy trình trong chăn nuôi.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1.Ý nghĩa khoa học
- Các kết quả nghiên cứu đạt được là những tư liệu khoa học về khả năng
sản xuất của giống gà Ai Cập phục vụ cho nghiên cứu, học tập của giảng viên
và sinh viên trong lĩnh vực chăn nuôi gia cầm.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Giúp sinh viên làm quen với cơng tác nghiên cứu khoa học và tích lũy
kinh nghiệm trong việc chăn nuôi gia cầm tại các cơ sở sản xuất. Từ đó giúp
sinh viên củng cố và nâng cao được kiến thức chuyên môn.
`
10
PHẦN 2: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Cơ sở khoa học của đề tài
2.1.1. Tính trạng số lượng
Các tính trạng sản xuất của vật ni phần lớn là tính trạng số lượng.
Theo Nguyễn Văn Thiện (1997)[15] tính trạng số lượng là những tính trạng
mà ở đó có sự sai khác nhau giữa các cá thể là sự sai khác nhau về mức độ
cao hơn, là sự sai khác về chủng loại. Tính trạng số lượng cịn được gọi là tính
trạng đo lường vì sự nghiên cứu chúng sử dụng các phép đo lường, như mức
độ tăng khối lượng của con vật, kích thước các chiều đo cơ thể, khối lượng
trứng… hay tính trạng số lượng được xác định bằng cách đếm như số trứng
đẻ ra trong năm, số trứng có phơi, số gà con nở ra, số gà con loại I. Giá trị đo
lường của tính trạng số lượng trên một cá thể được gọi là giá trị kiểu hình của
cá thể đó, các giá trị có liên hệ với kiểu gen là giá trị kiểu gen và giá trị có
liên hệ với mơi trường, là sai lệch mơi trường.
P=G+E
Trong đó: P là giá trị kiểu hình
G là giá trị kiểu gen
E là sai lệch môi trường
Giá trị kiểu gen được mơ tả theo mơ hình sau:
G=A+ D+ I
Trong đó: G là giá trị kiểu gen
A là giá trị cộng gộp
D là sai lệch do tác động trội – lặn
I là sự tương tác sai lệch do tương tác các gen
Giá trị cộng gộp hay giá trị giống là tổng hiệu ứng các gen có trong các
locus, giá trị cộng gộp còn gọi là giá trị giống.
Sai lệch trội - lặn là sai lệch được sản sinh ra do tác động qua lại giữa
các gen cùng alen ở trong cùng một locus, đặc biệt là các alen dị hợp tử.
Sai lệch tương tác giữa các gen (sai lệch át gen) khi kiểu gen là do từ 2
locus trở lên cấu tạo thành lúc đó giá trị kiểu gen có thêm một sai lệch do
tương tác của các gen không cùng một locus. Ngồi kiểu gen, mơi trường có
`
11
ảnh hưởng lớn đến tính trạng số lượng và được chia làm 2 sai lệch do môi
trường Eg và Es.
Es: Sai lệch môi trường đặc biệt là sai lệch do các nhân tố mơi trường có
tính chất khơng thường xun và cục bộ tác động riêng rẽ lên từng cá thể
trong cùng một nhóm vật ni. Tóm lại, khi một kiểu hình của một cá thể
được cấu tạo từ 2 locus trở lên thì giá trị kiểu hình được biểu thị bằng:
P = A + D + I + Eg + Es
Qua việc phân tích trên ta thấy muốn nâng cao năng suất vật nuôi ta cần
phải:
- Tác động về mặt môi trường (G)
- Tác động vào hiệu ứng cộng gộp (A) bằng cách chọn lọc
- Tác động hiệu ứng trội (D) và át gen (I) bằng lai giữa các giống hoặc
dịng
- Tác động về mơi trường E bằng cải tiến điều kiện chăn nuôi như thức
ăn, thú y, chuồng trại, sinh thái xung quanh khu vực nuôi.
2.1.2. Sinh lý sinh sản của gia cầm mái
2.1.2.1. Một số đặc điểm sinh học của gia cầm đẻ trứng
* Cơ quan sinh dục cái của gia cầm
Cơ quan sinh dục cái của gia cầm gồm: buồng trứng và ống dẫn trứng.
Buồng trứng có chức năng tạo lịng đỏ, ống dẫn trứng có chức năng tiết ra
lịng trắng đặc, lịng trắng lỗng, màng vỏ và lớp keo mỡ bao quanh ngoài vỏ
trứng. Thời gian trứng lưu lại trong ống dẫn trứng là 23 - 24 giờ.
- Buồng trứng
Buồng trứng nằm bên trái xoang bụng được giữ bằng màng bụng, kích
thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào độ tuổi và loại gia cầm. Ở gà
một ngày tuổi có kích thước 1 - 2 mm, khối lượng 0,03g, đến 4 tháng tuổi
buồng trứng có dạng hình thoi khối lượng 2,66g. Gà thời kỳ đẻ buồng trứng
hình chùm nho, chứa nhiều tế bào trứng, có khối lượng 45 - 55g, khi gà đẻ
thay lơng và gà dị có khối lượng buồng trứng 5g. Theo Nguyễn Duy Hoan và
Cs (1998) [6], thời kỳ ấp trứng cả 2 buồng trứng trái và phải đều hình thành
và phát triển. Từ ngày ấp thứ 5 đến ngày ấp thứ 7, buồng trứng trái phát triển
hơn buồng trứng phải. Ở gia cầm trưởng thành buồng trứng và ống dẫn trứng
`
12
phải khơng phát triển. Buồng trứng gà có khoảng 586 - 3605 tế bào trứng ở
các giai đoạn phát triển khác nhau.
Theo Bùi Đức Lũng và Cs (2003) [9], sự phát triển của mỗi tế bào trứng
gồm 3 thời kỳ: tăng sinh, sinh trưởng và chín
+ Thời kỳ tăng sinh: trước khi bắt đầu đẻ trứng, trong buồng trứng gà
mái đếm được 3500 đến 4000 tế bào trứng. Trong tế bào trứng (phần nỗn
hồng) có nhân to với những hạt nhỏ và nhiễm sắc thể. Trong nỗn hồng có
chứa nhân tế bào.
+ Thời kỳ sinh trưởng: Tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc biệt là lòng
đỏ. Trong khoảng thời gian 3-14 ngày, lòng đỏ chiếm từ 90 - 95% khối lượng
của tế bào trứng, thành phần gồm protit, photpholipit, mỡ trung hịa, các chất
khống và vitamin. Đặc biệt lịng đỏ được tích lũy mạnh vào ngày thứ 9 và 4
ngày trước khi trứng rụng. Việc tăng quá trình sinh trưởng của tế bào trứng do
ảnh hưởng của foliculin được chế tiết ở buồng trứng khi thành thục sinh dục.
Vào cuối thời kỳ phát triển của tế bào trứng, giữa lòng đỏ chứa đầy
limpho. Trong đó nỗn hồng bơi tự do và các cực của nó nằm theo lực hướng
tâm -dưới, Đường kính lịng đỏ khoảng 35 - 40 mm.
+ Thời kỳ chín của nỗn hồng (Thời kỳ cuối hình thành trứng): Trong
thời gian phát triển, lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi 1 tầng tế bào
khơng có liên kết với biểu bì phát sinh, tầng tế bào này phát triển thành nhiều
tầng và tiến tới bề mặt buồng trứng. Cấu tạo này gọi là follicul. Bên trong
follicul có một khoảng hờ chứa đầy dịch, bên ngồi follicul giống như một cái
túi. Trong thời kỳ đẻ trứng, nhiều follicul chín dần làm thay đổi hình dạng ban
đầu, các follicul vỡ ra, quả trứng chín chuyển ra ngồi cùng với dịch của
follicul và rơi vào ống phễu dẫn trứng. Sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự
thành thục sinh dục, đó là q trình di chuyển đi ra của tế bào trứng chín. Từ
buồng trứng, bình thường sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, có
những trường hợp đặc biệt có thể có hai hoặc ba tế bào trứng rụng cùng một
lúc, trường hợp quả trứng của ngày hơm trước đẻ sau 4 giờ chiều thì phải sang
ngày hơm sau mới xảy ra q trình rụng trứng.
`
13
Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc vào các yếu tố như: điều kiện ni dưỡng,
chăm sóc, lứa tuổi, trạng thái sinh lý của gia cầm. Song điều chung nhất là sự
rụng trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của thần kinh và thể dịch.
- Ống dẫn trứng:
Ống dẫn trứng là một phần hình ống, ở đó xảy ra q trình thụ tinh của tế
bào trứng và kết thúc ở lỗ huyệt. Kích thước của ống dẫn trứng thay đổi theo
tuổi và hoạt hóa chức năng cơ quan sinh dục. Khi thành thục sinh dục, ống
dẫn trứng trơn, thẳng, có đường kính đồng nhất trên chiều dài ống dẫn, sau
khi đẻ quả trứng đầu tiên ống dẫn trứng có chiều dài 68cm, khối lượng 77g.
Khi đẻ có cường độ cao chiều dài tăng 86 - 90cm, đường kính tới 10cm. Ở gà
khơng đẻ ống dẫn trứng có kính thước tương ứng là 11 - 18 và 0,4 đến 0,7cm.
Khi gia cầm thành thục ống dẫn trứng gồm các phần: phễu (hình loa kèn),
phần tiết lòng trắng, phần eo, tử cung, âm đạo.
+ Phễu: phần mở rộng của của phía đầu ống dẫn trứng dài 4 - 7cm,
đường kính 8 - 9cm, nằm dưới buồng trứng. Bề mặt niêm mạc phễu gấp nếp,
khơng có tuyến. Lớp niêm mạc cổ phễu có tuyến hình ống, chất tiết của nó
tham gia vào q trình tạo trứng và hình thành dây chằng lịng đỏ. Tại đây
trứng được thụ tinh nếu gặp tinh trùng, trứng dừng lại tại đây khoảng 20 phút.
+ Phần tiết lòng trắng: Là bộ phận dài nhất của ống dẫn trứng. Ở thời kỳ
gia cầm đẻ trứng với tỷ lệ cao, chúng có thể dài tới 20 - 30 cm. Niêm mạc
phần này có nhiều tuyến hình ống giống như cổ phễu tiết ra lịng trắng đặc
hình thành dây chằng lịng đỏ và tiết ra lịng trắng lỗng, trứng dừng ở đây
khoảng 3 giờ.
+ Phần eo: là phần hẹp hơn ống dẫn trứng, dài hoảng 8cm, các tuyến ở
đây tiết ra một phần lịng trắng và tiết ra một chất hạt hình thành nên tấm
màng dưới vỏ gồm 2 lớp, 2 lớp này tách nhau ra tại đầu lớn của vỏ trứng hình
thành nên buồng khí. Các dung dịch muối và nước có thể thấm qua màng này
đi vào lịng trắng. Trứng dừng ở đây 60 - 70 phút.
+ Tử cung: là phần tiếp theo của quá trình tạo vỏ, là phần mở to ra tạo
thành tử cung dài 8 - 12 cm, tuyến vách tử cung tiết ra một chất dịch lỏng,
chất dịch thẩm thấu qua màng vỏ đi qua lòng trắng làm tăng khối lượng lòng
trắng, mặt khác một số tuyến ở tử cung tiết ra một chất dịch hình thành nên vỏ
`
14
cứng của trứng, quá trình hình thành nên vỏ cứng diễn ra chậm chạp. Trứng
dừng ở đây khá lâu, từ 18 - 20 giờ.
+ Âm đạo: là đoạn cuối cùng của ống dẫn trứng, là cửa ngõ để trứng ra
ngoài cơ thể. Thành âm đạo có nhiều lớp cơ lớn, niêm mạc nhăn nhưng khơng
có các tuyến hình ống. Tại chính mép biểu mơ của âm đạo tiết ra một chất
dịch tham gia hình thành lớp màng keo ở trên vỏ. Trứng đi qua phần âm đạo
rất nhanh.
* Những trường hợp trứng dị hình
- Trứng vỏ mềm: do thức ăn thiếu các chất khoáng (Ca, P) hoặc do cơ thể
bị chấn động thần kinh quá mạnh, chưa kịp tạo vỏ trứng, hoặc do các bệnh
khác … Trứng đẻ ra có màng lịng trắng tương đối dày và dai.
- Trứng khơng có lịng đỏ: do trong cơ thể có những tế bào chết rơi vào
loa kèn và ống dẫn trứng vì vậy vẫn có q trình tạo trứng và hình thành trứng
nhỏ.
- Trứng hai lòng đỏ: do hai trứng cùng rụng vào một thời điểm hoặc
cách nhau không quá 20 phút vì vậy hình thành nên quả trứng rất to.
- Trứng trong trứng: thường ít gặp, do bị kích động đột ngột một quả
trứng hoàn chỉnh bị ống dẫn trứng co lại gây ra nhu động ngược lên phía trên
gặp tế bào trứng mới rụng, trứng sẽ nằm cùng với lòng đỏ của trứng mới bên
ngồi được bao bọc bằng lịng trắng và vỏ cứng.
- Ngồi ra cịn có trứng méo mó, khơng có vỏ do thiếu khống, vitamin
D hoặc do co bóp của ống dẫn trứng …
2.1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá sức sản xuất của gia cầm
* Khả năng sinh sản của gia cầm
Để duy trì sự phát triển của đàn gia cầm thì khả năng sinh sản là yếu tố
cơ bản quyết định đến quy mô, năng suất và hiệu quả sản xuất đối với gia
cầm. Sản phẩm chủ yếu là thịt và trứng. Còn gà hướng thịt (cũng như gà
hướng trứng) khả năng sinh sản hay khả năng đẻ trứng quyết định đến sự
phân đàn và di truyền giống mở rộng quy mô đàn gia cầm. Ở các loại gia cầm
khác nhau thì đặc điểm sinh sản cũng khác nhau rõ rệt.
Trứng là sản phẩm quan trọng của gia cầm, đánh giá khả năng sản xuất của
gia cầm người ta không thể không chú ý đến sức đẻ trứng của gia cầm.
`
15
Theo Brandsch H. và Bilchel H. (1978)[2], sức đẻ trứng chịu ảnh hưởng của 5
yếu tố chính:
- Tuổi đẻ đầu hay tuổi thành thục
- Chu kỳ đẻ trứng hay cường độ đẻ trứng
- Tần số thể hiện bản năng đòi ấp
- Thời gian nghỉ đẻ, đặc biệt là nghỉ đẻ mùa đông
- Thời gian đẻ kéo dài hay chu kỳ đẻ (hay tính ổn định sức đẻ)
Các yếu tố trên có sự điều khiển bởi kiểu gen di truyền của từng giống.
* Tuổi đẻ đầu
Tuổi đẻ lứa đầu là tuổi bắt đầu hoạt động sinh dục và có khả năng tham
gia vào quá trình sinh sản. Đối với gia cầm mái, tuổi thành thục sinh dục là
tuổi bắt đầu đẻ quả trứng đầu tiên. Đây là một trong các yếu tố ảnh hưởng đến
năng suất. Đối với một đàn gà cùng lứa tuổi thì tuổi đẻ quả trứng đầu tiên là
thời điểm tại đó đàn gà đẻ đạt tỷ lệ 5%. Theo Brandsch H. và cs (1978) [2],
những gà có tuổi đẻ quả trứng đầu tiên lớn hơn 215 ngày là 6,9 quả. Tuổi đẻ
trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng và các yếu tố môi trường, đặc biệt
là thời gian chiếu sáng. Thời gian chiếu sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm.
Tuổi đẻ đầu sớm hay muộn liên qua đến khối lượng cơ thể ở một thời điểm
nhất định. Những gia cầm thuộc giống bé có khối lượng cơ thể nhỏ, tuổi thành
thục sinh dục sớm hơn những gia cầm có khối lượng cơ thể lớn. Trong cùng
một giống, cơ thể nào được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, điều kiện thời tiết, khí
hậu và độ dài ngày chiếu sáng phù hợp sẽ có tuổi thành thục sinh dục sớm
hơn. Nhiều cơng trình nghiên cứu đã chứng minh tuổi thành thục sinh dục
sớm là trội so với tuổi thành thục sinh dục muộn.
* Năng suất trứng
Năng suất trứng hay sản lượng trứng của một gia cầm mái là tổng số
trứng đẻ ra trên một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm, đây là một chỉ tiêu
quan trọng, nó phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh
dục. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào loài, giống, hướng sản xuất, mùa vụ
và đặc điểm của cá thể. Năng suất trứng là một tính trạng số lượng nên nó phụ
thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh. Năng suất trứng được đánh giá qua
cường độ đẻ và thời gian kéo dài sự đẻ.
`
16
Theo Card L. E. (1977)[23] thì quần thể gà mái cao sản đẻ theo quy
luật, cường độ đẻ trứng cao nhất vào các tháng thứ hai, thứ ba sau đó giảm
dần cho đến hết năm đẻ. Khi cường độ đẻ giảm nhiều gà thường hay biểu hiện
bản năng đòi ấp. Bản năng này khác nhau ở các giống gà. Số lượng trứng có
tương quan di truyền âm với khối lượng cơ thể nhưng khối lượng trứng có
tương quan dương với khối lượng cơ thể. Cho nên gà mới đẻ lần đầu thường
có khối lượng trứng nhỏ, sau đó tăng dần lên cùng với sự phát triển của cơ thể
gà trong thời gian đẻ.
Theo Jull M. A. (1976)[24] và Hutt F. B. (1978)[22] thì hệ số tương quan
giữa sản lượng trứng 3 tháng đầu với sản lượng trứng cả năm là rất chặt chẽ
từ 0,7-0,9. Thời gian kéo dài đẻ trứng là yếu tố quyết định đến sản lượng
trứng. Tuy nhiên, mốc xác định thời gian đẻ để tính sản lượng trứng cịn nhiều
ý kiến và nó phụ thuộc vào nhiều nước khác nhau.
Năng suất trứng là chỉ tiêu đánh giá sức đẻ trứng của đàn gia cầm. Đỉnh
cao của tỷ lệ đẻ có mối tương quan với năng suất trứng. Giống gia cầm nào có
tỷ lệ đẻ cao và kéo dài trong thời kỳ sinh sản, chứng tỏ đó là giống tốt, nếu
chế độ dinh dưỡng đảm bảo thì năng suất sinh sản sẽ cao. Gà chăn thả có tỷ lệ
đẻ thấp trong vài tuần đầu của chu kỳ đẻ, sau đó tăng dần và tỷ lệ đẻ thấp ở
cuối kỳ sinh sản. Năng suất trứng/năm của một quần thể gà mái cao sản được
thể hiện theo quy luật, cường độ đẻ trứng cao nhất vào tháng thứ 2, thứ 3 sau
đó giảm dần cho đến hết năm đẻ. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong
một thời gian ngắn. Trong thời gian này có thể loại trừ ảnh hưởng của mơi
trường. Thời gian đẻ kéo dài có liên quan đến chu kỳ đẻ trứng… Chu kỳ đẻ
kéo dài hay ngắn phụ thuộc vào cường độ và thời gian chiếu sáng. Đây là cơ
sở để áp dụng chiếu sáng nhân tạo trong chăn nuôi gà đẻ. Giữa các lần đẻ, gà
thường có những khoảng thời gian địi ấp. Sự xuất hiện bản năng đòi ấp phụ
thuộc vào nhiều yếu tố di truyền vì ở các giống khác nhau có bản năng đòi ấp
khác nhau. Điều này chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như: Nhiệt độ, ánh
sáng, dinh dưỡng, … Theo Brandsch H. và Bilchel H (1978) [2], nhiệt độ cao
và bóng tối kích thích sự ham ấp, đồng thời yếu tố gen chịu tác động phối hợp
giữa gen thường và gen liên kết giới tính. Trên cơ sở tỷ lệ đẻ hàng ngày hoặc
tuần cho phép đánh giá một phần nào về chất lượng giống và mức độ ảnh
`
17
hưởng của chế độ ngoại cảnh đến sự sản xuất của đàn giống. Cũng theo
Nguyễn Duy Đạt, (2001) [5] gà thịt nặng cân đẻ ít hơn do tồn tại nhiều thể
vàng nên lấn át buồng trứng nhiều hơn so với gà dịng trứng.
Thời gian nghỉ đẻ ngắn hay dài có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng
trứng cả năm. Gà thường hay nghỉ đẻ mùa đông do nguyên nhân giảm dần về
cường độ và thời gian chiếu sáng tự nhiên. Ngồi ra sự nghỉ đẻ này cịn do khí
hậu, sự thay đổi thức ăn, chu chuyển đàn. Là một tính trạng số lượng có hệ số
di truyền cao, do đó người ta có thể cải thiện di truyền bằng cách chọn lọc
giống. Trong chọn lọc cần chú ý tới chỉ số trung bình chung. Khối lượng
trứng phụ thuộc vào khối lượng cơ thể, giống, tuổi đẻ, tác động dinh dưỡng
tới gà sinh sản. Đồng thời khối lượng trứng lại quyết định tới chất lượng trứng
giống, tỷ lệ ấp nở, khối lượng và sức sống của gà con. Nó là chỉ tiêu không
thể thiếu của việc chọn lọc giống.
Theo Brandsch H. và Bilchel H (1978) [2] cho rằng hiện nay chưa có
cách nào tăng khối lượng của quả trứng mà khơng đồng thời tăng khối lượng
của cơ thể. Đó cũng là một trong những nguyên nhân phải hạn chế khối lượng
trứng ở mức 55- 60g để phù hợp với sinh lý và kỹ thuật ấp nở. Ngoài ra tăng
khối lượng trứng cịn làm tăng chi phí thức ăn.
Theo Lochus. G.P. và Starstikov.N.L. (1979) cho biết: trứng gia cầm khi
bắt đầu đẻ nhỏ hơn trứng gia cầm lúc trưởng thành. Khối lượng trứng phụ
thuộc trực tiếp vào chiều dài, chiều rộng của quả trứng cũng như khối lượng
lòng trắng, lòng đỏ và vỏ (dẫn theo Trần Huê Viên, 2001) [18].
Theo Nguyễn Duy Hoan và Cs (1998) [6] trong cùng một độ tuổi, khối lượng
trứng tăng lên chủ yếu do khối lượng lòng trắng lớn hơn nên giá trị năng
lượng giảm dần. Khối lượng gà con khi mới nở thường bằng 62 - 78% khối
lượng trứng ban đầu. Khối lượng trứng của các loại giống khác nhau thì khác
nhau.
2.1.2.3. Một số chỉ tiêu chất lượng trứng
* Đặc điểm hình thái
Hình dạng quả trứng: là một đặc trưng của từng cá thể, vì vậy nó được
quy định di truyền rõ rệt. Theo Brandsch H. và Bilchel H (1978) [2] thì tỷ lệ
giữa chiều dài và chiều rộng quả trứng là một chỉ số ổn định 1:0,75. Hình
`
18
dạng quả trứng tương đối ổn định, sự biến động theo mùa cũng khơng ảnh
hưởng lớn. Nói chung hình dạng của quả trứng ln có tính di truyền bền
vững và có những biến dị khơng rõ rệt.
Vỏ trứng: là phần bảo vệ của trứng, nó cũng đồng thời tạo ra màu sắc
bên ngoài quả trứng. Màu sắc vỏ trứng phụ thuộc vào giống, lông tai và từng
loại gia cầm khác nhau. Phía ngồi được phủ một lớp keo dính do âm đạo tiết
ra. Chất keo dính này có tác dụng làm giảm độ ma sát giữa thành âm đạo và
trứng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẻ trứng và ngăn cản sự xâm nhập của
tạp khuẩn từ bên ngoài vào.
Độ dày vỏ trứng: có ảnh hưởng tới việc bảo quản trứng và sự phát triển
của phôi. Thời gian, độ ẩm trong quá trình ấp cũng chịu ảnh hưởng của yếu tố
độ dày của vỏ trứng. Do đó, độ dày vỏ là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá
chất lượng trứng. Nó chịu ảnh hưởng của yếu tố mơi trường và yếu tố di
truyền. Ở mỗi loài gia cầm khác nhau vỏ trứng có độ dày khác nhau. Trong
thực tế ta có thể thấy hiện tượng vỏ trứng mỏng khi khẩu phần của thức ăn
thiếu canxi.
Chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ dày và độ bền của vỏ trứng. Nó có ý
nghĩa trong vận chuyển và ấp trứng. Độ dày vỏ trứng gà đạt 0,311mm và dao
động từ 0,299-0,373. Ngô Giản Luyện. (1994) [10] xác định vỏ trứng dày 0,30,34mm, độ chịu lực là 2,44 - 3kg/cm². Theo Nguyễn Duy Hoan và Cs (1998)
[6], chất lượng vỏ trứng chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố như: canxi (70% canxi
cần cho vỏ trứng là lấy trực tiếp từ thức ăn), photpho, vitamin D3, vitamin K,
các nguyên tố vi lượng…khi nhiệt độ tăng từ 20 - 30°C thì độ dày vỏ trứng
giảm từ 6 - 10% khi đó gia cầm đẻ ra trứng khơng có vỏ hoặc biến dạng.
Lịng trắng: Là phần bao bọc bên ngồi lịng đỏ, nó là sản phẩm của ống
dẫn trứng. Lòng trắng chủ yếu là Abumin giúp cho việc cung cấp khoáng và
muối khoáng, tham gia cấu tạo lơng, da trong q trình phát triển cơ thể. Ở
giai đoạn phơi chất lượng lịng trắng được xác định qua chỉ số lòng trắng và
đơn vị Haugh. Hệ số di truyền của tính trạng này khá cao.
Theo Awang (1978) cho biết khối lượng trứng tương quan rõ rệt với khối
lượng lòng trắng (r=0,86) khối lượng lòng đỏ (r=0,72) và khối lượng vỏ
(r=0,48) (dẫn theo Trần Huê Viên, 2001)[18].
`
19
Theo Orlov. M.V. (1974) cho rằng: chỉ số lòng trắng ở mùa đông cao hơn
mùa xuân và mùa hè. Trứng gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp
hơn gà mái đang ở độ tuổi sinh sản. Trứng bảo quản lâu chỉ số lòng trắng
cũng bị thấp đi. Chất lượng lòng trắng còn kém đi khi cho gà ăn thiếu protein
và vitamin nhóm B. (dẫn theo Ngơ Giản Luyện, 1994)[10]. Để đánh giá chất
lượng lịng trắng người ta quan tâm đến chỉ số lịng trắng. Nó được tính bằng
tỷ lệ chiều cao lịng trắng đặc so với trung bình cộng đường kính nhỏ và
đường kính lớn của lòng trắng trứng. Chỉ số lòng trắng trứng chịu ảnh hưởng
của giống, tuổi, chế độ dinh dưỡng và thời gian bảo quản.
Lịng đỏ: Là tế bào trứng có dạng hình cầu đường kính 35 - 40mm và
được bao bọc bởi màng lịng đỏ có tính đàn hồi nhưng sự đàn hồi này giảm
theo thời gian bảo quản, ở giữa các hốc lịng đỏ nối với đĩa phơi lấy chất dinh
dưỡng từ nguyên sinh chất để cung cấp cho phôi phát triển, lịng đỏ có độ
đậm đặc cao nằm giữa lòng trắng đặc, được giữ ổn định nhờ dây chằng là
những sợi protein quy tụ ở hai đầu lòng đỏ. Phía trên lịng đỏ là mầm phơi.
Lịng đỏ bao gồm: Nước, protein, các axit amin không thể thay thế được, các
loại vitamin... Lòng đỏ cung cấp chất dinh duỡng chủ yếu cho phôi. Thông
qua nguồn năng lượng dự trữ cho phơi mà người ta có thể đánh giá được chất
lượng lịng đỏ. Chỉ số lịng đỏ được tính bằng tỷ lệ giữa chiều cao lịng đỏ so
với đường kính của nó. Tạ An Bình và cs (1979) [3] cho biết: khi chỉ số này
xuống 0,33 tức là lòng đỏ bị biến dạng. Theo Ngơ Giản Luyện (1994) [10],
Chỉ số lịng đỏ ít biến đổi hơn lịng trắng. Chỉ số lịng đỏ bị giảm từ 0,250,29 nếu bị tăng nhiệt độ và bảo quản lâu, (Nguyễn Quý Khiêm, 1999)[8].
* Chỉ số Haugh (HU)
Là chỉ số đánh giá chất lượng trứng xác định thơng qua khối lượng trứng
và chiều cao lịng trắng đặc. Chỉ số HU càng cao thì chất lượng trứng càng
cao, trứng đạt chất lượng tốt. Chỉ số này chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố tác
động như: thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm, bệnh tật, nhiệt độ mơi
trường, sự thay đổi lơng, giống, dịng.
* Tỷ lệ ấp nở
Tỷ lệ ấp nở của gia cầm được xác định bằng tỷ lệ (%) số con nở ra so với
số trứng có phơi. Đây là tính trạng đầu tiên biểu hiện sức sống ở đời con, tỷ lệ
`
20
nở của trứng khơng những chứng minh có đặc tính di truyền về sinh lực của
giống mà còn là sự xác minh về sự liên quan đến tỷ lệ nở với cấu tạo của
trứng. Theo Nguyễn Quý Khiêm và cs. (1999) [8], khối lượng trứng, sự cân
đối giữa các thành phần cấu tạo và cấu trúc vỏ trứng ảnh hưởng tới tỷ lệ ấp
nở. Những quả trứng quá nhỏ hoặc quá lớn đều có khả năng nở kém hơn
những quả trứng trung bình. Khi khối lượng trứng từ 45 - 64g, khả năng nở là
87% khi khối lượng nhỏ hơn 45g, khả năng nở là 71%.
2.1.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến sức sản xuất trứng của gia cầm
Sức đẻ trứng là một tính trạng số lượng có đặc điểm phức tạp và biến
động, nó chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong và bên ngoài.
Tuổi thành thục sinh dục: liên quan đến tính đẻ trứng của gia cầm. Thành
thục sớm là một tình trạng mong muốn, tuy nhiên cần phải chú ý đến khối
lượng cơ thể. Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể là tương quan nghịch.
Chọn lọc theo hướng tăng khối lượng quả trứng sẽ làm tăng khối lượng cơ
thể gà và tăng tuổi thành thục. Tuổi thành thục sinh dục của cá thể được xác
định qua tuổi đẻ trứng đầu tiên. Tuổi thành thục sinh dục của một nhóm hoặc
đàn gia cầm được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ trứng là 5%. Có nhiều yếu tố
ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh của gia cầm: lồi, giống, dịng, hướng sản
xuất, mùa vụ nở, thời gian chiếu sáng, chế độ chăm sóc, chế độ quản lí.
Cường độ đẻ trứng: là sức đẻ trứng của gia cầm trong một thời gian
ngắn. Cường độ đẻ trứng tương quan rất chặt chẽ với sức đẻ một năm. Nhất là
cường độ đẻ trứng của 3-4 tháng đầu tiên, Vì vậy để đánh giá sức sản xuất
trứng của gia cầm người ta thường kiểm tra cường độ đẻ trứng của 3-4 tháng
đẻ đầu để có những phán đốn sớm, kịp thời trong công tác chọn giống.
Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học
liên quan đến thời vụ nở của gia cầm con. Tùy thuộc vào thời gian nở mà sự
bắt đầu và kết thúc của chu kỳ đẻ trứng sinh học có thể xảy ra ở thời gian
khác nhau trong năm. Thường ở gà chu kỳ kéo dài 1 năm. Chu kỳ đẻ trứng
sinh học có mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ
trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Giữa sự thành thục và thời gian
kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có mối tương quan nghịch rõ rệt. Các cá thể
khác nhau có sự khác nhau về bản chất di truyền của thời điểm kết thúc năm
`
21
sinh học; điều này cho phép chọn lọc theo sự đẻ trứng ổn định và do đó nâng
cao sức đẻ trứng của năm.
Giữa thời gian đẻ trứng kéo dài và sức sản xuất trứng có hệ số tương
quan dương rất cao.
Nghỉ đẻ và thay lơng: trong điều kiện bình thường, thay lông lần đầu tiên
là đặc điểm quan trọng để đánh giá gia cầm tốt hay xấu. Những con thay lông
sớm thường là những con đẻ kém và thời gian kéo dài thay lông tới 4 tháng.
Ngược lại nhưng con thay lông muộn và nhanh thời gian nghỉ đẻ dưới 2
tháng.
Tính ấp bóng hay chính là bản năng ấp trứng, đây là phản xạ không điều
kiện liên quan đến sức sản xuất trứng của gia cầm. Sự xuất hiện bản năng địi
ấp ở những giống gia cầm nặng cân ít hơn so với những giống nặng cân. Tính
ấp bóng ảnh hưởng đến năng xuất trứng vì vậy chọn lọc để loại bỏ bản năng
đòi ấp sẽ nâng cao sức đẻ trứng của gia cầm. Hiện nay người ta đã tạo ra
những dịng gà hướng trứng khơng cịn bản năng địi ấp. Đối với gà giống thịt
người ta cũng tiến hành loại bỏ hoặc giảm đến thấp nhất bản năng đòi ấp.
Giống, dịng gia cầm: có ảnh hưởng lớn đến sức sản xuất trứng của gia
cầm. Giống gia cầm khác nhau khả năng đẻ trứng sẽ khác nhau. Trong cùng
một giống, các dòng khác nhau sản lượng trứng cũng khác nhau. Những dịng
được chọn thường cao hơn những dịng khơng được chọn 15-20%.
Tuổi gia cầm: tuổi gia cầm cũng có liên quan đến năng suất trứng và sản
lượng trứng của gia cầm, và sẽ giảm dần theo tuổi, thường thì năm thứ 2 giảm
15-20% so với năm thứ nhất. Một số loại gia cầm như vịt và ngỗng, sản lượng
trứng năm thứ 2 cao hơn năm thứ nhất. Riêng ngỗng, sản lượng trứng cao
nhất ở năm thứ 3.
Bảng 2.1. Ảnh hưởng của tuổi gia cầm đến sản lượng trứng (Đơn vị: %)
(Theo Nguyễn Duy Hoan, Trần Thanh Vân, 1998)[6]
`
Năm
Gà
Vịt
Ngỗng
Gà tây
1
100
100
100
100
2
85
109
125
106
3
72
82
165
94
22
4
62
73
150
75
5
55
54
75
37
Thức ăn và dinh dưỡng: có liên quan chặt chẽ với khả năng đẻ trứng.
Muốn gia cầm có sản lượng trứng cao, chất lượng trứng tốt phải đảm bảo chế
độ ăn đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng theo nhu cầu. Quan trọng nhất
là cân bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng giữa các axit amin, cân
bằng giữa các chất khoáng và vitamin.
Phải tùy thuộc vào lượng thức ăn thu nhận hàng ngày của mỗi đàn gia
cầm mà phối hợp khẩu phần ăn cho thích hợp. Nếu khẩu phần không đảm bảo
nhu cầu về protein sẽ làm ảnh hưởng rõ rệt đến năng suất trứng. Năng suất
trứng giảm xuống và khối lượng trứng cũng nhỏ hơn bình thường, mức thiếu
protein nghiêm trọng sẽ ảnh hưởng đến cả chất lượng trứng và tỉ lệ ấp nở sẽ
giảm thấp. Khẩu phần không đảm bảo nhu cầu về vitamin và khống chất
khơng những làm giảm năng suất trứng mà cịn ảnh hưởng rõ rệt đến kết quả
ấp nở. Tỉ lệ trứng khơng có phơi sẽ cao. Khẩu phần thừa năng lượng làm gia
cầm tích nhiều mỡ trong cơ thể cũng ảnh hưởng đến q trình tạo trứng thơng
qua hoạt động của các hoocmone sinh dục khơng bình thường.
Thức ăn chất lượng kém sẽ khơng cho năng suất cao thậm chí còn gây
bệnh cho gia cầm. Các loại thức ăn bảo quản không tốt bị nhiễm nấm mốc,
nhiễm độc các kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật … Thậm chí các loại thức
ăn đảm bảo đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhưng bảo quản không
tốt cũng không phát huy được tác dụng trong chăn nuôi gia cầm.
Điều kiện ngoại cảnh: Các điều kiện ngoại cảnh như thời tiết, khí hậu mà
cụ thể như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng … của chuồng nuôi đều ảnh hưởng đến
sức đẻ của gia cầm. Trong các yếu tố này thì điều kiện nhiệt độ là quan trọng
nhất, ở gà nhiệt độ thích hợp cho q trình đẻ là từ 18-20°C. Tuy nhiên nhiệt
độ thích hợp nhất là 20°C. Nhiệt độ q thấp hoặc q cao đều ảnh hưởng
khơng có lợi và ảnh hưởng đến sức đẻ của gia cầm.
Khi nhiệt độ dưới 20°C gia cầm bắt đầu phải huy động thêm năng lượng
để duy trì thân nhiệt cho cơ thể, vì vậy hiệu quả sử dụng thức ăn giảm xuống,
tiêu tốn lượng thức ăn để sản xuất 10 quả trứng sẽ tăng lên. Ngược lại khi
`
23
nhiệt độ vượt lên trên 20°C, gia cầm bắt đầu có hiện tượng cần thải thân nhiệt,
lượng thức ăn thu nhận có xu hướng giảm. Tác động đến năng suất trứng rõ
rệt hơn khi nhiệt độ vượt quá 24°C. Khi nhiệt độ mơi trường cao để giúp cho
q trình thải nhiệt, gia cầm phải tăng cường độ hô hấp. Sự mất nhiều CO 2 đã
làm tăng khả năng nhiễm kiềm trong máu. Điều này làm cho quá trình trao
đổi chất của gia cầm khơng bình thường, ảnh hưởng đến sức khỏe và khả
năng sinh sản của gia cầm. Chính vì thế khi nhiệt độ môi trường cao, không
những giảm năng suất trứng mà còn giảm chất lượng trứng. Vỏ trứng mỏng
hơn bình thường, nếu điều kiện dinh dưỡng khơng hợp lý trong điều kiện
nóng ẩm cịn làm trứng đẻ ra khơng có vỏ.
Liên quan chặt chẽ với nhiệt độ là độ ẩm, khơng khí trong chuồng ni
thường xun bão hịa hơi nước, do đó muốn đẩy lượng nước thừa ra ngồi
cần có hệ thống thơng khí. Ẩm độ của khơng khí tốt nhất trong chuồng ni là
từ 65-70%, về mùa đông độ ẩm không nên vượt quá 80%. Sự thông thống tốt
khơng chỉ giúp đảm bảo độ ẩm thích hợp trong chuồng ni mà cịn đẩy các
khí độc trong chuồng ni ra ngồi, đảm bảo một mơi trường sống phù hợp
với gia cầm.
Ngoài nhiệt độ và độ ẩm, chế độ chiếu sáng (thời gian và cường độ chiếu
sáng) có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gia cầm. Chế độ chiếu sáng
trong thời gian hậu bị không những ảnh hưởng tới tuổi thành thục sinh dục
của đàn gia cầm mà còn ảnh hưởng tới khả năng đẻ trứng sau này. Đối với gia
cầm đẻ trứng yêu cầu thời gian chiếu sáng mỗi ngày là 14-17 giờ. Nếu thời
gian chiếu sáng ngắn hơn phải sử dụng thêm đèn chiếu sáng.
Ở nước ta, chăn ni gia cầm cịn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố tự
nhiên trực tiếp ảnh hưởng đến sức đẻ trứng, đó là gió mùa Đơng bắc về mùa
đơng và gió Lào về mùa hè. Hơn nữa ở nước ta hiện nay phần lớn vẫn nuôi
theo kiểu chuồng ni thơng thống tự nhiên nên vấn đề chống nóng và chống
rét cịn nhiều khó khăn, nhất là vấn đề chống nóng mùa hè. Đây là một trong
những nguyên nhân cơ bản làm cho các đàn gia cầm chúng ta nhập về vẫn
chưa đạt được năng xuất như các đàn nguyên gốc.
`
24
2.2. Giới thiệu về giống gà Ai Cập
- Nguồn gốc: Gà Ai Cập là giống gà có nguồn gốc từ nước Cộng hoà Ai
Cập, được nhập vào nước ta từ năm 1997, sau hơn 10 năm nuôi ở Việt Nam,
chúng vẫn là giống có khả năng đẻ trứng tốt, tuy nhiên năng suất trứng /mái /
52 tuần đẻ hiện nay của gà Ai Cập chỉ đạt từ 180-195 quả và tiêu tốn thức
ăn/10 trứng là 2,0 - 2,1 kg. Khối lượng trứng trung bình 42-46g. Trứng có
chất lượng tốt, thơm và ngon, tỷ lệ lòng đỏ đạt từ 31,5-32,0%, vỏ trứng màu
trắng hồng phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. (Trần Kim Nhàn và cs,
2010) [13].
- Đặc điểm ngoại hình: Gà Ai Cập có tầm vóc trung bình, con mái có
thân hình nhỏ nhẹ, tiết diện hình nêm thể hiện rõ hướng chuyên dụng trứng.
Gà Ai Cập có chân cao, rất nhanh nhẹn, thịt săn chắc và ngon, chúng có bộ
lơng trắng, chân chì, cổ dài, lơng đi cao một số có lơng màu hoa mơ đen
đốm trắng, cổ trắng, mào cờ đỏ tươi, da trắng, xung quanh mắt có màu lơng
sẫm hơn.
- Chỉ tiêu năng suất: Khối lượng cơ thể gà mái lúc 19 tuần tuổi đạt 1,351,45 kg, lúc này gà đã bắt đầu đẻ. Gà có khả năng chống chịu bệnh tật tốt,
chịu được kham khổ, có thể ni nhốt hoặc thả vườn tùy theo khả năng diện
tích đất đai của chủ hộ. Đây là loại gà ưa yên tĩnh, thích hợp với vùng đồi.
Sau 20 tuần tuổi gà Ai Cập đã bắt đầu đẻ trứng, kết thúc giai đoạn hậu bị,
gà bước vào giai đoạn sinh sản. Gà đẻ nhiều, chỉ cần nuôi hơn 4 tháng là có
thể cho lứa trứng đầu tiên. Năng suất trứng đạt 250-280 quả/mái/năm, trung
bình từ 200-210 trứng/năm. Sản lượng trứng đạt 141 quả, năng suất trứng có
thể đạt 195-205 quả ở mức 72 tuần tuổi, tỷ lệ đẻ trứng cao, thời kỳ sinh sản
đạt tỷ lệ 85% trong đó khoảng trên 80% trứng to và đều. Trứng gà Ai Cập rất
ngon, ngon hơn các loại trứng gà khác, tỷ lệ lịng đỏ cao, trứng có tỷ lệ lịng
đỏ chiếm 34%.
Sau 20 tuần tuổi chọn những con đạt tiêu chuẩn chuyển sang đàn gà đẻ,
gà mái sinh sản có mào và tích tai to mềm, màu đỏ tươi, khoảng cách giữa 2
xương háng rộng đặt lọt 2-3 ngón tay, khoảng cách giữa mỏm xương lưỡi hái
và xương háng rộng rộng đặt lọt 3 ngón tay. Lỗ huyệt ướt, thường xuyên cử
động, màu nhạt. Màu vàng của mỏ và chân nhạt dần theo thời gian đẻ. Ghép
`
25
gà trống với gà mái theo tỷ lệ 1/8 đến 1/10. Gà đẻ chỉ cho năng suất cao trong
vòng một năm đầu.
`