Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

Bảo đảm quyền công dân trong giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất từ thực tiễn toàn án nhân dân huyện bố trạch, tỉnh quảng bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (576.67 KB, 86 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Bảo đảm quyền công dân trong giải quyết
các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất – từ thực tiễn Tòa án nhân
dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” là đề tài nghiên cứu độc lập của
riêng tôi, được viết dựa trên cơ sở tìm hiểu, phân tích và đánh giá các số
liệu tại địa điểm khảo sát và các số liệu là trung thực và chưa được công
bố tại các cơng trình nghiên cứu có nội dung tương đồng nào khác.

Thừa Thiên Huế, ngày tháng 02 năm
2020 Học viên

Đinh Văn Phúc


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin trân trọng cảm ơn Ban giám hiệu Học viện
Hành chính Quốc gia và Ban giám hiệu phân viện tại Thành phố Huế,
cùng tập thể các Giảng viên thuộc Học viện Hành chính Quốc gia,
những người đã trang bị những kiến thức quý báu và thiết thực cho
tơi trong suốt q trình học tập và nghiên cứu tại trường.
Với lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất, tôi xin trân trọng
cảm ơn Giảng viên hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Phượng, người
đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, sát sao và tạo mọi điều kiện thuận
lợi tơi trong suốt q trình nghiên cứu và hồn thiện luận văn này.
Trong thời gian nghiên cứu và thực hiện luận văn, tôi đã nhận được
sự giúp đỡ nhiệt tình từ các cơ quan, tổ chức và cá nhân. Nhân đây, tơi xin
gửi lời cảm ơn sâu sắc, lịng biết ơn chân thành đến các tập thể, cá nhân
đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài.

Do thời gian nghiên cứu và kiến thức cịn hạn chế, luận văn
được hồn thiện khơng thể tránh khỏi những sơ suất thiếu sót,


tác giả rất mong nhận được những ý kiến của các thầy, cô giáo.
Xin chân thành cảm ơn!
Thừa Thiên Huế, ngày
Học viên
Đinh Văn Phúc

tháng 02 năm 2020


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua đất nước ta thực hiện đường lối đổi mới và
đã đem lại những chuyển biến hết sức tích cực như: kinh tế phát triển,
lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, đời sống
nhân dân được cải thiện; nhiều vấn đề xã hội được giải quyết và được
bảo đảm. Cùng với sự phát triển của xã hội, quyền công dân được xem
là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, khơng phân
biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Với vai trị
lãnh đạo Nhà nước và xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi việc
đảm bảo tốt hơn quyền công dân là mục tiêu hướng tới của mình để
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Hiện nay, trong bối cảnh Nhà nước ta đang tích cực hoàn thiện bộ máy
nhà nước, hệ thống pháp luật theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, trong đó có
những bộ luật cơ bản nhằm bảo vệ quyền công dân như: Bộ luật Dân sự, Bộ
luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính…..thì việc nghiên cứu lý luận

và thực tiễn về bảo vệ quyền công dân thông qua hoạt động xét xử của
TAND trong giải quyết các tranh chấp liên quan đến đất đai là điều hết sức
cần thiết, cả về mặt lý luận và thực tiễn trong cả nước nói chung, địa bàn
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình nói riêng trong giai đoạn hiện nay.

Trên phương diện lập pháp và thực tiễn, các quy định về pháp luật đất đai
đã được Quốc hội xây dựng và ban hành tương đối cụ thể và liên tục được hoàn
thiện, do đó đã đáp ứng được nhu cầu của đại đa số người dân và tổ chức trong
việc sử dụng và quản lý đất đai, đồng thời cũng tăng được nguồn thu cho ngân
sách Nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình tổ chức thực hiện quyền sử dụng đất
của tổ chức, công dân, việc nảy sinh các tranh chấp về đất đai vẫn xảy ra nhiều,
trong đó Nhà nước đã sử dụng nhiều phương thức, cách

1


thức giải quyết như Hòa giải tại cơ sở, giải quyết tranh chấp đất đai thông qua
hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết thông qua hoạt động thực
tiễn của Tịa án nhân dân. Vì thế, nhiều quyền của cá nhân công dân, tổ chức
trong các vụ việc tranh chấp đất đai ngày càng được giải quyết ổn thỏa, trong
đó hoạt động giải quyết tại Tịa án là một trong những phương thức bảo đảm
quyền công dân hữu hiệu trong điều kiện hiện nay. Luật Đất đai năm 2013
được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2013 tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII
và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014. Qua quá trình tổ chức thi hành Luật
Đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành, công tác quản lý, giải quyết tranh
chấp đất cũng đạt nhiều kết quả nhất định, khắc phục được nhiều bất cập từ
các quy định của pháp luật trước đó. Trên cơ sở thực hiện các quy định pháp
luật có liên quan cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội, nhu cầu sử dụng
đất gia tăng, giá đất cũng tăng nhanh nên phát sinh nhiều quan hệ pháp luật,
trên địa bàn huyện Bố Trạch trong những năm vừa qua việc giải quyết án
tranh chấp dân sự có liên quan đến đất đai có xu hướng gia tăng và phức tạp.
Bên cạnh những kết quả đạt được thì thực tiễn áp dụng các quy định của
pháp luật trong lĩnh vực đất đai nói chung và vấn đề bảo đảm quyền công dân
trong giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất nói riêng vẫn
cịn nhiều vướng mắc, các văn bản pháp luật thiếu thống nhất, quyền và lợi

ích chưa phù hợp với nhu cầu điều chỉnh của thực tiễn. Q trình nghiên cứu
về vị trí, vai trò của TAND chỉ tập trung chủ yếu vào nghiên cứu vị trí, vai trị
trong bảo đảm quyền cơng dân khi giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền
sử dụng đất. Vì những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “ Bảo đảm quyền
công dân trong giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất – từ
thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình” làm luận văn
trong chương trình thạc sĩ Luật Hiến pháp - Hành chính của mình.

2


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Liên quan tới đề tài luận văn đã có một số cơng trình khoa
học và bài viết nghiên cứu đề cập đến trên nhiều phạm vi và lĩnh
vực khác nhau, trong đó nổi lên một số đề tài sau:
- TS. Nguyễn Thị Phượng (2009): “Chính quyền địa phương trong
việc bảo đảm thực hiện quyền cơng dân ở Việt Nam”. NXB Chính trị - Hành
chính Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Cơng trình khoa học của tác giả đã
giải quyết các vấn đề mang tính lý thuyết về bảo đảm quyền cơng dân của
chính quyền địa phương; thực trạng bảo đảm quyền cơng dân của chính
quyền địa phương cũng như đề xuất những giải pháp cơ bản cho việc tiếp
tục hoàn thiện việc bảo đảm quyền công dân trong những năm tiếp theo.

- Trần Hoàng Nhung, Nhiệm vụ bảo vệ quyền con người,
quyền công dân bảo đảm quyền công dân trong cơng tác giải
quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử dụng đất - Qua thực tiễn
tại Tòa án nhân dân huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, Luận văn Thạc
sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015.
Một số bài viết riêng lẻ tiêu biểu được đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như: Nguyễn Hải An “Bảo đảm quyền công dân trong thủ tục giải quyết

việc dân sự theo BLTTDS 2015” đăng trên website của tạp chí Tịa

án.v.v.

Qua

nghiên cứu các cơng trình nêu trên cho thấy,
trong số các cơng

trình đã cơng bốcó nhiều cơng trình đã luận giải

những vấn đề lý luận cơ bản về bảo vệ, bảo đảm quyền công dân theo quy định
pháp luật nói chung, thơng qua các giai đoạn trong tố tụng dân sự nói riêng. Tuy
nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu hệ thống việc thực hiện bảo đảm quyền
công dân trong giải quyết các vụ việc liên quan đến quyền sử dụng đất – từ thực
tiễn giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.

3


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Hệ thống hóa cơ sở lý luận và pháp luật về bảo đảm quyền cơng
dân của Tịa án thơng qua giải quyết các vụ việc tranh chấp đất đai cũng
như đánh giá thực trạng giải quyết những tranh chấp đất đai và đề xuất
giải pháp cho việc hoàn thiện việc bảo đảm quyền công dân trong việc
giải quyết những tranh chấp đất đai của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch,
tỉnh Quảng

Bình.


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để có thể đạt được mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đề
tài phải giải quyết các vấn đề sau:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về Bảo đảm quyền công
dân trong giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất
của Tòa án nhân dân cấp huyện: khái niệm, đặc điểm, vai trò;
nguyên tắc, nội dung giải quyết vụ việc và những yếu tố tác động
tới giải quyết vụ việc về quyền sử dụng đất của Tòa án.
- Đánh giá đúng thực trạng giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền
sử dụng đất của Tòa án nhân nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình,.

- Nêu ra những nguyên nhân, hạn chế và đưa ra những quan
điểm và giải pháp tăng cường việc bảo đảm quyền công dân từ
thực tiễn giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất
của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là bảo đảm quyền công dân của Tòa
án cấp huyện, cụ thể là tại Tòa án huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình khi giải
quyết các vụ án tranh chấp liên quan đến QSDĐ của công dân và tổ chức.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Về mặt nội dung: Q trình nghiên cứu về bảo đảm quyền
cơng dân thông qua thủ tục tố tụng của TAND thể hiện trên nhiều
phương diện hình sự, hành chính và dân sự. Tuy nhiên, do phạm vi

nghiên cứu về tố tụng nói chung quá rộng nên đề tài chỉ tập trung
nghiên cứu việc bảo đảm quyền cơng dân của Tịa án trong giải
quyết các vụviệc (vụ án) tranh chấp dân sự liên quan đến QSDĐ.

- Phạm vi về không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tại
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
- Phạm vi thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứuviệc bảo đảm
quyền cơng dân của Tịa án trong giải quyết các vụ việc (vụ án) tranh
chấp dân sự liên quan đến QSDĐ từ năm 2016 đến tháng 6 năm 2020.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về bảo vệ quyền con
người, quyền cơng dân để phân tích, lý giải các vấn đề của luận văn.

5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Ngoài phương pháp luận, tác giải còn sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: khảo sát, phân tích đánh giá, tổng
hợp, sử dụng tài liệu thứ cấp, phương pháp so sánh. Ví dụ:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: tác giả sử dụng phương pháp
này để nêu lên cơ sở lý thuyết về bảo vệ quyền công dân qua cơng tác giải
quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử dụng đất và đánh giá, khái quát
thành những quan điểm, luận điểm làm nền tảng lý luận cho luận văn.

5


- Phương pháp thống kê: tác giả sử dụng phương pháp này chủ yếu

ở chương 2 của luận văn, các số liệu thu thập, điều tra được tổng hợp,
phân tích làm cơ sở đánh giá thực trạng qua đó đánh giá về thành tựu, hạn
chế để đưa ra những giải pháp giải quyết vấn đề một cách cụ thể….

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận lẫn thực tiễn,
tạo một cái nhìn sâu hơn, rộng hơn về hoạt động bảo đảm quyền công dân
qua cơng tác giải quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử dụng đất đáp ứng
với yêu cầu trong công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.

Bên cạnh đó, thơng qua q trình nghiên

cứu và những kết quả đã đạt

được thì luận văn có ý nghĩa

trong việc làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận và thực tiễn, hệ thống hóa
những vấn đề lý luận và pháp lý về vai trò bảo đảm quyền cơng dân qua cơng tác
giải quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử dụng đất tại TAND huyện Bố Trạch.

7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo,
phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3 chương, cụ thể:

Chương 1: Cơ sở lý luận và pháp luật về Bảo đảm quyền
công dân trong việc giải quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử
dụng đất của Tịa án nhân dân cấp huyện.
Chương 2: Thực trạng bảo đảm quyền công dân trong việc
giải quyết vụ việc liên quan đến quyền sử dụng tại Tòa án nhân

dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường bảo đảm quyền
công dân trong việc giải quyết vụ việc có liên quan đến quyền sử dụng
đất từ thực tiễn Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BẢO ĐẢM QUYỀN
CÔNG DÂN TRONG GIẢI QUYẾT VỤ VIỆC LIÊN QUAN
ĐẾN QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
CẤP HUYỆN
1.1. Khái quát chung về bảo đảm quyền công dân trong giải quyết
vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất củaTòa án nhân dân cấp huyện

1.1.1. Nhận thức chung về quyền công dân
“Công dân” (citizen), theo Từ điển Merriam-Webster online, là một
khái niệm xuất hiện từ thế kỷ XIV, có nghĩa là “một cá nhân (hợp pháp)
thuộc về một quốc gia và có các quyền và sự bảo vệ của quốc gia đó”.
Cũng như thuật ngữ nhân quyền, có nhiều định nghĩa về quyền công
dân (citizen’s right), tuy vậy theo một nghĩa khái qt nhất, có thể hiểu
quyền cơng dân là những lợi ích pháp lý được các nhà nước thừa nhận
và bảo vệ cho những người có quốc tịch của nước mình. Theo Từ điển
Cambridge online, cơng dân là thành viên của một quốc gia cụ thể và có
các quyền bởi được sinh ra tại đó hoặc bởi được trao cho các quyền”.
Cịn theo Bách khoa tồn thư Stanford Encyclopedia of Philosophy,
“công dân là thành viên của một cộng đồng chính trị, người mà được
hưởng các quyền và thừa nhận các nghĩa vụ của (một) thành viên”.
Trong lịch sử Việt Nam, “công dân” là một phạm trù, một chế định chính
trị - pháp lý có tính“hiến định hiện đại”. Điều này có nghĩa rằng nó khơng tồn

tại cùng với lịch sử dân tộc.“Công dân” là sự xác định thể nhân về mặt pháp
lý thuộc về một NN nhất định. Vì vậy, xác định địa vị pháp lý của một cá nhân
chính là việc xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của cá nhân đó đối với quốc
gia nơi họ đang sinh sống, làm việc trong mối quan hệ lâu dài, bền vững và ổn
định. Hay nói khác đi, mối liên hệ pháp lý giữa cá nhân và NN nơi họ sinh
sống và tồn tại sẽ quyết định đến việc xác định quyền và

7


nghĩa vụ của chính cá nhân đó. Như vậy, có thể thấy, khái niệm công dân
thường gắn với một quốc gia cụ thể (thông qua quốc tịch) và “quyền công
dân” có thể được hiểu là những gì được hưởng, được bảo vệ mà một
quốc gia dành cho công dân của nước mình. Cách hiểu này cũng giống
như học thuyết các quyền pháp lý (legal rights) về nguồn gốc của quyền
con người, trong đó cho rằng các quyền con người khơng phải là bẩm
sinh, vốn có một cách tự nhiên mà do các nhà nước xác định và pháp điển
hóa thành pháp luật hoặc xuất phát từ truyền thống văn hóa1.

Theo từ điển tiếng Việt “quyền công dân” được hiểu là “quyền
của cá nhân công dân được thừa nhận, bao gồm quyền tự do dân
chủ và các quyền kinh tế văn hóa - xã hội”. Như vậy, “quyền cơng
dân” là quyền con người, được các nhà nước thừa nhận và áp dụng
cho cơng dân của mình, là tập hợp những quyền được Hiến pháp và
pháp luật của mỗi Nhà nước quy định và đảm bảo thực hiện.

Nhà nước Việt Nam kể từ khi ra đời năm 1946 tới nay đều
khẳng định quyền con người, quyền công dân được Nhà nước ghi
nhận, bảo đảm và bảo vệ thông qua các bản Hiến pháp 1946, 1959,
1980, 1992. Đặc biệt, tại Hiến pháp năm 2013, QCN, QCD tiếp tục

được ghi nhận và khẳng định trên các phương diện:
Một là, ghi nhận các quyền cơ bản của con người, của công dân trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, phù hợp với trình độ sản xuất, phát triển và
tương quan lực lượng giữa các giai tầng trong xã hội. Điều 14 Hiến pháp 2013
khẳng định “Ở nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, các QCN, QCD về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm
theo Hiến pháp và pháp luật”, điều này thể hiện sự phát triển quan trọng về

8


nhận thức và tư duy trong việc ghi nhận quyền con người, quyền
công dân trong Hiến pháp.
Hai là, bên cạnh việc ghi nhận quyền công dân, nhà nước cũng quy
định trách nhiệm của Nhà nước thông qua những đảm bảo nhằm tôn trọng,
thực hiện việc bảo đảm và bảo vệ QCN, QCD (các điều 14, 19, 20,21, 28, 34, 36,
41-41Hiến pháp 2013). Ngồi ra, QCD cịn được đề cập ở nhiều chương khác
như chương về Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân.

Việc ghi nhận các quyền mới này hoàn toàn phù hợp với các
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên,
thể hiện nhận thức ngày càng rõ hơn về quyền con người, quyền
công dân cũng như tiếp tục khẳng định cam kết mạnh mẽ của Việt
Nam trong việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.
Như vậy, quyền công dân - là những giá trị xã hội được xác lập trên cơ
sở chủ quyền quốc gia, chủ quyền dân tộc; ra đời và phát triển gắn với sự ra
đời của Nhà nước. Điều này thể hiện ở chỗ: Các quyền công dân được ghi
nhận cả về số lượng (Hiến pháp năm 1946 ghi nhận 26 quyền, đến Hiến pháp
năm 1992 đã quy định lên 76 quyền) cũng như chất lượng và được cụ thể hoá
trong các luật, đạo luậtnhư: Bộ luật Dân sự, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Tố tụng

hình sự, Luật Tổ chức Tịa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân,
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu HĐND, Bộ luật Lao động, Luật bảo
vệ sức khỏe nhân dân, Luật giáo dục, Luật giáo dục đại học, Luật bảo vệ,
chăm sóc giáo dục trẻ em, Luật báo chí, Luật Luật sư, Luật Khiếu nại, Luật Tố
cáo, Luật Phòng chống tham nhũng, Luật Cư trú, Luật Quốc tịch...và hệ thống
các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều đó thể hiện sự phát triển liên tục cả về
phương diện chính trị - pháp lý cũng như về phương diện lập hiến, lập pháp.
Nội dung các quyền công dân luôn phản ánh những thay đổi của đời sống xã

9


hội và những giá trị tiến bộ của Nhà nước Việt Nam về quyền con
người, quyền công dân.
Ba là, các quyền công dân được xác lập ngày càng đầy đủ và phản ánh
những giá trị và kế thừa của nhân loại và được thể hiện bằng việc Nhà nước
đã tham gia, ký kết các Công ước về quyền con người như: Công ước không
áp dụng những hạn chế luật định đối với tội phạm chiến tranh và tội phạm
chống nhân loại; Công ước về ngăn ngừa, trừng trị tội apartheid; Cơng ước
về loại trừ các hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về quyền kinh tế, xã
hội - văn hố; Cơng ước về quyền dân sự, chính trị; Cơng ước xố bỏ mọi
hình thức phân biệt, đối xử với phụ nữ; Công ước về quyền trẻ em …
Như vậy, Quyền công dân được hiểu là khả năng công dân được thực
hiện những hành vi nhất định theo ý chí,theo nguyện vọng, nhận thức, khả
năng lựa chọn của chính mình mà pháp luật không cấm nhằm đáp ứng nhu
cầu, lợi ích của chính cơng dân đó. Hay quyền cơng dân cịn được hiểu là
những việc mà cơng dân - bằng khả năng của mình thực hiện một việc cụ thể
nào đó ngoại trừ những việc mà pháp luật cấm khơng được thực hiện.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm bảo đảm quyền công dân trong giải quyết
vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân cấp


huyện

Việc ghi nhận các quyền công dân trong Hiến
pháp và pháp luật có nghĩa là Nhà nước thừa nhận những giá trị
xã hội của các quyền đó và tạo điều kiện, tiền đề cho việc thực hiện các quyền
này. Vì thế, Hiến pháp và pháp luật cũng xác định các điều kiện, cơ sở, tiền đề và
cơ chế cho việc bảo đảm thực hiện quyền, đó là các điều kiện về kinh tế, chính trị,
văn hố - xã hội phù hợp với quy luật khách quan nhằm bảo đảm cho công dân có
khả năng phát huy vai trị cá nhân của mình trong quá trình phát triển chung của
xã hội với cơ chế phân công, phân cấp, phân quyền thực hiện bảo đảm quyền

10


công dân giữa các cơ quan Nhà nước (cơ quan quyền lực nhà nước Quốc hội, cơ quan hành pháp - chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp và cơ
quan Tư pháp - Tòa án - Viện Kiểm sát). Vì vậy, để các quyền cơng dân
được bảo đảm thực hiện, cần có những cơ chế hữu hiệu cũng như những
phương thức thực hiện phù hợp. Mức độ, khả năng thực hiện bảo đảm
quyền ra sao phụ thuộc vào nhiều yếu tố của cả hệ thống (tiềm lực, khả
năng thực tế, năng lực của cơ quan, tổ chức thực hiện bảo đảm...).
Căn cứ vào nội dung, tính chất của các quan hệ xã hội có thể phân định
bảo đảm cho việc thực hiện quyền công dân thành các bảo đảm về kinh tế,
chính trị, văn hố - xã hội với cơ chế tổ chức - pháp lý riêng biệt như: Bảo
đảm quyền cơng dân của chính quyền hành pháp; bảo đảm quyền công dân
thông qua cơ chế xét xử của Tòa án hay của cơ quan quyền lực nhà nước để
cũng thực hiện quyền. Tuy nhiên, trong hệ thống những bảo đảm trên, bảo
đảm về kinh tế, chính trị, xã hội được coi là những bảo đảm chung, mang tính
bao trùm (gồm toàn bộ những yếu tố kinh tế, xã hội, những mối quan hệ, lịch
sử, văn hoá, truyền thống, tư tưởng…) tác động đến quyền và hình thành mơi

trường quyền cơng dân. Cịn bảo đảm về tổ chức - pháp lý (cơ chế tổ chức bộ
máy thưc hiện bảo đảm quyền) lại mang tính đặc thù, có vai trị quan trọng
trong hệ thống bảo đảm quyền cơng dân.

Vì vậy, khái niệm bảo đảm quyền cơng dân có nội dung rất
rộng, trong đó bao gồm hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về
quyền công dân và bảo đảm thực hiện quyền công dân bởi các cơ
quan trong bộ máy nhà nước thông qua việc tổ chức thực các văn
bản quy phạm pháp luật đó trong thực tiễn, nhằm bảo đảm cho các
quyền công dân được thực hiện đúng, đầy đủ và nghiêm minh.
Trong các cơ chế bảo đảm quyền cơng dân thì việc thực hiện cơ chế

bảo đảm thông qua hoạt động giải quyết các vụ việc tại Tòa án được xem là

11


những bảo đảm đặc thù và hết sức quan trọng, bởi vì: Với vị trí đặc biệt của
Tịa án với tính cách là cơ quan thực hiện quyền tư pháp xuất phát từ vai trò
và những thẩm quyền hiến định: Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: “ Tòa án
nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện
quyền tư pháp”. Trong tranh chấp đất đai nói riêng, hay tranh chấp xung đột
dân sự, hình sự, hành chính nói chung thì Tịa án xem xét và phán quyết phải
có từ hai chủ thể trở lên có vị trí độc lập đối kháng nhau về lợi ích, chứ khơng
thể chỉ là sự dàn xếp cho những người khác nhau về địa vị. Do đó, có thể gọi
sự tranh chấp của các chủ thể về quyền sử dụng đất sẽ được Tòa án giải
quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự, tố tụng hình sự hay tố tụng hành chính.

Tuy nhiên, do phạm vi nghiên cứu về bảo đảm quyền công dân trong
các lĩnh vực giải quyết của Tịa án là rất rộng với những tính chất phức tạp

khác nhau theo quy trình tố tụng khác nhau (tố tụng hành chính, tố tụng
dân sự và tố tụng hình sự). Vì vậy, tác giả lựa chọn đi sâu nghiên cứu về
bảo đảm quyền công dân trong giải quyết vụ việc liên quan tới quyền sử
dụng đất củaTòa án nhân dân cấp huyện, cụ thể là từ thực tiễn tại TAND
huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình thơng qua thủ tục tố tụng dân sự đối với
các tranhchấp là những vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất.

Căn cứ tính chất, nội dung, phương thức và đối tượng, bảo đảm
quyền công dân thông qua giải quyết vụ việc tại Tòa án nhân dân cấp
huyện liên quan tới quyền sử dụng đất có đặc điểm như sau:
Một là, căn cứ vào đối tượng của vụ việc giải quyết, đối tượng
giải quyết vụ việc của Tòa án là các tranh chấp liên quan tới đất đai,
trong đó các đương sự yêu cầu Tòa án xác định rõ những quyền và
nghĩa vụ của các bên đối với thửa đất, diện tích đất đang bị tranh chấp.
Hai là, căn cứ vào phương thức giải quyết thì, việc giải quyết vụ việc liên

quan tới quyền sử dụng đất là được thực hiện thông qua nguyên tắc tự do

12


thỏa thuận và tự chịu trách nhiệm, và mang tính tự quyết của các bên có
liên quan như: các phương thức tự thương lượng, hòa giải hoặc thỏa
thuận với nhau về phương thức bồi thường nếu vi phạm. Vì thế,Tịa án chỉ
giải quyết khi các bên khơng thể tự hịa giải thỏa thuận được. Điều này
nhằm thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước với tự do ý chí, tự do định đoạt
của các chủ thể và Nhà nước chỉ cung cấp một công cụ giải quyết tranh
chấp cho họ nếu như họ khơng có được sự thống nhất.
Ba là, khác với giải quyết vụ việc của các cơ quan khác trong bộ
máy nhà nước (thủ tục hành chính, thủ tục hình sự), Tịa án thực hiện giải

quyết các vụ việc thơng qua một trình tự chặt chẽ do Luật tố tụng quy định
mà thủ tục đó là thủ tục công khai, dễ hiểu, dân chủ, trên cơ sở những
nguyên tắc về: tính độc lập trong xét xử dân sự (không là đại diện của bất
kỳ bên nào hay của ai có liên quan về lợi ích); Thủ tục mang tính cơng
khai, ai cũng biết và ai cũng phải làm theo. Thủ tục đó bảo đảm để các bên
phản ánh những ý kiến của mình với Tịa án một cách trực tiếp và chịu sự
giám sát của Viện kiểm sát, của các luật sư, của nhân dân. Vì thế, tồn bộ
những yếu tố đó làm cho hoạt động xét xử của Tịa án mang giá trị quan
trọng mà khơng phương thức nào có thể thay thế được.
Bốn là, khi kết thúc việc giải quyết các vụ việc tại Tịa án,thì Toà án sẽ
đưa ra phán quyết nhân danh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam- tức
là hệ quả pháp lý của việc giải quyết tranh chấp là quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể trong quan hệ đất đai sẽ được làm rõ bằng bản án hoặc quyết định có
hiệu lực pháp luật. Cịn quyền sửa bản án, hủy bản án chỉ thuộc về TA cấp xét
xử cao hơn (phúc thẩm, giám đốc thẩm) và phải dựa trên những căn cứ, theo
những trình tự do pháp luật TTDS quy định. Thẩm quyền đó khơng thể thuộc
về một cơ quan nào khác ngoài các TA cấp cao hơn. Bản án của TA có hiệu
lực pháp luật phải được các cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng và thực thi.

13


Cá nhân, cơ quan, tổ chức hữu quan trong phạm vi trách nhiệm
của mình phải chấp hành nghiêm chỉnh bản án của TA và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc chấp hành đó.
Tóm lại, bảo đảm quyền cơng dân trong việc giải quyết vụ việc
liên quan tới quyền sử dụng đất do Tòa án thực hiện là tổng thể các
cách thức thực hiện thẩm quyền của Tòa án theo trình tự thủ tục pháp
luật (Luật Tố tụng dân sự) quy định trên cơ sở các điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hóa - xã hội nhằm giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp và

bất đồng về đất đai, khơi phục lại quyền và lợi ích hợp pháp cho người
bị hại khi quyền sử dụng đất của một trong các bên bị xâm hại.

1.1.3. Bảo đảm quyền công dân trong giải quyết vụ việc liên
quan tới quyền sử dụng đất của Tịa án nhân dân cấp huyện
1.1.3.1. Quyền cơng dân và việc bảo đảm quyền công dân
trong giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất
Quyền công dân trong giải quyết đất đai là những quyền thể hiện cá
nhân được các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan tơn trọng, bảo đảm về
quyền sử dụng, sở hữu về đất đai thuộc quyền sở hữu hợp pháp, được tôn
trọng về ranh giới, tài sản trên đất; Được các cơ quan, tổ chức tiếp nhận, trả
lời về những vướng mắc, kiến nghị, phản ánh khi có tranh chấp về đất đai.v.v
Khi có tranh chấp phát sinh khởi kiện tại Tịa án, cơng dân được Tịa án
và người tiến hành tố tụng tôn trọng, bảo đảm quyền theo đung quy định của
BLTTDS. Cụ thể như:Quyền yêu cầu Tịa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Có nghĩa là mọi cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự nói chung và về
tranh chấp đất đai nói riêng tại Tịa án có thẩm quyền để u cầu Tịa án bảo
vệ cơng lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác. Tịa án
khơng được từchối thụ lý giải quyết các u cầu vì lý do chưa có điều luật để

14


áp dụng; Quyền quyết định và tự định đoạt việc khiếu nại hoặc khởi kiện
tại Tòa án, yêu cầu Tòa án giải quyết các tranh chấp, đồng thời có quyền
chấm dứt, thay đổi yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với các bên tranh
chấp một cách tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái
đạo đức xã hội; Được quyền chủ động thu thập, giao nộp các tài liệu,
chứng cứ chứng minh yêu cầu của mình là có căn cứ, hoặc yêu cầu các cơ

quan, tổ chức khác có liên quan cung cấp các tài liệu, chứng cứ mà họ
đnag lưu giữ có liên quan đến các u cầu tranh chấp của mình.v.v.

1.1.3.2. Bảo đảm quyền cơng dân trong giải quyết các vụ việc
liên quan tới quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân cấp huyện
Với chức năng là cơ quan xét xử, Tịa án có nhiệm vụ bảo vệ công
lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ
nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân. Tòa án, Thẩm phán trong q trình được phân cơng thụ lý
giải quyết các tranh chấp đất đai của công dân phải giữ gìn thuần phong
mỹ tục, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, gia đình của cơng dân khi họ
tham gia tố tụng tại Tòa án. Trong trường hợp thụ lý giải quyết các vụ việc
liên quan đến tranh chấp đất đai của công dân nếu để xảy ra oan sai, gây
thiệt hại cho cơng dân thì phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.

1.1.3.3.Vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất được giải
quyết của Tòa án cấp huyện
Vụ việc được hiểu là vụ án dân sự và việc dân sự, là hai khái niệm hoàn
toàn khác nhau trên phương diện pháp lý. Chẳng hạn, khi có tranh chấp xảy
ra, nếu có khởi kiện dân sự tới Tịa án thì đây gọi là vụ án dân sự do việc giải
quyết tranh chấp về các vấn đề dân sự giữa cá nhân, tổ chức này với cá nhân,
tổ chức khác; có nguyên đơn và bị đơn và do Tòa án giải quyết trên cở sở

15


pháp luật tố tụng dân sự nhằm bảo vệ quyền lợi của người có quyền và u cầu
phía bên kia phải thực hiện nghĩ vụ. Vụ việc này thực hiện trên cơ sở có đơn khởi
kiện và có thể trải qua hai giai đoạn sơ thẩm hoặc phúc thẩm hoặc thủ tục xét lại

bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và các trình tự theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự như phải có Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân...Ví dụ, tranh
chấp thừa kế; tranh chấp hợp đồng dân sự; tranh chấp đất đai; tranh chấp về chia
tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hơn nhân.

Cịn việc dân sự chỉ là việc riêng của cá nhân, tổ chức, khơng có
ngun đơn, bị đơn mà chỉ có người u cầu Tịa án giải quyết, từ u
cầu của đương sự, Tịa án cơng nhận quyền và nghĩa vụ cho họ, hoặc
yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý
nào đó là căn cứ phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự; xác minh, ra
quyết định, tuyên bố theo yêu cầu của cá nhân, tổ chức. Khác với vụ án
dân sự, việc giải quyết việc dân sự thông qua việc mở phiên họp cơng
khai để xét đơn u cầu…Ví dụ: Yêu cầu xác định hàng thừa kế, Yêu
cầu công nhận tài sản chung, u cầu cơng nhận thuận tình ly hôn,.v.v.
Như vậy, do phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn (đã được nêu
ở phần Lời nói đầu), tác giả chỉ nghiên cứu những vụ việc tranh chấp
dân sự liên quan tới quyền sử dụng đất ở giai đoạn sơ thẩm do Tòa án
nhân dân cấp huyện giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự.

Vì vậy, những vụ việc này còn được hiểu là những vụ án dân
sự liên quan tới quyền sử dụng đất khi có tranh chấp xảy ra mà
các bên khơng thể tự giải quyết được nên yêu cầu tòa án giải
quyết. Các dạng tranh chấp đất đai bao gồm:
Thứ nhất: Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất. Đây là
tranh chấp phát sinh về ranh giới đất liền kề, ngõ đi, cơ quan nhà nước cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng bị trùng diện tích, người sử dụng

16



đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng chủ cũ đòi lại đất hoặc
chủ cũ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhưng người sử dụng đất
cho rằng việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không

đúng.

Thứ

hai, tranh chấp liên quan đến các giao dịch về
quyền sử dụng đất (chuyển nhượng quyền sử dụng đất, chuyển đổi quyền
sử dụng đất, cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất…). Các tranh chấp này có thể là yêu cầu thực hiện nghĩa vụ
theo hợp đồng, công nhận hiệu lực của hợp đồng, tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu…Bản chất của tranh chấp trong các trường hợp này là tranh chấp về hợp đồng
dân sự. Thời hiệu khởi kiện đối với dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với
thời hiệu khởi kiện đối với các tranh chấp về hợp đồng nói chung.

Thứ ba, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất: Đây là các tranh
chấp yêu cầu phân chia di sản thừa kế. Bản chất của dạng tranh chấp
này là tranh chấp thừa kế có đối tượng là quyền sử dụng đất và Tòa án
phải xác định ranh giới đất để phân chia. Thời hiệu khởi kiện đối với
dạng tranh chấp này được áp dụng như đối với thời hiệu khởi kiện đối
với các tranh chấp về thừa kế tài sản nói chung.
Thứ tư, tranh chấp về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất: Bao gồm:
tranh chấp tài sản về nhà ở, vật kiến trúc khác như nhà bếp, nhà tắm, nhà vệ sinh,
giếng nước, nhà để ô tô, nhà thờ, tường xây làm hàng rào gắn với nhà ở; các
cơng trình xây dựng trên đất được giao để sử dụng vào mục đích sản xuất kinh
doanh ….gắn liền với quyền sử dụng đất đó. Tranh chấp trong trường

hợp này có thể là tranh chấp về ai là người có quyền sử dụng đất

gắn liền với tài sản, thừa kế hoặc tranh chấp về quyền sở hữu tài
sản gắn với quyền sử dụng đất.

17


Như vậy, các vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất là những tranh
chấp đất đai giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai có mâu thuẫn
về lợi ích theo quy định của Luật tố tụng sẽ do Tòa án giải quyết trên cơ sở
pháp luật chuyên ngành là Luật Đất đai. Tại Điều 100 của Luật Đất đai năm
2013 quy định: “Tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tịa án nhân
dân giải quyết; Tranh chấp đất đai mà đương sự khơng có Giấy chứng
nhận hoặc khơng có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của
Luật Đất đai năm 2013 thì đương sự chỉ được lựa chọn một trong hai hình
thức giải quyết tranh chấp đất đai theo quy định sau đây:

a) Nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp tại Ủy ban nhân
dân cấp có thẩm quyền theo quy định tại khoản 3 Điều này;
b) Khởi kiện tại Tịa án nhân dân có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật về tố tụng dân sự” (Khoản 1, 2 Điều 203).
Trên thực tế các vụ khởi kiện vụ án trong lĩnh vực đất đai đã có
rất nhiều, vì vậy, có thể hiểu rằng giải quyết vụ việc liên quan tới
quyền sử dụng đất tại Tòa án là việc Tòa án nhân dân có thẩm quyền
thụ lý các vụ án tranh chấp liên quan tới các quyền sử dụng đất đai
khi một trong các bên khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết khi họ cho
rằng, quyền sử dụng đất của họ bị xâm hại hoặc bị tổn thất.
1.2. Nội dung bảo đảm quyền công dân trong giải quyết vụ việc
liên quan tới quyền sử dụng đất của Tòa án nhân dân cấp huyện
1.2.1. Tổ chức hệ thống Tòa án nhân nhân các cấp bảo đảm quyền
công dân trong việc giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền sử dụng đất

Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Có
nhiệm vụ bảo vệ cơng lý, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân,

18


bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân.

Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014,
hệ thống Tòa án nhân dân được thể hiện ở mơ hình sau:
Hình 1.1. Cấu trúc hệ thống Tòa án nhân dân các cấp hiện nay

Theo mơ hình trên, Tịa án nhân dân bao gồm:
1. Tòa án nhân dân tối cao.
2. Tòa án nhân dân cấp cao.
3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
đương.

4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương

19


5. Tòa án quân sự.
1.2.2. Thẩm quyền, trách nhiệm của TAND cấp huyện nhằm
bảo đảm quyền công dân trong việc giải quyết các vụ việc liên
quan tới quyền sử dụng đất

Căn cứ khoản 9 Điều 26 Luật Tố tụng dân sự 2015, Tòa án nhân dân giải
quyết tất cả những tranh chấp đất đai theo quy định của pháp luật về đất đai;
tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng rừng theo quy định của Luật bảo
vệ và phát triển rừng. Theo đó thẩm quyền của Tịa án các cấp về giải quyết
các vụ việc tranh chấp liên quan tới quyền sử dụng đất như:

- Tranh cấp về quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê,
thế chấp, góp vốn, tặng cho quyền sử dụng đất, quyền thừa kế và
cho mượn quyền sử dụng đất…) như sau:
Do đó, tại điểm a khoản 1 Điều 35 Bộ luật TTDS 2015 đã quy định về
thẩm quyền của Tịa án nhân dân cấp huyệncó thẩm quyền giải quyết theo
thủ tục sơ thẩm những vụ việc về tranh chấp đất đai thuộc thẩm quyền của
Tòa án nhân dân cấp huyện quy định tại 9 Điều 26 của Bộ luật này.
Ngoài ra, tại điểm c khoản 1 Điều 39 Bộ luật TTDS quy định về thẩm
quyền của Tòa án theo lãnh thổ quy định: “Đối tượng tranh chấp là bất
động sản thì chỉ Tịa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”.

Như vậy, đối tượng giải quyết các vụ việc tranh chấp trong lĩnh
vực đất đai của Tòa án nhân dân cấp huyện là các vụ án dân sự liên
quan tới tranh chấp đất đai cùng phạm vi địa giới hành chính với Tòa
án. Còn thẩm quyền giải quyết các vụ việc liên quan tới quyền sử
dụng đất của Tòa án cấp huyện là toàn bộ những tranh chấp liên
quan tới quyền sử dụng đất quy định tại khoản 9 điều 26 BLTTDS.

20


1.2.3. Ngun tắc bảo đảm quyền cơng dân của Tịa án nhân
dâncấp huyện trong việc giải quyết tranh chấp các vụ việc liên
quan tới quyền sử dụng đất

Tại Chương II, Phần thứ nhất Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 đã
đưa ra 23 nguyên tắc trong quy trình giải quyết các vụ việc dân sự. Các
nguyên tắc này được xây dựng là sự kế thừa và phát triển từ các nguyên
tắc cơ bản của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung
năm 2011. Đồng thời, những nguyên tắc khi đặt ra cũng nhằm mục chế hóa
quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm, bảo vệ các quyền con
người, quyền công dân. Theo đó các nguyên tắc cơ bản bao gồm:

Thứ nhất, nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong tố tụng dân sự
Điều 3 Bộ luật TTDS năm 2015 ghi nhận nguyên tắc tuân thủ pháp luật
trong TTDS, theo đó việc tuân thủ pháp luật không chỉ đặt ra cho đương sự và
những người tham gia giải quyết vụ việc tranh chấp. Tòa án, người tiến hành
TTDS cũng là một chủ thể trong giải quyết tranh chấp tại tịa, vì thế ngun tắc
tn thủ pháp luật cũng đặt ra cho nhóm chủ thể này và đây cũng là nguyên
tắc nhằm bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân của đương sự. Có tn
thủ pháp luật thì việc giải quyết vụ việc dân sự của Tịa án mới khách quan,
cơng bằng và đúng đắn. Có tn thủ pháp luật thì hoạt động tiến hành tố tụng
của người tiến hành tố tụng trong việc giải quyết yêu cầu của đương sự mới
minh bạch, không thể lạm dụng quyền hạn của mình. Có thể nói, trách nhiệm
phải tuân thủ pháp luật được đặt ra đầu tiên cho các chủ thể trong TTDS
(trong đó có Tịa án, người tiến hành TTDS) trong phần các nguyên tắc của Bộ
luật TTDS năm 2015 là rất hợp lý, là cơ sở pháp lý cho việc bảo đảm quyền
con người, quyền công dân của đương sự trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự nói chung, tranh chấp đất đai nói riêng.

21


Nguyên tắc này ghi nhận cho cá nhân, tổ chức khi tham gia tiến trình tố
tụng, nếu có dấu hiệu không tuân thủ đúng pháp luật tố tụng và pháp luật nội

dungthì tiến trình đó khơng được pháp luật cơng nhận, và chủ thể bị xâm phạm về
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm bởi tiến trình tố tụng trái pháp luật đó
đều được yêu cầu bồi thường, cải chính, xin lỗi cơng khai. Như vậy, ngun tắc
có thể coi là sự cụ thể hóa của quyền con người được ghi nhận tại Điều 30 Hiến
pháp 2013: “1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền về những việc làm trái pháp luật của cơ quan, tổ chức, cá
nhân.2. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận, giải quyết khiếu
nại, tố cáo. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường về vật chất, tinh thần và
phục hồi danh dự theo quy định của pháp

luật.”

Hai là, Bảo đảm sự

bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong giải
quyết các tranh chấp nói chung, tranh chấp đất đai nói riêng
Điều 16 Hiến pháp 2013 quy định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp
luật. Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội”. Cụ thể hóa quyền hiến định này của con người Điều 8 BLTTDS 2015
quy định: “Trong tố tụng dân sự mọi người đều bình đẳng trước pháp luật, khơng
phân biệt dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn
hóa, nghề nghiệp, địa vị xã hội. Mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân đều bình đẳng
trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng trước Tịa án. Tịa án có trách
nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng dân

sự.”

Như vậy, BLTTDS


2015 ghi nhận quyền bình đẳng này cho tất cả
mọi

người, bất kể là người đó có phải là cơng dân Việt Nam hay khơng. Điều

này xác định vai trò quan trọng của các quy định tố tụng dân sự trong việc bảo

22


đảm quyền con người. Theo nguyên tắc này, mọi cá nhân đều bình đẳng trước
Tịa án và Tịa án có trách nhiệm bảo đảm nguyên tắc bình đẳng của các
đương sự trong tố tụng dân sự, không phân biệt quốc tịch, giới tính, dân tộc,
tín ngưỡng, tơn giáo, thành phần xã hội, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, địa vị
xã hội. Nếu các đương sự không thực hiện được quyền bình đẳng của mình
hoặc bị đối xửkhơng bình đẳng thì Tòa án phải chịu trách nhiệm.

Ba là, nguyên tắc bảo đảm về tiếng nói và chữ viết dùng
trong tố tụng dân sự:
“Tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng dân sự là tiếng Việt. Người
tham gia tố tụng dân sự có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc
mình; trường hợp này phải có người phiên dịch. Người tham gia tố tụng
dân sự là người khuyết tật nghe, nói hoặc khuyết tật nhìn có quyền dùng
ngơn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật; trường hợp này
phải có người biết ngơn ngữ, ký hiệu, chữ dành riêng cho người khuyết tật
để dịch lại (Điều 20 BLTTDS 2015). Nguyên tắc này tiếp tục ghi nhận và cụ
thể hóa quyền bình đẳng trước pháp luật của con người vừa ghi nhận và
cụ thể hóa quyền con người được sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn
ngôn ngữ giao tiếp tại Điều 16, Điều 42 Hiến pháp 2013. Theo đó, chủ thể
tiến hành tố tụng phải tơn trọng và đảm bảo quyền được sử dụng ngôn

ngữ và chữ viết riêng của dân tộc của đương sự khi tham gia tố tụng. Để
đảm bảo quyền này cho đương sự thì ngun tắc khẳng định bắt buộc
phải có người phiên dịch khi đương sự thực hiện quyền này của mình.
Theo đó, những quy định của Luật Tố tụng dân sự nhằm tạo ra các tiền
đề pháp lý để bảo vệ, bảo đảm quyền công dân, những nguyên tắc này không
chỉ ghi nhận và cụ thể hóa nội dung một số quyền con người mà còn tạo ra
các tiền đề pháp lý cho việc bảo vệ quyền con người. Vấn đề này cũng được
thể hiện rõ ngay trong các nguyên tắc cơ bản của Luật Tố tụng dân sự.

23


×