Tải bản đầy đủ (.doc) (5 trang)

Tài liệu Lý Cao Tông doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.45 KB, 5 trang )

Lý Cao Tông
Lý Cao Tông (1173 - 1210) là vua thứ 7 nhà Lý, cai trị từ năm 1176 đến năm 1210. Ông
tên thật là Lý Long Trát hay Lý Long Cánngười ở châu Cổ Pháp, nay thuộc về huyện
Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Thân thế
Lý Cao Tông là con trai thứ sáu của Lý Anh Tông, mẹ là Đỗ Thụy Châu. Ông sinh ngày
25 tháng 5 năm Quý Tỵ (1173), khi mới lên 3 tuổi đã được đưa lên ngôi. Vua cha Anh
Tông truất ngôi con cả là Long Xưởng và phong ông là hoàng thái tử, ủy thác cho Tô
Hiến Thành giúp đỡ.
Phụ chính Tô Hiến Thành
Sau khi Anh Tông mất (1175), hoàng hậu vợ chính của Anh Tông là Chiêu Linh thái hậu
muốn lập con mình là Long Xưởng lên ngôi nhưng nhờ có sự kiên quyết của thái uý Tô
Hiến Thành, Cao Tông vẫn được tôn phù ở ngôi báu.
Nhưng không lâu sau, Tô Hiến Thành đã tuổi già sức yếu, qua đời năm 1179. Trước khi
mất, vì vua mới lên 7 tuổi nên Hiến Thành tiến cử Trần Trung Tá với Đỗ thái hậu. Thái
hậu dù khen hay nhưng cuối cùng không theo lời, lấy Đỗ An Di làm phụ chính.
Năm 1181, thái tử cũ là Long Xưởng cầm đầu các gia thuộc nô lệ trộm cướp bừa bãi,
muốn mưu làm loạn. Tới năm sau, thái hậu dùng Lý Kính Tu
[2]
làm đế sư (thày của vua),
trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân trung hiếu, từ đấy Chiêu Linh thái hậu và
Long Xưởng không dám manh tâm mưu khác nữa.
Cao Tông tuy giữ được ngôi vua nhưng khi trưởng thành đã không trở thành minh quân
của nhà Lý. Tới năm 1190, ông dùng em vợ là Đàm Dĩ Mông vốn là người không có học
làm thái phó nên việc triều chính càng suy sút.
Hưởng lạc
Khi còn nhỏ, Cao Tông là người ngoan lành, song khi lớn lên bắt đầu trực tiếp cầm quyền
trị nước lại sinh ra ham mê săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây
nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch nên trộm cướp nổi lên khắp nơi.
Tháng 3 năm 1189, Cao Tông đi du hành khắp các nơi trong cả nước, đi đến đâu mà có
thần linh lại cho xây dựng đền miếu.


Năm 1197, Cao Tông cho dựng cung Nghênh Thiềm, đến năm 1203 lại tiếp tục cho xây
dựng hàng loạt cung điện. Khi đang xây dở gác Kinh Thiên, có chim khách đến làm tổ,
Cao Đường Long cho là điềm báo sắp có vương tộc mới thay thế triều Lý, bèn khuyên
can vua:
Trước cốt sửa đức, sau hãy khởi công mới phải
Nhưng vua lại nghe lời hoạn quan Phạm Bỉnh Di, càng cho xây gấp khiến trăm họ khốn
khổ.
Đến năm 1208 đói kém, người chết đói hàng loạt. Trong lúc ấy thì vua vẫn rong chơi vô
độ, xây đền đài không ngớt, nghe ngoài thành có trộm cướp thì lại lờ đi như không biết.
Họa giặc giã
Do chính sự rối ren, lòng dân oán hận, nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân và ly khai của
các hào trưởng địa phương nổ ra.
Năm 1192 người giáp Cổ Hoằng ở Thanh Hóa làm phản. Năm 1198 người hương Cao Xá
ở Câu Diễn là Ngô Công Lý cùng với người châu Đại Hoàng là Đinh Khả tự xưng là con
cháu của Đinh Tiên Hoàng nổi loạn.
Tháng 7 năm 1203, vua nước Chiêm Thành là Bố Trì lập mưu tới cửa biển Cơ La, giả
cách xin nhà Lý cho nương tựa. Sau đó, Bố Trì giết chết trấn thủ cửa biển, cướp bóc
Nghệ An, rồi đem quân về nước.
Tháng 9 năm 1203 có cuộc nổi loạn của 2 người Đại Hoàng Giang là Phí Lang và Bảo
Lương trước đây đã tâu các tội mọt nước hại dân của Đàm Dĩ Mông, bị người này đánh,
sinh lòng oán hận. Hai người này nhân khi rối ren liền làm phản. Vua sai Trần Lệnh Hinh
làm Nguyên soái và Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân từ phủ Thanh Hóa tiến đánh Phí
Lang xong bị thua, cả hai tướng đều bị giết; đến tháng giêng năm sau lại sai Đỗ Kính Tu
đi đánh nhưng vẫn tiếp tục bại trận. Đến năm 1207 lại tiếp tục có cuộc nổi loạn của người
Man ở núi Tản Viên, thanh thế rất lớn.
Thời kì này, nhà Tống còn xua quân sang xâm nhiễu biên giới Đại Việt khiến nhân dân
phải chạy loạn vô cùng khổ sở.
Gian thần Phạm Du
Tháng 3 năm 1207, hào trưởng ở Hồng Châu (Hải Dương và Hải Phòng) là Đoàn
Thượng, Đoàn Chủ nổi dậy, xây đắp thành lũy, xưng vương hiệu. Cao Tông phái rất

nhiều quân đi đánh Hồng Châu. Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông (miền Hà Đông
cũ dọc sông Đáy), Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu, Trần Hinh đem quân đạo Phù
Đái (Vĩnh Bảo, Hải Phòng), Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách (Nam Sách, Hải
Dương), cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng. Thấy thế lực quân triều đình quá mạnh,
Đoàn Thượng liền ngầm sai người đem của cải đút lót cho Thượng phẩm phụng ngự
Phạm Du, nguyện xin đem quân chúng theo Du. Cuộc liên minh giữa Thượng và Du bắt
đầu từ đó. Phạm Du cố vì Thượng mà xin với Cao Tông tha cho.
Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Bấy giờ miền này
đang đói lớn, số người bị chết đói rất nhiều. Những người còn sống sót cũng bị phá sản,
lưu vong. Nhân cơ hội ấy, Phạm Du nói với vua rằng:
Nay thiên hạ rối loạn, bọn gian tặc nổi lên khắp nơi xin cho phép tôi được
tuyển bọn trai tráng để tự đề phòng, mới mong khỏi lo tai họa.
Vua bằng lòng. Phạm Du bèn chiêu tập những người vong mệnh ngang nhiên đi khắp các
nơi. Từ đó đường đất bị cắt đứt, thuyền bè không đi lại được. Cao Tông thấy tình hình
nguy khốn liền sai Phạm Bỉnh Di lấy quân ở Đằng Châu (thị xã Hưng Yên) để đánh
Phạm Du. Du trở về Cổ Miệt cùng với Đoàn Thượng, Đoàn Chủ ở Hồng Châu hợp binh
làm phản triều đình, đánh Đằng Châu. Bỉnh Di bị thua.
Tháng 2 năm 1209, Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm
Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết.
Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh tan quân Đoàn Thượng. Phạm Du ngầm sai
người về kinh đút lót cho bọn quan lại trong triều, nói rằng Bỉnh Di tàn ác, giết hại người
vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông sai Trần Hinh triệu Phạm Du về
kinh, lại triệu cả Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin
cẩn; Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Bỉnh Di và con là
Phụ giam ở Thủy Viên, toan làm tội.
Loạn Quách Bốc
Tướng của Bỉnh Di là Quách Bốc nghe tin đó, đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào
nội điện để cứu chủ. Du cùng em là bọn Phạm Kinh giết Bỉnh Di và con là Bỉnh Di là
Phụ rồi cùng Cao Tông chạy trốn.
Quách Bốc liền tôn hoàng tử nhỏ là Thầm lên làm vua. Cao Tông chạy về Tam Nông

(Phú Thọ) nương nhờ nhà Hà Vạn, một thủ lĩnh miền thiểu số có thế lực. Thái tử Sảm
cùng mẹ là nguyên phi Đàm Thị và hai em gái chạy về Hải Ấp, Thái Bình dưới quyền cai
quản của Trần Lý.
Sảm chạy trốn đến ở nhà Trần Lý, lấy con gái Lý là Trần Thị Dung làm vợ, lại phong cho
Trần Lý tước Minh Tự, em vợ Lý là Tô Trung Từ (cậu Thị Dung) làm Điện tiền chỉ huy
sứ. Hai người chiêu tập quân đội dưới danh nghĩa giúp thái tử Sảm để đánh Quách Bốc.
Nghe theo lời khuyên của Phạm Ngu, Trần Lý và em vợ là Tô Trung Từ bèn đón vương
tử Sam về Lỵ Nhân lập làm vua, tôn xưng là Thắng Vương, lệnh giáng Lý Thầm làm
vương. Thấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung có nhan sắc, Lý Sảm bèn lấy làm vợ.
Nhân đó Trần Lý được phong làm Minh Tự, Phạm Ngu làm Thượng phẩm phụng ngự,
Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ.
Biết tin thái tử Sảm lập triều đình riêng và tự ý phong tước cho Trần Lý, Tô Trung Từ,
Phạm Ngu nên vua Lý Cao Tông ở Quy Hoá muốn đánh dẹp, bèn sai Phạm Du đi để
liên lạc với họ Đoàn (Đoàn Thượng, Đoàn Văn Lôi) ở vùng Hồng. Nhưng Du lại ham
sắc, tư thông với công chúa Thiên Cực, nên lỡ hẹn với họ Đoàn. Khi Du lên thuyền đi
gặp họ Đoàn, tới Ma Lãng thì bị quân của hào trưởng Bắc Giang là Nguyễn Nậu và
Nguyễn Nải đón bắt và giết chết.
Trần Lý và Tô Trung Từ mang quân đánh về kinh thành dẹp Quách Bốc. Cuối năm 1209,
loạn Quách Bốc bị dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón vua Cao Tông về cung. Do
Phạm Du đã chết mà thế lực Trung Từ mạnh nên vua Cao Tông buộc phải dựa vào Trung
Từ. Đàm Dĩ Mông trước đã hàng phục Lý Thầm và Quách Bốc vẫn không bị trị tội, được
làm chức thái uý.
Sử sách chép không rõ về kết cục của Quách Bốc, Lý Thầm. Toàn thư ghi đại lược:
"Trừng trị bọn Quách Bốc làm loạn, xử tội theo mức độ khác nhau". Cương mục cũng
ghi vắn tắt: "Vua xét tội tùy theo nặng nhẹ có sai biệt". Sách Việt sử Tiêu án không đề
cập tới việc xử tội phe Quách Bốc. Các nhà chuyên môn nhận định không có tài liệu nào
nói tới việc bắt hay giết Quách Bốc, Lý Thầm.
Ngày 28 tháng 10 năm 1210, Cao Tông mất ở cung Thánh Thọ, ủy thác cho Đỗ Kính Tu
việc triều đình. Cao Tông thọ 38 tuổi.
Thái tử Sảm lên ngôi, tức là Lý Huệ Tông. Tình hình trong nước ngày càng rối ren hơn,

được hơn 10 năm thì nhà Lý mất về tay họ Trần (1225).
Nhận định
Sách Đại Việt Sử ký Toàn thư nhận định về Lý Cao Tông như sau:
Vua chơi bời vô độ, chính sự hình pháp không rõ ràng, giặc cướp nổi như ong,
đói kém liền năm, cơ nghiệp nhà Lý từ đấy suy.
Cao Tông tuổi bé nối ngôi, Chiêu Linh Thái hậu rắp lòng phế lập, thân vua suýt
nữa bị nguy. Nhờ có Tô Hiến Thành vốn có quyền vị, nhận ký thác con côi, hết
lòng phù hộ, ngôi báu không lay, thiên hạ quy phục, tất phải có mưu hay chước
giỏi tâu riêng với vua rồi. Đến khi Hiến Thành chết, Đỗ Kính Tu hầu hạ nơi màn
trướng, giúp vua sửa đức, đâu phải là không có người? Thế mà vua mê mải rong
chơi, say đắm thanh sắc, ham tiền của, thích xây dựng, dạy tính lười tham cho
các quan, gây lòng oán giận ở trăm họ, làm cho cơ đồ nhà Lý phải hao mòn, đến
nỗi mất nước. Kinh thư có câu: "Ở trong mê sắc đẹp, ra ngoài mê săn bắn, ham
rượu, thích nhạc, xây nhà cao, trổ tường đẹp, phạm một trong các điều ấy tất
phải bại vong". Vua phạm đủ các điều ấy, còn nói gì được nữa?
Trong sách Việt sử Tiêu án, Ngô Thì Sĩ viết:
Vua Cao Tông oai quyền ở tay mình, người phò tá cũng không thiếu, thế mà
nghe tên tặc thần Phạm Du tố cáo bậy, giết oan Bỉnh Di, mà phải chạy trốn, lặn
lội nơi sông nước Cao Tông cũng nhờ họ nhà thuyền chài
[3]
phù trì cho mới về
được kinh đô, người ta thấy rằng văn võ bách quan của nhà Lý không còn ai và
không có quân lính phòng bị
Vua Cao Tông ham chơi bời, lại thiếu sáng suốt. Trước nghe theo Phạm Bỉnh Di bắt dân
phu hoàn thành nhanh cung thất, sau lại nghe Phạm Du sàm tấu mà giết Bỉnh Di. Thực ra
không phải vì trước đây Bỉnh Di là sủng thần mà sau đó bị thất sủng, mà vì vua Cao
Tông chỉ thích hưởng lạc nên điều Bỉnh Di tâu việc đốc công là hợp ý vua mà thôi.
Theo nhận định của các nhà chuyên môn, chính sự nhà Lý tới thời Cao Tông đã rất lỏng
lẻo do lỗi của vua:
• Trước sai Phạm Bỉnh Di dẹp Phạm Du, sau lại nghe lời tâu bậy của Du mà tin

dùng Du, coi Du là "phải", Bỉnh Di là "trái";
• Bộ tướng Quách Bốc của Bỉnh Di không hẳn đã có một đạo quân hùng hậu, vậy
mà triều đình trung ương nghe tin Bốc kéo vào liền hốt hoảng bỏ chạy không dám
chống cự; vua một nơi, hoàng hậu cùng hoàng tử và công chúa một nơi.
• Đàm Dĩ Mông thần phục Lý Thầm và Quách Bốc, lẽ ra phải trị tội như Lê Chiêu
Tông giết thái sư Lê Quảng Độ theo Trần Cảo sau này, nhưng Cao Tông lại dung
tha cho Mông, để làm đại thần.
Bởi bên dưới khinh nhờn luật nước, vẫn được dung túng, nên sau này quần hùng nổi dậy,
nay đánh mai hàng, loạn mãi không chấm dứt được. Dân bị bóc lột, đã oán triều đình.
Công thần bị giết oan, lòng người càng chia lìa. Bởi vậy các sử gia nhận định rằng lỗi làm
mất nhà Lý bắt đầu từ Cao Tông.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×