ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
PHÂN HIỆU ĐHTN TẠI TỈHH LÀO CAI
NGUYỄN XUÂN LONG
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN TÁP NÁ
TẠI NHO QUAN, NINH BÌNH”
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
: Chính quy
Ngành
: Chăn ni
Chun ngành
: Chăn ni - Thú y
Khoa
: Nơng Lâm
Khóa học
: 2017 – 2021
LÀO CAI - 2021
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
PHÂN HIỆU ĐHTN TẠI TỈNH LÀO CAI
2
NGUYỄN XUÂN LONG
Tên đề tài:
“ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG SẢN XUẤT CỦA LỢN TÁP NÁ TẠI
NHO QUAN, NINH BÌNH”
KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Hệ đào tạo
: Chính quy
Ngành
: Chăn ni
Chun ngành
: Chăn ni - Thú y
Khoa
: Nơng Lâm
Khóa học
: 2017 – 2021
Giáo viên hướng dẫn:
1. ThS. Phạm Hải Ninh -Viện Chăn Nuôi
2. PGS.TS.
Nguyễn Mạnh Hà - Phân hiệu ĐHTN tại tỉnh Lào Cai.
LÀO CAI - 2021
LỜI CẢM ƠN
2
2
3
Trong suốt thời gian học tập, nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em
đã nhận được sự hướng dẫn, chỉ bảo tận tình của các thầy cơ giáo, sự giúp đỡ,
động viên của bạn bè, gia đình và người thân.
Nhân dịp hồn thành khóa luận, em xin chân thành cảm ơn tới Ban
Giám đốc, phòng Đào tạo – NCKH&HTQT, Khoa Nông Lâm – Phân hiệu
Đại học Thái Nguyên tại tỉnh Lào Cai đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình
học tập, thực hiện đề tài và hồn thành khóa luận.
Cho phép em được bày tỏ lịng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới
PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà và ThS. Phạm Hải Ninh đã tận tình hướng dẫn,
dành nhiều cơng sức, thời gian và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình
học tập và thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn tập thể lãnh đạo, cán bộ viên chức tại Bộ
môn Động vật Quý hiếm và Đa dạng Sinh học – Viện Chăn nuôi đã giúp đỡ
và tạo điều kiện cho em trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Xin chân thành cảm ơn gia đình, người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã
tạo mọi điều kiện thuận lợi và giúp đỡ em về mọi mặt, động viên khuyến
khích em hồn thành luận văn.
Lào Cai, ngày ... tháng ... năm 2021
Sinh viên
Nguyễn Xuân Long
MỤC LỤC
3
3
4
4
4
5
DANH MỤC CÁC TỪ, CỤM TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Từ được viết tắt
Kg
Kilogam
g
Gam
TA
Thức ăn
ĐVT
Đơn vị tính
Nxb
Nhà xuất bản
Cs
Cai sữa
TNHH
Trách nhiệm hữu hạng
KHKT
Khoa học kĩ thuật
5
5
6
DANH MỤC CÁC BẢNG
6
6
7
DANH MỤC CÁC HÌNH
7
7
8
PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Hiện nay chăn nuôi lợn ở Việt Nam đang ngày càng phát triển cùng với
đó là nhu cầu ngày càng cao về cả số lượng lẫn chất lượng thịt đặc biệt trong
đó có xu hướng tiêu thụ lợn nội.
Lợn Táp Ná là giống lợn bản địa của người dân tộc tỉnh Cao Bằng. Đây
là giống lợn có nhiều nét giống lợn móng cái, đầu lợn Táp Ná to vừa phải,
bụng tuy to nhưng không bị xệ, lông và da đều đen, ngoại trừ sáu điểm trắng
ở giữa trán, 4 cẳng chân và chóp đi. Lợn Táp Ná thuộc giống ăn tạp, dễ
ni vì chúng đã thích nghi với cuộc sống qua q trình chọn lọc tự nhiên,
khả năng chống trọi với dịch bệnh tốt, hệ thống chuồng trại đơn giản, tuy
nhiên lại chậm lớn,tỉ lệ sinh rất thấp số con nái sinh sản tốt bình quân đạt 2
lứa/ năm mỗi lứa chỉ đạt khoảng 6- 9 con/ổ, tiêu tốn thưc ăn cao và hiệu quả
nuôi của chúng thấp, dẫn đến đàn lợn nội giống Táp Ná ngày càng giảm
xuống nhanh chóng và có thể đi đến tuyệt chủng (Nguyễn Thị Thủy
Tiên,2013), [35]
Nho Quan là một huyện miền núi phía Tây Bắc của tỉnh Ninh Bình,địa
hình huyện Nho Quan hầu hết là đồi núi phù hợp xây dựng các trang trại chăn
nuôi biệt lập.Tuy nhiên, quy mơ trang trại chăn ni cịn nhỏ lẻ, manh mún,
vốn đầu tư hạn hẹp, trang thiết bị, chuồng trại, thức ăn, con giống chưa đồng
bộ dẫn đến năng suất cịn thấp, xử lý mơi trường cịn hạn chế, phịng trừ dịch
bệnh khó khăn, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế.
Cùng với đó là sự bùng nổ về du lịch trên địa bàn trong những năm gần
đây kéo theo nhu cầu lớn về nguồn cung nguyên liệu thực phẩm sạch truyền
thống và thân thiện với môi trường. Giống lợn Táp Ná có chất lượng thịt
thơm ngon là hướng phát triển phù hợp với địa phương.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn trên, nhằm phát triển kinh tế địa
8
9
phương cũng như bảo tồn giống lợn nội, tôi đã tiến hành thực hiện đề
tài:“Đánh giá khả năng sản xuất của lợn Táp Ná ni tại Nho Quan,
Ninh Bình”.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá được khả năng sinh sản, sinh trưởng của lợn Táp Ná nuôi tại
huyện Nho Quan – tỉnh Ninh Bình .
1.3. Mục đích nghiên cứu
- Xác định được khả năng sản xuất của lợn Táp Ná ni tại huyện
Nho Quan – tỉnh Ninh Bình
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của đề tài là những thơng tin khoa học góp phần
nâng cao hiểu biết và làm phong phú thêm những kiến thức về khả năng
sinh sản của lợn Táp Ná.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đánh giá được khả năng sinh trưởng và khả năng sinh sản của giống
lợn táp ná hiện đang ni tại trạm, từ đó là cơ sở để khuyến cáo người dân
nuôi lợn nái lựa chọn được giống lợn phù hợp với điều kiện cụ thể tại mỗi địa
phương.
9
10
PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tổng quan giống lợn Táp Ná
2.1.1. Nguồn gốc, ngoại hình và sự phân bố
Giống lợn Táp Ná có nguồn gốc từ một giống lợn địa phương của vùng
núi Cao Bằng. Do điều kiện địa lý, đồi núi cao hiểm trở, việc thơng thương có
nhiều hạn chế, người dân nuôi lợn ở vùng núi huyện Thông Nông, tỉnh Cao
Bằng chỉ giao dịch mua bán lợn tại chợ Táp Ná. Chính vì vậy, giống lợn nội
Việt Nam này dần dần được nhân dân đặt tên là giống lợn Táp Ná.
Táp Ná là một giống lợn nội của Việt Nam, được hình thành từ lâu đời
chủ yếu ở huyện Thông Nông, tỉnh Cao Bằng. Giống lợn Táp Ná thuộc lớp
động vật có vú (Maminalia), thuộc bộ guốc chẵn (Artiodactyla), thuộc họ
Sllidae, thuộc chủng Sus và thuộc loài Sus domesticus.
Lý do giống lợn Táp Ná đến nay vẫn giữ được độ thuần chủng nhất
định là vì chúng được nuôi tại một vùng núi cao, nơi mà nền kinh tế cịn kém
phát triển, điều kiện địa lý xa xơi, núi non hiểm trở và đặc biệt hệ thống giao
thông chưa phát triển nên việc pha tạp với các giống lợn nhập ngoại và lợn
nội khác của vùng đồng bằng hầu như khơng thể thực hiện được. Vì vậy,
giống lợn Táp Ná vẫn giữ được mức độ cao về thuần chủng, chưa bị lai tạp
nhiều với các giống lợn nội và ngoại khác, song bị cận huyết khá cao.
Lý do giống lợn Táp Ná vẫn chưa bị tuyệt chủng, còn tồn tại được đến
nay là vì chúng rất dễ ni: Phàm ăn, ăn khoẻ, ăn bất cứ loại thức ăn nào kể
cả loại thức ăn mà hầu như khơng có chất dinh dưỡng. Khả năng chống chịu
bệnh tật rất tốt: Hầu như không bị bệnh kể cả nuôi trong điều kiện chăn nuôi
lạc hậu, mất vệ sinh. Chất lượng thịt thơm ngon, đã thực sự trở thành thịt lợn
đặc sản nên giá bán đắt, dẫn đến hiệu quả cao. Với những ưu điểm đó, giống
lợn Táp Ná vẫn là nguồn cung cấp thịt lợn chủ yếu cho vùng núi cao hiểm trở
này nên lợn Táp Ná vẫn được duy trì nuôi và chưa bị tuyệt chủng.
10
11
Theo wikipedia ngoại hình của giống lợn Táp Ná có nhiều nét tương tự
như giống lợn Móng Cái nhưng có sự khác biệt rõ rệt. Lợn Táp Ná có màu sắc
lông da rất đặc trưng là Lông và da đều đen, ngoại trừ 6 điểm trắng giữa trán,
4 cẳng chân và chóp đi, đặc biệt bụng của lợn Táp Ná có màu đen và khơng
có dải n ngựa màu trắng bắt qua vai như giống lợn, lợn Táp Ná có những
điểm ngoại hình khác với các giống lợn nội khác khá rõ nét
Một số đặc điểm ngoại hình nổi bật của lợn Táp Ná:
- Đầu to vừa phải;
- Tai hơi rủ cúp xuống;
- Bụng to nhưng không to bằng lợn Móng Cái, khơng bị xệ và võng xuống;
- Chân to, cao và chắc khỏe;
- Lưng tương đối thẳng;
- Mặt thẳng, khơng nhăn nheo;
- Lợn cái thường có từ 8 đến 12 vú (phổ biến nhất là 10 vú)
- Tốc độ lớn chậm, nhưng thịt có mùi vị thơm ngon.
Nhìn chung lợn Táp Ná có tầm vóc nhỏ và khối lượng thấp nên chúng
thường được nuôi kéo dài đến 10 tháng tuổi mới giết thịt.
2.1.2. Khả năng sinh trưởng của lợn
2.1.2.1 Đặc điểm sinh trưởng phát dục của lợn
- Sinh trưởng là quá trình tự nhiên của sinh vật, sự tăng lên về kích
thước, khối lượng, thể tích của từng bộ phận hay của toàn cơ thể con vật trong
giai đoạn cịn non cho đến thành thục về thể vóc.
- Các giai đoạn sinh trưởng và phát dục của lợn: Quá trình sinh trưởng
phát dục của gia súc nói chung cũng như ở lợn nói riêng đều tuân theo các
quy luật:
+ Quy luật sinh trưởng và phát dục không đồng đều. Quy luật này thể
hiện ở chỗ cường độ sinh trưởng và tốc độ tăng trọng thay đổi theo tuổi.
+ Quy luật sinh trưởng và phát dục theo giai đoạn, quy luật này được
11
12
chia ra làm 2 giai đoạn đó là giai đoạn trong thai và giai đoạn ngoài thai.
Giai đoạn trong thai gồm: Thời kỳ phôi thai từ 1 - 22 ngày, thời kỳ tiền
phôi thai từ 23 - 38 ngày, thời kỳ thai nhi từ 39 - 114 ngày.
Giai đoạn ngoài cơ thể mẹ gồm: Thời kỳ bú sữa, thời kỳ thành thục, thời
kỳ trưởng thành, thời kỳ già cỗi. Trên cơ sở nắm vững những đặc điểm và quy
luật sinh trưởng, phát dục của gia súc, có thể trong một mức độ nào đó chúng ta
tạo điều kiện cho con vật phát triển tốt ngay lúc đó cịn là bào thai, nâng cao sức
sản xuất và phẩm chất giống sau này.
2.1.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng tăng trọng của lợn thịt
- Ảnh hưởng của giống và các chỉ tiêu theo dõi:
Các giống khác nhau có q trình sinh trưởng khác nhau, tiềm năng di
truyền của quá trình sinh trưởng của các gia súc được thể hiện thông qua hệ
số di truyền. Hệ số di truyền đối với tính trạng khối lượng sơ sinh và sinh
trưởng trong thời gian bú sữa dao động từ 0,05- 0,21, hệ số di truyền này thấp
hơn so với hệ số di truyền của tính trạng này trong thời kỳ vỗ béo. Tăng khối
lượng và tiêu tốn thức ăn có mối tương quan di truyền nghịch và khá chặt chẽ
đã được nhiều tác giả nghiên cứu kết luận, đó là: - 0,51 đến - 0,56 (Nguyễn
Văn Đức và cs, 2001) [13]; - 0,715 (Nguyễn Quế Côi và cs, 1996), [2].
Hệ số di truyền về tiêu tốn thức ăn ở mức trung bình. Đối với các chỉ tiêu
giết thịt như tỷ lệ móc hàm, chiều dài thân thịt, tỷ lệ nạc, độ dày mỡ lưng,
diện tích cơ thăn có hệ số di truyền cao (h 2 = 0,3 - 0,35) (Sellier, 1998) [51].
Đối với độ dày mỡ lưng, hệ số di truyền dao động ở mức độ trung bình
đến cao, từ 0,3 - 0,7, nên việc chọn lọc cải thiện tính trạng này có nhiều thuận
lợi. Theo nghiên cứu của tác giả Mc. Kay (1990), [47] cho rằng việc chọn lọc
nhằm tăng khả năng tăng khối lượng và giảm dày mỡ lưng không làm ảnh
hưởng đến chỉ tiêu số con sơ sinh trên ổ. Hovenier và cs (1992) [45], khi nghiên
cứu theo dõi trên lợn Duroc và Yorkshire cho biết hệ số di truyền về tỷ lệ nạc là
0,63. Đối với các chỉ tiêu thân thịt thì hệ số di truyền của tỷ lệ móc hàm là thấp
12
13
nhất (h2 = 0,3 - 0,35) và chiều dài thân thịt là cao nhất (h2 = 0,56 - 0,57).
Các chỉ tiêu về chất lượng thịt như tỷ lệ mất nước, màu sắc thịt, cấu trúc
cơ, thành phần hoá học của cơ, pH 45 phút, pH 24 giờ sau khi giết thịt có hệ
số di truyền từ 0,1 - 0,3, (Sellier, 1998), [51]. Bên cạnh hệ số di truyền cịn có
một mối tương quan giữa các tính trạng. Tương quan di truyền giữa một số
cặp tính trạng là thuận và chặt chẽ như tăng trọng và thu nhận thức ăn (r =
0,65) (Cluttera và Brascamp, 1998) [43], tỷ lệ nạc với diện tích cơ thăn (r =
0,65). Bên cạnh đó là các tương quan nghịch và chặt như tỷ lệ nạc với độ dày
mỡ lưng (r = - 0,87), tỷ lệ mất nước với pH 24 giờ (r = - 0,71) và với khả
năng giữ nước (r = - 0,94) (Sellier, 1998) [51]. Ngồi ra, hàng loạt các thơng
báo của nhiều nhà khoa học đã xác nhận các chỉ tiêu thân thịt như tỷ lệ móc
hàm, tỷ lệ nạc, độ dày mỡ lưng, chiều dài thân thịt và diện tích cơ thăn ở các
giống khác nhau là khác nhau. Chẳng hạn như ở lợn Landrace có chiều dài
thân thịt dài hơn so với ở lợn Large White là 1,5 cm; ngược lại, tỷ lệ móc hàm
ở Large White lại cao hơn so với Landrace (Hammell và cs, 1993) [44]. Về
phương diện sinh trưởng và cho thịt ở lợn, mối quan tâm chủ yếu tới nhân tố
di truyền chính là việc tạo ra ưu thế lai. Chính vì vậy mà hầu hết đàn lợn
thương phẩm ở các nước là lợn lai. Con lai có ưu thế lai cao hơn bố mẹ về
tăng trọng 10% (Sellier, 1998) [51].
- Ảnh hưởng của tuổi và khối lượng giết mổ: Khả năng sản xuất và chất
lượng thịt cũng phụ thuộc vào tuổi và khối lượng lúc giết thịt. Giết thịt ở độ
tuổi lớn hơn thì chất lượng thịt sẽ tốt hơn do sự tăng lên của các mô ở giai
đoạn cuối của thời kỳ trưởng thành. Song khơng nên giết thịt ở tuổi q cao vì
lợn sau 6 tháng tuổi khả năng tích lũy mỡ lớn, dẫn đến tỷ lệ nạc sẽ thấp và
hiệu quả kinh tế kém. Chất lượng thịt lợn cũng thay đổi theo tuổi giết thịt là
do thành phần cơ thể phát triển khác nhau ở từng giai đoạn. Mô cơ phát triển
rất mạnh ngay từ khi còn nhỏ nhưng tốc độ giảm dần, cịn mơ mỡ tốc độ tích
lũy ngày càng tăng. Tính từ khi sinh ra đến 7 tháng tuổi khối lượng lợn tăng
13
14
khoảng 100 lần, trong đó mơ xương chỉ tăng khoảng 30 lần, mơ cơ tăng 81
lần cịn mơ mỡ tăng tới 675 lần (Perez, Desmoulin, 1975) [50].
- Ảnh hưởng của cơ sở chăn nuôi và chuồng trại: Cơ sở chăn nuôi và
chuồng trại cũng ảnh hưởng đến khả năng sản xuất và chất lượng thịt. Cơ sở
chăn nuôi biểu thị tổng hợp chế độ quản lý, chăm sóc ni dưỡng đàn
lợn.Thơng thường, lợn bị ni chật hẹp thì khả năng tăng khối lượng thấp hơn
lợn được nuôi trong điều kiện chuồng trại rộng rãi. Nghiên cứu của Nielsen và
cs (1995) [48] cho thấy lợn ni đàn thì ăn nhanh hơn, lượng thức ăn trong
một bữa được nhiều hơn nhưng số bữa ăn trong ngày lại giảm và lượng thức
ăn thu nhận hàng ngày lại ít hơn so với lợn ni nhốt riêng từng ơ chuồng.
Các tác nhân stress có ảnh hưởng xấu đến quá trình trao đổi chất và sức sản
xuất của lợn, đó là điều kiện tiểu khí hậu chuồng nuôi, khẩu phần ăn không
đảm bảo, chế độ nuôi dưỡng, chăm sóc kém, vận chuyển, phân đàn, tiêm
chủng, điều trị, thay đổi khẩu phần... (Wood, 1986) [55].
- Ảnh hưởng của dinh dưỡng: Dinh dưỡng là một trong những nhân tố
quan trọng nhất trong các nhân tố ngoại cảnh, ảnh hưởng trực tiếp đến khả
năng sinh trưởng và cho thịt ở lợn. Thức ăn và giá trị dinh dưỡng là các nhân
tố ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất và chất lượng thịt của con vật (Từ
Quang Hiển và cs, 2001) [18]. Ngồi ra, phương thức ni dưỡng cũng có ảnh
hưởng đến khả năng sản xuất của con vật. Khi cho lợn ăn khẩu phần ăn tự do,
khả năng tăng khối lượng nhanh hơn, tiêu tốn thức ăn thấp hơn nhưng dày mỡ
lưng lại cao hơn (Nguyễn Nghi và cs, 1995) [25] khi lợn được ăn khẩu phần
ăn hạn chế. Lợn cho ăn khẩu phần thức ăn hạn chế có tỷ lệ nạc cao hơn lợn
cho ăn khẩu phần thức ăn tự do (Thomke và cs, 1995) [54].
- Ảnh hưởng của mùa vụ: Có nhiều tác giả nghiên cứu về năm và mùa vụ
trong chăn nuôi cho biết chúng gây ảnh hưởng đến khả năng tăng trọng của
lợn. Pathiraja và cs (1990) [49] cho biết sự khác nhau giữa năm và mùa ảnh
hưởng đến tăng khối lượng và dày mỡ lưng là rõ rệt. Khi nghiên cứu về sự ảnh
14
15
hưởng của nhiệt độ đến khả năng tăng khối lượng của lợn. Thomas (1984) [53]
cho biết nếu nuôi lợn từ 20 kg đến 90 kg ở nhiệt độ từ 8ºC đến 22ºC thì khả
năng tăng khối lượng tăng và nhu cầu về thức ăn cũng tăng lên. Nguyễn Văn
Đức (2000) [11], Trần Thị Minh Hoàng và cs (2003) [21] cũng cho biết tăng
khối lượng chịu ảnh hưởng lớn của yếu tố mùa vụ và năm thí nghiệm.
2.1.3. Khả năng sinh sản và các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng sinh sản
của lợn nái
2.1.3.1. Đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái
* Sự thành thục về tính dục:
Sự thành thục về tính dục được tính từ lần động dục đầu tiên khi gia súc
có biểu hiện động dục, buồng trứng có trứng rụng. Khi đến tuổi thành thục về
tính, cơ thể có những biến đổi đặc trưng, đặc biệt cơ quan sinh dục phát triển
sinh ra các giao tử hoạt động, có khả năng kết hợp với giao tử đực để sinhra
đời sau. Đồng thời với những biến đổi bên trong là những thay đổi biểu hiện
ra hành vi bên ngồi một cách có quy luật, nó đặc trưng cho từng gia súc.
Sự thành thục về tính dục có ý nghĩa rất lớn, là điều kiện để gia súc
chuẩn bị thực hiện bản năng sinh sản.
Tuổi thành thục về tính ở gia súc bị chi phối bởi rất nhiều yếu tố, cụ thể:
- Chế độ dinh dưỡng: Gia súc được nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn
đầy đủ, giá trị dinh dưỡng cao sẽ sớm thành thục hơn so với gia súc được
nuôi dưỡng với khẩu phần thức ăn không đầy đủ, giá trị dinh dưỡng thấp.
- Thời tiết khí hậu: Gia súc ở vùng nhiệt đới sớm thành thục hơn gia súc
ở vùng ôn đới.
- Giống: Hầu hết các giống nội thành thục sớm hơn các giống nhập
ngoại, giống có tầm vóc nhỏ thường thành thục sớm hơn giống có tầm vóc lớn.
Theo Nguyễn Tấn Anh (1998) [1], q trình thành thục tính dục ở gia
súc chia làm 3 giai đoạn chính:
15
16
- Giai đoạn con vật mới sinh: Con vật mới chỉ có những biến đổi bên
trong để cải thiện sự chuyển hóa, động thái các yếu tố FRF ở vùng dưới đồi
(Hypothalamus) khiến một lượng nhỏ FSH của tuyến yên được chế tiết.
Thơng qua cơ chế điều hịa ngược vịng ngắn dương tính, FSH kích thích
hypothalamus tăng tiết yếu tố giải phóng hocmon FRF.
- Giai đoạn tiền thành thục: Ứng với thời thơ ấu của con vật, nó chia
thành 3 thời kỳ kế tiếp nhau.
+ Thời kỳ đầu tiền thành thục: Cơ thể gia súc có những biến đổi bên
trong của hệ nội tiết với các yếu tố ức chế ở Hypothalamus. Song song với
vịng ngược ngắn dương tính của FSH cịn có vịng ngược dài dương tính của
oestrogen. Ưu thế của vịng ngược dài âm tính mạnh hơn, kích thích vùng dưới
đồi hoạt động do đó gây ức chế tiết FRF và LRF.
+ Thời kỳ giữa tiền thành thục: Vịng điều hịa ngược dài âm tính của
estrogen khơng cịn chiếm ưu thế, không ức chế vùng dưới đồi tiết FRF và
LRF thay vào đó vịng điều hịa ngược dương tính của estrogen được hình
thành kích thích phân tiết gonadotrophin với hàm lượng tăng dần, chuẩn bị
cho sự thành thục tính dục.
+ Thời kỳ cuối tiền thành thục: là thời kỳ con vật đạt tới sự chín muồi
sinh dục, hay nói cách khác con vật đã thành thục tính dục. Dưới tác dụng của
vịng điều hịa ngược dương tính của estrogen, trung khu sinh dục vùng dưới
đồi được kích thích tiết ra các yếu tố FRF và LRF. Sự tiết các yếu tố giải
phóng này mang tính chu kỳ.
+ Giai đoạn rụng trứng: Là giai đoạn nỗn bao chín và rụng ra khỏi
buồng trứng. Đặc trưng của giai đoạn này sự suất hiện sóng LH dưới tác dụng
kích thích mạnh mẽ của vịng điều hịa ngược dương tính của estrogen gây
phóng thích ồ ạt LH. Sự suất hiện của sóng LH tương ứng với quá trình rụng trứng.
* Tuổi động dục lần đầu:
16
17
Là thời gian từ sơ sinh cho đến khi lợn cái hậu bị có biểu hiện động dục
lần đầu tiên. Tuỳ theo giống, tuổi động dục lần đầu tiên có sự khác nhau. Lợn
nội tuổi động dục lần đầu sớm hơn lợn ngoại, ở lợn cái lai tuổi động lần đầu
muộn hơn so với lợn cái nội thuần. Hiện tượng lợn cái khơng động dục có thể
do nhiều ngun nhân như: stress do thời tiết nóng, ốm đau, dinh dưỡng thiếu
protein hoặc năng lượng (Dwane R.Zimmerman và CS, 1996), [41].
* Chu kỳ động dục của lợn nái và động dục trở lại sau đẻ:
Một đặc trưng của gia súc khi đến tuổi thành thục về tính là ở buồng
trứng có trứng chín và rụng. Hiện tượng trứng chín và rụng xảy ra theo một
trình tự thời gian nhất định kèm theo những biểu hiện bên ngồi cơ thể thay
đổi có tính quy luật từ khi con gia súc đến tuổi thành thục về tính cho đến khi
hết khả năng sinh sản gọi là chu kỳ động dục.
Chu kỳ động dục thường bắt đầu xảy ra ở độ tuổi 6 - 9 tháng tuổi với lợn
ngoại, 4 - 5 tháng tuổi với lợn nội. Đối với lợn lai khi 15 tuần tuổi ở buồng
trứng mới suất hiện các nang trứng đầu tiên, ở giai đoạn hậu bị trung bình
rụng từ 8 - 14 trứng và số lượng đạt cao nhất ở giai đoạn lợn nái cơ bản là 12
- 20 trứng. Số lượng trứng rụng còn phụ thuộc vào giống, tuổi và cá thể.
Chu kỳ động dục khác nhau tùy từng lồi gia súc, nhưng nhìn chung mỗi
chu kỳ động dục thường chia thành 4 giai đoạn bao gồm:
+ Giai đoạn trước động dục (proestrus): Là khoảng thời gian kể từ khi
thể vàng của chu kỳ trước tiêu biến đi đến khi gia súc bắt đầu suất hiện động
dục ở chu kỳ kế tiếp sau. Đây thực chất là giai đoạn phát triển của bao noãn.
Khi thể vàng tiêu biến đi, nồng độ progesteronne trong máu giảm nhanh, nó
thơi khơng ức chế tuyến yên nữa do đó tuyến yên bắt đầu tăng tiết FSH,
hocmone này kích thích bao nỗn phát triển, tăng lên về khối lượng, kích
thước và nổi lên trên bề mặt buồng trứng. Sự tăng tiết FSH của tuyến n
kích thích buồng trứng tiết estrogen, hình thành các đặc tính sinh dục thứ cấp.
Đặc điểm chung của lợn cái bắt đầu động dục là thay đổi tính nết.
17
18
Thường kêu rít, kém ăn hoặc bỏ ăn, phá máng, có dáng băn khoăn, nhảy lên
lưng con khác, khơng cho con khác nhảy. Âm hộ sưng, xung huyết, đỏ, hơi
phù, bóng ướt, dịch nhầy chảy ra. Ở giai đoạn này khơng nên cho lợn phối
ngay vì sự thụ thai chỉ thể hiện sau khi có các hiện tượng trên từ 35 - 40 giờ
đối với lợn ngoại và 25 - 30 giờ đối với lợn nội.
+ Giai đoạn động dục (estrus): Giai đoạn này bao gồm 3 thời kỳ liên tiếp
là: Hưng phấn, chịu đực và hết chịu đực. Thời gian kéo dài động dục khác nhau
tùy từng loài gia súc.
Một đặc trưng cơ bản trong giai đoạn này đối với tất cả loài gia súc là sự
rụng trứng trong đường sinh dục của con cái và hành vi chịu đực của gia súc
cái biểu hiện ra bên ngoài.
Nếu trứng được thụ tinh thì gia súc chuyển sang thời kỳ chửa, nếu trứng
không được thụ tinh gia súc chuyển sang giai đoạn sau động dục.
Giai đoạn này còn được gọi là giai đoạn mê ì, khi sờ lên lưng lợn đứng
n, đi cong lên, hai chân chỗi rộng ra, lưng võng xuống, có hiện tượng
đái són, âm hộ chuyển màu sẫm hoặc màu mận chín đồng thời cho con khác
nhảy lên lưng.
+ Giai đoạn sau động dục (metestrus): Giai đoạn này được tính từ khi
con gia súc kết thúc động dục và thường kéo dài trong vài ngày. Đặc trưng
của giai đoạn này là sự hình thành thể vàng tại vị trí rụng trứng. Thể vàng tiết
progesterone ức chế trung khu sinh dục vùng dưới đồi từ đó ức chế tuyến yên,
làm giảm tiết estrogen dẫn tới giảm hưng phấn sinh dục. Con vật dần trở lại
trạng thái bình thường, khơng cịn biểu hiện địi hỏi sinh dục nữa.
+ Giai đoạn yên tĩnh (diestrus): Thường bắt đầu từ ngày thứ tư sau khi
trứng rụng, khi thể vàng bắt đầu hoạt động mạnh. Đây là giai đoạn kéo dài
nhất. Đối với gia súc khơng có thai, giai đoạn này sẽ kết thúc khi thể vàng
tiêu biến. Ở giai đoạn này các dấu hiệu động dục giảm dần, lợn trở lại bình
thường, ăn uống như cũ. Âm hộ giảm bớt độ mở, se nhỏ, thâm, niêm dịch
18
19
chảy ra ít, trắng đục và rất dễ đứt.
Chu kỳ sinh dục phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Giống, tuổi phối giống
lần đầu, chăm sóc ni dưỡng, mùa vụ, trạng thái sinh lý của con gia súc.
Trong đó trạng thái sinh lý là một trong những yếu tố hết sức quan trọng
quyết định đến chu kỳ sinh dục, kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến năng
suất sinh sản của vật nuôi.
Chu kỳ động dục của lợn nái thường kéo dài 18 - 21 ngày, nếu chưa phối
giống hoặc phối giống chưa có chửa thì chu kỳ sau sẽ được nhắc lại.
- Sau cai sữa 3 - 5 ngày (lúc lợn con 45 - 50 ngày tuổi) lợn nái động dục
trở lại. Cho phối lúc này lợn sẽ thụ thai, trứng rụng nhiều đạt số lượng con
cao, đối với lợn sau cai sữa từ 3 - 7 ngày thường động dục trở lại, (Hội Chăn
nuôi Việt Nam, (2006), [22]). Trong chăn ni cơng nghiệp có thể gây động
dục đồng loạt bằng cách cai sữa đồng thời ở một nhóm lợn mẹ, (John R.
Diehl và CS, (1996), [42]).
Nếu lợn được phối giống ngay lần động dục sau cai sữa, chúng thường
dễ thụ thai, trứng rụng nhiều và có số con đơng. Cần có biện pháp để tránh sự
hao mịn của cơ thể mẹ sau khi đẻ. Mức độ hao mòn không cho phép vượt
quá 20%, không ép phối nếu lợn nái sau khi cai sữa con mà cơ thể hao mòn,
gầy sút nhiều. Cần bỏ qua một chu kỳ động dục để lợn nái lại sức và nuôi
được lâu bền hơn.
Để lợn nái đạt tỷ lệ thụ tinh cao, số con đẻ ra nhiều, cần phối giống đúng
thời điểm vì thời gian trứng rụng và có hiệu quả thụ thai rất ngắn.
Trong khi đó thời gian sống của tinh trùng trong tử cung khoảng 45 - 48
giờ. Thời gian động dục của lợn nái nội kéo dài 3 - 4 ngày, lợn nái lai, nái
ngoại 4 - 5 ngày. Do vậy thời điểm phối giống tốt nhất là giai đoạn giữa chịu
đực: Nái lai và nái ngoại cho phối vào cuối ngày thứ 3 và sáng ngày thứ 4,
lợn nái nội cho phối vào cuối ngày thứ 2 và sáng ngày thứ 3, nếu tính từ lúc
bắt đầu động dục.
19
20
* Tuổi và khối lượng phối giống lần đầu:
Để có thể giao phối lần đầu đạt kết quả cao, lợn cái hậu bị phải thành
thục về tính dục và cơ thể phải phát triển đến một mức độ nhất định.
Nếu cho lợn cái hậu bị phối giống khi đã thành thục về tính và có tầm
vóc đạt u cầu thì sẽ nâng cao được khả năng sinh sản của lợn nái ở ngay từ
lứa 1 và các lứa sau đó, còn nếu cho lợn cái hậu bị phối giống quá sớm hoặc
q muộn đều khơng có lợi. Nếu cho phối giống q sớm thì số lượng trứng
rụng ít, khối lượng lượng cơ thể lợn mẹ nhỏ dẫn đến khối lượng sơ sinh trung
bình/con thấp, lợn mẹ có đường sinh dục hẹp nên q trình sinh đẻ gặp nhiều
khó khăn ảnh hưởng đến sức khoẻ của lợn mẹ sau này và dẫn đến phải loại
thải sớm.
Nếu cho phối giống quá muộn ta sẽ phải nuôi lợn không sản suất được
trong suốt thời gian dài gây tổn thất kinh tế, ảnh hưởng xấu đến hưng phấn
sinh dục của lợn cái sau này, cụ thể là hiện tượng động dục không rõ ràng, tỷ lệ
thụ thai thấp hoặc không thụ thai.
Thông thường ở lần động dục lần đầu tiên người ta chưa phối giống, vì ở
thời điểm này thể vóc chưa phát triển hồn chỉnh, số trứng rụng cịn ít.
Người ta thường cho phối giống vào lần động dục thứ hai hoặc ba. Trong
chăn nuôi lợn các hậu bị phải đảm bảo 3 yếu tố cần và đủ đó là: khơng được
phối giống cho lợn nái trước 7 tháng tuổi, chỉ phối giống cho lợn nái khi khối
lượng cơ thể đạt đối với lợn nái lai từ 65 - 70 kg, đối với lợn nái ngoại từ 110
- 120kg và chỉ phối giống cho lợn nái hậu bị khi động dục ở chu kỳ thứ 2
hoặc thứ 3 trở đi (Trần Văn Phùng và cs, 2004)[28].
Như vậy tuổi phối giống lần đầu của lợn cái hậu bị là một vấn đề cần
được quan tâm và phối giống cho đúng thời điểm khi lợn đã thành thục về
tính, có tầm vóc và sức khoẻ đạt yêu cầu sẽ nâng cao được khả năng sinh sản
của lợn nái cũng như nâng cao được phẩm chất đời sau.
* Tuổi đẻ lứa đầu:
20
21
Sau khi phối giống, lợn có chửa 114 ngày (112 - 116 ngày), cộng thêm
số ngày mang thai này lợn sẽ có tuổi đẻ lứa đầu. Lợn nái nội (Ỉ, Móng Cái)
trong sản suất, tuổi đẻ lứa đầu thường 11- 12 tháng. Lợn nái lai và lợn nái
ngoại nên cho đẻ lứa đầu lúc 12 - 13 tháng tuổi, theo nghiên cứu của tác giả
Phạm Hữu Doanh và cs, (1996) [10].
2.1.3.2. Khả năng sinh sản
Sinh sản là chức năng vô cùng quan trọng của cơ thể sống, duy trì và cải tạo
phát triển nòi giống. Lợn sinh sản theo phương thức hữu tính, tức là sự kết
hợp giữa cá thể đực và cá thể cái. Ưu thế của hình thức sinh sản này là khả
năng tái tổ hợp các tính trạng di truyền tốt về khả năng sản xuất và thể trạng
của cả bố lẫn mẹ, các thế hệ con cái có sức sản suất và sức sống cao hơn bố
mẹ. Trên cơ sở nghiên cứu về đặc điểm sinh lý sinh sản người ta cho hàng
loạt tiến bộ mới được ứng dụng vào thực tiễn sản xuất như sử dụng hormon
hướng sinh dục để gây động dục hàng loạt, kỹ thật cấy ghép hợp tử, kỹ thật
nhân bản… Đã mở ra cho ngành cơng nghệ sinh học nói chung và ngành chăn
ni nói riêng những bước phát triển mới hứa hẹn nhiều trong tương lai.
Có nhiều chỉ tiêu sinh sản là những chỉ tiêu dùng để đánh giá năng suất
sinh sản của lợn nái. Đây là những chỉ tiêu quan trọng trong công tác đánh giá
chất lượng của phẩm giống. Khả năng sinh sản của lợn nái được đánh giá
thông qua các chỉ tiêu về chất lượng và số lượng ở đàn lợn con.
Chỉ tiêu số lượng: số con sơ sinh sống đến 24h/lứa đẻ, số con đẻ ra/lứa,
số lứa đẻ/nái/ năm, tỷ lệ nuôi sống, khối lượng sơ sinh, khối lượng cai sữa
toàn đàn …
Khả năng sinh sản cũng liên quan đến sự thành thục sớm hay muộn,
thời gian mang thai, số lần thụ tinh… Tuy nhiên chỉ tiêu số lợn con cai sữa/
nái/năm là chỉ tiêu quan trọng, tổng quát để đánh giá năng suất sinh sản của
lợn nái. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào thời gian cai sữa lợn con và số lượng lợn
con cai sữa trong mỗi lứa đẻ. Nếu cai sữa sớm sẽ tăng số lứa đẻ/nái/năm, số
21
22
lượng lợn con cai sữa/nái/năm sẽ cao và ngược lại. Ngồi ra khả năng sinh
sản cịn được đánh giá bởi số lượng lợn con cai sữa/lứa/năm, số lứa đẻ, thời
gian chờ phối…
Hiệu quả chăn nuôi lợn nái sinh sản được đánh giá bằng số lợn con cai
sữa/nái/năm. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tuổi thành thục về tính, tỷ lệ thụ thai,
tổng số lợn con đẻ ra, số lứa đẻ trong năm và tỷ lệ nuôi sống của lợn con theo
mẹ. Chính vì vậy việc cải tiến để nâng cao số lượng lợn con con cai sữa là
một trong những biện pháp nhằm làm tăng hiệu quả kinh tế trong ngành sản
suất lợn con. Bên cạnh đó làm giảm khoảng cách giữa 2 lứa đẻ bằng cách thu
ngắn thời gian lợn con theo mẹ và làm giảm thời gian phối giống có chửa sau
cai sữa.
2.1.3.3.Khả năng tiết sữa và ni con
Là một chỉ tiêu quan trọng khi đánh giá sức sản xuất của lợn nái, vì nó ảnh
hưởng đến tỷ lệ nuôi sống cũng như khối lượng cai sữa của lợn con sau này. Do
đó cần chú ý chọn những nái có năng suất sữa cao, và áp dụng các biện pháp kĩ
thuật về chăm sóc, ni dưỡng để nâng cao khả năng tiết sữa của chúng.
Khi đánh giá khả năng tiết sữa của lợn nái do đặc điểm cấu tạo giải phẫu
của bầu vú lợn mẹ khơng có bể sữa cho nên rất khó xác định chính xác lượng
sữa sản xuất ra của lợn nái. Có thể áp dụng một số phương pháp để đánh giá sản
lượng sữa của lợn nái như căn cứ vào trình trạng sức khỏe của lợn con, cân khối
lượng của lợn con trước và sau khi bú sữa mẹ, cân khối lượng lợn mẹ trước và
sau khi cho bú… Tuy nhiên các phương pháp này đều ít nhiều ảnh hưởng đến
lợn con và lợn mẹ, không phù hợp với thực tiễn sản xuất.
Quy luật tiết sữa của lợn mẹ có đặc điểm là năng suất sữa tăng dần từ
lúc mới đẻ và đạt sản lượng cao nhất lúc 21 ngày tuổi, sau đó giảm dần. Căn
cứ vào đặc điểm này, trong thực tiễn sản xuất người ta lấy khối lượng lợn con
toàn ổ lúc 21 ngày tuổi để đánh giá khả năng tiết sữa của lợn mẹ.
Sản lượng sữa của lợn mẹ phụ thuộc nhiều vào yếu tố như giống, cá
22
23
thể, thức ăn, chăm sóc ni dưỡng,… Để nâng cao sản lượng sữa của lợn mẹ
chúng ta cần phải căn cứ vào ảnh hưởng của từng yếu tố để xác định các biện
pháp thích hợp (Trần Văn Phùng và cs, 2004), [28]
2.2. Tình hình nghiên cứu trong và ngồi nước
2.2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Chăn ni lợn là một trong những ngành quan trọng trong sản xuất
nông nghiệp. Ở các nước tiên tiến, tỷ trọng ngành chăn nuôi chiếm 50% tỷ
trọng ngành nông nghiệp. Sản phẩm thịt lợn là nguồn cung cấp thịt lớn nhất
hiện nay trên thế giới. So với các loại thịt khác, thịt lợn vẫn chiếm vị trí hàng
đầu ở hầu hết các nước trên thế giới (trừ một số nước do ảnh hưởng của đạo
giáo hoặc điều kiện phát triển chăn nuôi khác phát triển hơn). Nhu cầu tiêu
thụ thịt lợn ngày càng cao không chỉ về số lượng mà cả chất lượng. Nước có
mức tiêu thụ thịt lợn bình qn trên đầu người trong năm thấp nhất là Ấn Độ
(do ảnh hưởng của tơn giáo) chỉ có 0,5 kg/người, trong khi đó nước có mức
tiêu thụ thịt lợn cao nhất đạt 66,2 kg/người/năm là Đan Mạch và 50,9
kg/người /năm là Ba Lan. Bình quân ở 26 nước tiêu thụ thịt nhiều trên thế
giới, thịt lợn vẫn chiếm tỷ lệ cao nhất 24,3 kg/người /năm. Mức tiêu thụ thịt
bò 19,12 kg/người /năm và thịt gà 12 kg/người /năm. Rõ ràng nhu cầu thịt lợn
vẫn là nhu cầu lớn nhất hiện nay trên thế giới.
Trong các năm qua ngành chăn nuôi lợn ở các nước trên thế giới tăng lên
đáng kể. Số đầu lợn của năm 1999 là 957.469 nghìn con. Trong đó số đầu lợn
khơng đồng đều giữa các Châu lục, Châu Á có số đầu lợn cao nhất: 577.025
nghìn con, Châu Âu 199.254 nghìn con, Bắc và Trung Mỹ 94.070 nghìn con.
Nam Mỹ (Mỹ la tinh) 59.075 nghìn con, Châu Phi 22.398 nghìn con và ít nhất
là Châu Đại Dương 5.016 nghìn con (Trần Văn Phùng và cs, 2004) [28].
Do điều kiện kinh tế, kỹ thuật của từng vùng có khác nhau, nên phân bố
và phát triển các giống lợn cũng khác nhau. Những nước có nền cơng nghiệp
phát triển, hầu hết lợn của họ là các giống cao sản (Yorkshire, Landrace,
23
24
Duroc, Hampshire, Berkshire, Pietrain…), các nước đang phát triển phổ biến
là các giống lợn địa phương có năng suất thấp, nhất là các vùng Châu Á và
Châu Phi (Lê Thanh Hải và cs, l997) [17].
Theo Soukanh keonouchanh và cs (2011) [52] Lợn Moo Lát ở Lào có tuổi
động dục lần đầu (182 - 198 ngày), khối lượng động dục lần đầu là 21 - 31 kg,
khối lượng phối giống lần đầu là 42 - 48 kg, tuổi phối giống lần đầu lớn hơn 360
ngày, số lứa đẻ/nái/năm là 1,5 lứa và có số con sơ sinh sống/ổ là 7 - 8 con. Thời
gian cai sữa khoảng 3 tháng lợn đạt khối lượng 7,8kg/con. Tác giả này cũng cho
biết rằng, khả năng tăng khối lượng của lợn đực thấp hơn của lợn cái, trung bình
khối lượng cơ thể lợn đực là 20,5 kg với thời gian nuôi 170 - 200 ngày.
Nghiên cứu khả năng sinh sản của một số giống lợn bản địa mexico,
Lemus và cs (2003) [46] cho biết lợn Hairless có số con sinh ra/ổ: 6,36 con,
số con sơ sinh sống/ổ: 6,04 con, khối lượng sơ sinh/ổ : 21,35 kg, khối lượng
sơ sinh/con: 1,01 kg, số con cai sữa/ổ 4,2 con , khối lượng cai sữa/ổ: 4,2 con,
khối lượng cai sữa/ổ: 21,35 kg, khối lượng cai sữa/con : 5,25 kg, tuổi đẻ lứa
đầu 534,64 ngày, thời gian mang thai: 113,38 ngày, thời gian cai sữa: 40,30
ngày, thời gian động dục trở lại: 11,39 ngày, khoảng cách giữa 2 lứa đẻ là
159,60 ngày.
2.2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chăn ni lợn chiếm một vị trí quan trọng cung cấp thực phẩm cho tiêu
thụ trong nước cũng như xuất khẩu. Để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng
cao thì việc nghiên cứu các giống lợn nội có chất lượng thịt có chất lượng thịt
thơm ngon để tìm ra phương án tốt nhất cho chăn nuôi đang ngày càng được
chú trọng.
Nghiên cứu giống lợn bản địa Việt Nam, Tạ Thị Bích Duyên và cs
(2013)[15] cho biết, lợn bản địa có ngoại hình đa dạng, được phân thành 5
nhóm chính gồm: (1) nhóm lợn đen bao gồm lợn đen tồn thân và lợn đen có
vệt trắng ở đầu, 4 chân, chót đi, nhóm này chiếm tỷ lệ cao nhất trong tất cả
24
25
các nhóm (16 giống); (2) nhóm lợn lang lơng đen và laong trắng cố định ở
vùng bụng kéo dài xuống đùi và 4 chân (3 giống); (3) nhóm lợn lang có các
đốm đen trên thân (4 giống); (4) nhóm lợn hung bao gồm lợn có màu hung
nâu tồn thân hoặc hung nhạt (2 giống); (5) nhóm lợn có da và lơng tồn thân
màu trắng (2 giống).
Theo Phan Xn Hảo và cs (2010) [26] thì tuổi động dục lần đầu và tuổi
đẻ lứa đầu của lợn bản tại Điện Biên là khá muộn lần lượt là 336,91 và 451,4
ngày. Tuổi phối giống lần đầu của lợn Lang tại Cao Bằng là 219,90 ngày (Từ
Quang Hiển và cs, 2004) [19]. Một số nghiên cứu khác đối với lợn đen của
các tỉnh phía Bắc, tác giả Nguyễn Mạnh Cường và cs. (2010) [6] công bố tuổi
dục lần đầu là 162,0 ngày. Tác giả Phạm hữu Doanh (1995) [9] cho biết lợn
Móng Cái có tuổi động dục lần đầu là 120,18 ngày, khối lượng động dục lần
đầu là 23,40 kg và tuổi phối giống lần đầu là 186,5 ngày.
Nghiên cứu khả năng sinh sản của giống lợn Kiềng sắt tại Quảng Ngãi
cho thấy tuổi động dục lần đầu trung bình lúc 146,87 ngày , khối lượng cơ thể
khi động dục lần đầu là 9,77 kg/con (Hồ Trung Thông và cs, 2011) [33]. Theo
Trần Văn Do và cs. (2005) [8], lợn Vân Pa có khối lượng cơ thể khi động dục
lần là 15kg. Trong khi đó, các kết quả nghiên cứu của Lê Viết Ly và cs.
(1999) [24], Vũ Đình Huy và cs (1999) [23] cho thấy lợn móng cái có tuổi
động dục lần đầu ở 120,0 ngày tuổi, sớm hơn so với lợn nái Kiềng sắt (146,87
ngày tuổi). Tuy nhiên, khối lượng cơ thể khi động dục lần đầu của lợn móng
cái khá cao 39,54 kg. Như vậy có thể thấy sự sai khác về tuổi động dục lần
đầu và khối lượng cơ thể khi động dục lần đầu giữa các giống lợn bản địa là
rất lớn.
Nhiều nghiên cứu đã được công bố cho thấy, các chỉ tiêu số con sinh
ra/ổ, số con sơ sinh sống/ổ, số con cai sữa/ổ của phần lớn giống lợn bản địa
đạt được thường là thấp (ngoại trừ lợn Móng Cái). Các chỉ tiêu này ở lợn
Kiềng Sắt trung bình của 3 lứa đầu lần lượt là 6,86; 6,56 và 6,56 con (Hồ
25