Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tài liệu Biện pháp hữu hiệu giải quyết nhu cầu vốn doanh nghiệp. docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.87 KB, 3 trang )

Biện pháp hữu hiệu giải quyết nhu cầu vốn doanh
nghiệp. Trần Phương Minh

Kinh doanh luôn xuất hiện nhu cầu về vốn. Doanh nghiệp nào tìm
được biện pháp giải quyết nhu cầu về vốn sẽ có thuận lợi lớn trong
hoạt động kinh doanh của mình. Với đòi hỏi về vốn ngày một tăng
trong nền kinh tế thị trường, tín dụng thương mại ra đời và được
đánh giá là biện pháp hữu hiệu nhất giúp các doanh nghiệp vượt qua
các giai đoạn khó khăn về mặt tài chính.

Tín dụng thương mại là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp.
Được biểu hiện dưới các hình thức mua bán chịu hàng hoá. Tín dụng
thương mại xuất hiện là do sự tách biệt giữa sản xuất và tiêu dùng.
Do đặc tính thời vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khiến các
doanh nghiệp phải mua bán chịu hàng hoá.

Mua bán chịu được coi là hình thức tín dụng và nó chứa đầy đủ nội
dung cơ bản của khái niệm tín dụng là vì:

+ Người bán chuyển giao cho người mua được sử dụng vốn tạm thời
trong một thời hạn nhất định.
+ Đến thời hạn đã được thoả thuận, người mua hoàn lại vốn cho
người bán dưới hình thức tiền tệ và cả phần lãi suất.

Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại:
Cơ sở pháp lý để xác nhận quan hệ nợ nần trong quan hệ tín dụng
thương mại là giấy nợ. Đây là một dạng đặc biệt của khế ước dân sự
xác định trái quyền cho người bán và nghĩa vụ phải thanh toán nợ
của người mua khi món nợ đáo hạn.

Giấy nợ trong quan hệ tín dụng thương mại được gọi là kỳ phiếu


thương mại hay còn gọi là thương phiếu. Trong quan hệ thương mại
đối nội cũng như đối ngoại có hai loại thương phiếu, đó là: hối phiếu
và lệnh phiếu.

Hối phiếu là một loại thương phiếu do chủ nợ lập ra để ra lệnh cho
người thiếu nợ trả một số tiền nhất định cho người hưởng thụ khi
món nợ đáo hạn. Khi tín dụng thương mại phát sinh, người bán giao
hàng cho người mua, đồng thời lập hối phiếu để yêu cầu người mua
trả tiền cho người hưởng thụ.

Người hưởng thụ có thể là người phát hành hối phiếu, hoặc cũng có
thể là người khác. Người này đóng vai trò chủ nợ của người phát
hành hối phiếu, do đó người bán hàng phải chuyển nhượng trái
quyền cho người chủ nợ anh ta hưởng món nợ.

Lệnh phiếu là một thương phiếu do người thiếu nợ lập ra để cam kết
trả một món nợ tiền nhất định khi đến hạn cho chủ nợ hoặc theo lệnh
của chủ nợ.

Sự khác nhau của hối phiếu và lênh phiếu:
+ Hối phiếu do chủ nợ lập, còn lệnh phiếu do người thiếu nợ lập.
+ Hối phiếu thông thường có 3 người quan hệ với nhau:
Người phát hành hối phiếu (người phát lệnh), người trả tiền theo hối
phiếu (người thu lệnh) và người hưởng thụ. Còn lệnh phiếu thường
có 2 người liên hệ: người phát lệnh phiếu và người hưởng thụ.

Về hình thức thì thương phiếu được chia ra làm các loại sau:
+ Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi tên người
hưởng thụ. Ai cầm thương phiếu một cách hợp pháp người đó là
người hưởng thụ.

+Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người hưởng
thụ và người này được quyền chuyển nhượng cho người khác.
+ Thương phiếu định danh: cũng là thương phiếu có ghi tên của
người hưởng thụ nhưng khác với thương phiếu ký danh là không
được chuyển nhượng cho người khác.

Vai trò của tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường hiện tượng thừa thiếu vốn ở các doanh
nghiệp thường xuyên xảy ra, vì vậy hoạt động của tín dụng thương
mại một mặt đáp ứng được nhu cầu vốn của các doanh nghiệp tạm
thời thiếu đồng thời giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng
hoá của mình. Mặt khác sự tồn tại của hình thức tín dụng này giúp
cho các doanh nghiệp khai thác được vốn nhằm đáp ứng kịp thời cho
hoạt động sản xuất kinh doanh.

Mặc dù tín dụng thương mại đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế, nhưng nó không thể thay thế các hình thức tín dụng khác, và nó
có những nhược điểm sau đây:

- Hạn chế về quy mô tín dụng:
Tín dụng thương mại là do các nhà doanh nghiệp cung cấp và họ chỉ
cung cấp với khả năng giới hạn của họ. Nếu người đi vay có nhu cầu
cao hơn thì người cho vay không thể đáp ứng được.
- Hạn chế về thời hạn cho vay:
Điều kiện kinh doanh và chu kỳ sản xuất của một doanh nghiệp có
thể không phù hợp với nhau, vì vậy mà khi thời hạn mà người cho
vay muốn cung cấp và người đi vay có nhu cầu không phù hợp nhau
thì tín dụng này không thể xảy ra. Nhưng nhờ phương pháp cấp tín
dụng của ngân hàng dưới hình thức chiết khấu đã giải quyết được
một phần hạn chế này.

- Hạn chế về phương hướng:
Tín dụng thương mại được cung cấp dưới hình thức hàng hoá, vì vậy
mà doanh nghiệp chỉ cung cấp được tín dụng cho một số doanh
nghiệp nhất định - những doanh nghiệp cần hàng hoá đó để sử dụng
cho sản xuất hoặc dự trữ để bán ra.
Ngoài ra việc cấp tín dụng thương mại chỉ được thực hiện trên cơ sở
tín nhiệm lẫn nhau.

(Tổng hợp)

×