Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bảo hộ thương mại thế giới và vấn đề đặt ra đối với chính sách xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (457.23 KB, 23 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
--------------

BÀI THẢO LUẬN NHĨM
MƠN:
CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI CỦA CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN

Chủ đề: “Bảo hộ thương mại thế giới và vấn đề đặt ra đối với
chính sách xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam hiện nay”

GIẢNG VIÊN: PGS. TS Hà Văn Sự
NHĨM THỰC HIỆN: Nhóm 5
Lớp CH24B4QLKT

Bắc Giang, tháng 8 năm 2019


DANH SÁCH NHÓM 5
STT

Họ và tên

Năm sinh

Mức độ tham gia

1

Vũ Thanh Tâm


02/9/1988

A – Thư ký

2

Hồng Văn Huy

29/10/1979

A – Trưởng nhóm

3

Nguyễn Văn Thính

12/8/1971

B

4

Nguyễn Tiến Quyên

10/4/1968

A

5


Nguyễn Thị Liêm

18/10/1979

B

6

Trần Thị Hoa

13/6/1989

B

7

Chu Đức Hiểu

12/11/1978

B

8

Nguyễn Phi Khanh

19/5/1983

A


9

Nguyễn Trọng Tân

10/02/1987

B

Ký xác nhận
(Ghi rõ họ tên)


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những thập kỷ qua, các nước đang phát triển và mới nổi đã đóng góp rất
lớn cho kinh tế toàn cầu, nhất là về tăng trưởng GDP và tiêu dùng. Đây là yếu tố
thuận lợi, tạo ra triển vọng lạc quan về kinh tế thế giới. Sau khủng hoảng tài chính
tồn cầu 2008, các nước phát triển phục hồi chậm chạp, các nước đang phát triển và
mới nổi tiếp tục dẫn dắt tăng trưởng kinh tế toàn cầu với mức đóng góp khoảng 80%
về tăng trưởng GDP và 85% về tăng trưởng tiêu dùng. Nếu tính tốn theo tỷ giá thị
trường, các nước đang phát triển và mới nổi đóng góp trên 70% tăng trưởng GDP và
tiêu dùng trong giai đoạn 2010-2015. Trong thời gian gần đây, cả thế giới đã chứng
kiến một cuộc chiến thương mại mới nổ ra khi chính quyền của Tổng thống Hoa Kỳ
Donald Trump áp thuế cao đối với mặt hàng thép, nhôm nhập khẩu. Những hành động
này của Tổng thống Trump đã châm ngòi cho sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ mậu
dịch với nhiều nguy cơ đe dọa đến nền kinh tế tồn cầu.
Dịng chảy thương mại quốc tế trong những năm gần đây cho thấy những nỗ lực "bẻ
lái" của ông Trump chắc chắn sẽ không ngăn cản nổi xu hướng hoạt động thương mại
toàn cầu nghiêng về các nước đang phát triển. Theo dữ liệu của Liên hợp quốc, nếu
như 20 năm trước 62% kim ngạch thương mại song phương của thế giới chỉ diễn ra
giữa các nước phát triển (là Mỹ, Canada và châu Âu) thì hiện nay con số đã giảm

xuống chỉ còn 47% do sự trỗi dậy của các quốc gia đang phát triển. Trong cùng kỳ
kim ngạch thương mại song phương giữa các nền kinh tế mới nổi tăng trưởng 10 lần.
Hiện tại, 53% hoạt động thương mại song phương có sự tham gia của ít nhất 1 thị
trường mới nổi. Năm 1997 con số là 38%. Mặc dù thương mại giữa hai quốc gia đang
phát triển vẫn chỉ chiếm tỷ trọng khá khiêm tốn (14% năm 2017), đến cuối thế kỷ này
các quốc gia đang phát triển được dự báo sẽ là nhóm đóng góp nhiều nhất. Số lượng
các nước có phần lớn hoạt động thương mại là với các thị trường mới nổi cũng tăng
lên nhanh chóng, từ mức 19 nước cách đây 2 thập kỷ lên 64 nước ở thời điểm hiện tại.
Sự dịch chuyển này giúp các vùng sản xuất chính của các nước đang phát triển giảm
dần sự phụ thuộc vào nhu cầu từ các nước giàu. Điều đó có nghĩa là ngày càng có
nhiều thực phẩm, năng lượng, vật liệu xây dựng và hàng tiêu dùng được tiêu thụ ở
những vùng nghèo nhất của thế giới. Vào tháng 9/2016, trong cuộc họp tại Hàng
Châu, Trung Quốc, G20 đã đưa ra lời kêu gọi tăng trưởng kinh tế, bao gồm thúc đẩy
thương mại thế giới, chống bảo hộ thương mại. Tuy nhiên, các biện pháp bảo hộ ngày
càng sinh sơi nảy nở và nhiều trong số đó khơng thực sự rõ ràng bởi chúng có ảnh
hưởng đến nền kinh tế kỹ thuật số. Mặc dù bảo hộ thương mại là ý định của một số
nhà kinh tế và nhà hoạch định chính sách nhưng nó có những ảnh hưởng nhất định và
lâu dài đối với nền kinh tế vĩ mơ của quốc gia và nền kinh tế tồn cầu. Nhìn chung,
cạnh tranh tồn cầu là một yếu tố quan trọng trong việc giữ giá của rất nhiều hàng hóa
và cung cấp cho người tiêu dùng khả năng chi tiêu. Tại thời điểm hiện tại, dù chưa
gây ra hậu quả rõ ràng song sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch thể hiện qua
cuộc chiến thương mại giữa các cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới như Hoa Kỳ,
1


Trung Quốc, EU đang tiềm ẩn mối đe dọa lớn đối với nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh
tế Việt Nam - vốn có độ mở rất cao và phụ thuộc nhiều vào vốn đầu tư nước ngoài
(FDI)- luồng vốn có thể bị suy giảm sau khi Mỹ rút khỏi TPP; Việt Nam có lợi thế là
đất nước sở hữu nhiều Hiệp định Thương mại Tự do trên thế giới; chính điều này sẽ
giúp thu hút đầu tư từ bên ngoài vào cũng như giúp Việt Nam giảm nhẹ sự ảnh hưởng

của xu hướng bảo hộ thương mại. Bài thảo luận của nhóm 5 về vấn đề “Bảo hộ
thương mại thế giới và vấn đề đặt ra đối với chính sách xuất khẩu hàng hóa của
Việt Nam hiện nay” sẽ phân tích, và làm rõ vấn đề này.
Nội dung đề tài được nhóm xây dựng qua 3 phần chính:
Chương I: Cơ sở khoa học về bảo hộ thương mại, các cơng cụ chính sách của bảo hộ
thương mại
Chương II: Thực trạng về bảo hộ thương mại thế giới và vấn đề đặt ra đối với chính
sách xuất khẩu hàng hóa tại Việt Nam hiện nay
Chương III: Thách thức đặt ra và giải pháp cho Việt Nam.

2


Chương I
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ BẢO HỘ THƯƠNG MẠI, CÁC CƠNG CỤ
CHÍNH SÁCH CỦA BẢO HỘ THƯƠNG MẠI
I. Khái niệm và các cơng cụ của chính sách bảo hộ thương mại
1. Khái niệm bảo hộ thương mại
Bảo hộ thương mại (bảo hộ mậu dịch) là thuật ngữ kinh tế học, theo đó quốc gia
áp đặt thuế nhập khẩu cao hoặc áp dụng các hàng rào kỹ thuật (yêu cầu cao về chất
lượng, vệ sinh, an tồn, lao động, mơi trường, xuất xứ...) đối với một hoặc một số mặt
hàng (hay dịch vụ) mà mình có lợi thế để hạn chế nhập khẩu, bảo vệ ngành sản xuất
hàng hóa (hay dịch vụ) của mình.
Về lý thuyết, việc bảo hộ thương mại đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản
xuất trong nước, đảm bảo được mục tiêu xã hội là đảm bảo được công ăn việc làm
cho một số nhóm người lao động nào đó. Mặt trái của nó là làm cho các nhà sản xuất
trong nước có cơ hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi
nhất cho họ hoặc khơng có các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản
phẩm. Điều này đem lại thiệt hại cho người tiêu dùng xét theo mục tiêu dài hạn.
2. Các cơng cụ của chính sách bảo hộ mậu dịch

Các cơng cụ chủ yếu của chính sách bảo hộ thương mại là các hàng rào thương
mại, đó là thuế quan và phi thuế quan.
2.1.Thuế quan
Thuế quan là thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ mua bán và vận động qua biên
giới hải quản của một quốc gia hay một vùng lãnh thổ hải quan. Hay nói cách khác,
thuế quan là một loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa xuất khẩu hay nhập khẩu
của mỗi quốc gia. Thuế quan gồm 3 loại:
- Thuế quan nhập khẩu: Là thuế quan mà Chính phủ một nước áp dụng đối với
hàng hóa nhập khẩu vào trong nước. Thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hóa nhập khẩu,
theo đó người tiêu dùng trong nước phải trả cho hàng nhập khẩu thêm một khoản tiền
lớn hơn mà người xuất khẩu ngoại quốc nhận được.
- Thuế quan xuất khẩu: Là thuế quan áp dụng cho hàng hóa xuất khẩu và làm cho
giá cả quốc tế của hàng hóa bị đánh thuế vượt quá giá cả trong nước. Chính phủ đánh
thuế quan xuất khẩu vào những mặt hàng mà Nhà nước muốn hạn chế xuất khẩu.
- Thuế quan quá cảnh: Là thuế quan mà Chính phủ một nước đánh vào những mặt
hàng chuyển qua lãnh thổ quốc gia đó trước khi chuyến đến đích cuối cùng. Hiện nay
loại thuế quan này gần như được dỡ bỏ nhờ thỏa thuận của các Quốc gia.
2.2. Phi thuế quan
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD) định nghĩa: “Các hàng rào
phi thuế quan là những biện pháp biên giới nằm ngồi phạm vi thuế quan có thể được
3


các quốc gia sử dụng, thông thường dựa trên cơ sở lựa chọn, nhằm hạn chế nhập
khẩu”.
Các hàng rào phi thuế quan rất phong phú về hình thức, tuy nhiên chúng được
chia thành 3 nhóm chính:
- Nhóm các biện pháp giới hạn về số lượng như hạn ngạch, hạn chế xuất khẩu tự
nguyện, quy định hàm lượng nội địa của sản phẩm, cartel quốc tế…
- Nhóm các biện pháp quản lý giá như bán phá giá, trợ cấp xuất khẩu, giá nhập

khẩu tối thiểu, giá nhập khẩu tối đa, giá xuất khẩu tối thiểu, giá hành chính…
- Nhóm các biện pháp về hàng rào kỹ thuật như chất lượng, an tồn, kích
thước…
II. Tác động của chính sách bảo hộ mậu dịch tới nền kinh tế
Bảo hộ thương mại giống như con dao hai lưỡi, nó bảo vệ nền kinh tế trong
nước, song đồng thời cũng đẩy những nỗ lực đấu tranh cho tự do thương mại vào ngõ
cụt và làm ảnh hưởng xấu đến quyền lợi kinh tế của người tiêu dùng.
1. Những tác động tích cực của chính sách bảo hộ thương mại
- Bảo hộ thương mại làm giảm sức cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu, qua đó
bảo vệ cho sản xuất hàng hóa trong nước, đặc biệt là ngành công nghiệp non trẻ với
năng lực cạnh tranh cịn kém. Nó giúp nhà sản xuất trong nước nâng cao sức cạnh
tranh, có điều kiện mở rộng sản xuất, thâm nhập sâu rộng vào thị trường nước ngồi
vì bảo hộ mậu dịch tạo điều kiện cho nhà sản xuất trong nước sản xuất hàng hóa với
số lượng lớn, làm cho chi phí bình qn mỗi sản phẩm sản xuất trong nước giảm đáng
kể.
- Bảo hộ thương mại giúp làm tăng ngân sách Nhà nước - đó là nguồn thu từ việc
đánh thuế các hàng hóa nhập khẩu. Khi một quốc gia sử dụng thuế qua làm hàng rào
bảo hộ mậu dịch nó cũng tác động đến chiều hướng sản xuất và tiêu dùng của người
tiêu dùng trong nước, hướng nhà sản xuất và người tiêu dùng đến nguyên liệu và hàng
hóa nội địa.
- Bảo hộ thương mại làm giảm thất nghiệp chung và tăng thu nhập. Khi được bảo
hộ mậu dịch, hàng hóa trong nước có lợi thế cạnh tranh hơn so với hàng hóa nhập
khẩu, người tiêu dùng trong nước chi tiêu ít cho hàng hóa nhập khẩu hơn. Thay vào
đó, họ chi tiêu nhiều hơn cho hàng hóa sản xuất trong nước làm cho cầu hàng hóa củ
ngành được bảo hộ tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng, doanh nghiệp mở
rộng sản uất và thuê thêm lao động, làm giảm tỉ lệ thất nghiệp và thu nhập của người
lao động tăng lên.
- Bảo hộ thương mại giúp phân phối lại thu nhập. Phân phối lại thu nhập xã hội
là sự can thiệp của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật, của các chính
sách để vận động, thuyết phục những người có thu nhập cao đóng góp để cùng Nhà

nước giúp đỡ cộng đồng và những người chó thu nhập thấp.
- Bảo hộ thương mại bằng cơng cụ thuế quan góp phần chống lại việc bán phá
giá và trợ cấp của hàng hóa nhập khẩu, qua đó tạo mơi trường thương mại quốc tế
lạnh mạnh, bình đẳng hơn. Hơn nữa, thuế quan cịn là cơng cụ gia tăng sức mạnh
thương lượng với các đối tác, nó giúp cho một quốc gia địi lại sự cơng bằng cho mình
4


trong các cuộc đàm phán, thương lượng. Khi một nước cho nước kia được tự do
thương mại ở nước mình, trong khi đó nước kia lại thực hiện chính sách bảo hộ hàng
hóa của họ, khơng cho hàng hóa của mình vào nước họ thì quốc gia mình hồn tồn
có thể trả đũa bằng cách cũng áp dụng các chính sách bảo hộ mậu dịch với hàng hóa
của mình.
- Bảo hộ thương mại góp phần bảo vệ văn hóa và truyền thống dân tộc. Văn hóa
của mỗi quốc gia đều dần dần có sự thay đổi bởi sự hiện diện của con người và sản
phẩm tới từ các nền văn hóa khác. Điều này có thể gây ra những tác động ngồi mong
muốn đối với nền văn hóa dân tộc, buộc Chính phủ phải có những biện pháp thích
hợp, ngăn cản việc nhập khẩu những hàng hóa có hại để bảo vệ văn hóa và truyền
thống dân tộc.
2. Những tác động tiêu cực của chính sách bảo hộ thương mại
Mặc dù chính sách bảo hộ thương mại có những tác động tích cực nhất định đối
với nền kinh tế, nhưng khi tính tốn trên góc độ kinh tế thì những lợi ích mà chính
sách bảo hộ mậu dịch mang lại được ít hơn thiệt hại mà nó gây ra cho xã hội. Những
thiệt hại đó bao gồm:
- Dân chúng phải hạn chế tiêu dùng vì phải trả giá cao hơn cho những sản phẩm có
chất lượng thấp hơn. Khi chính phủ áp dụng các chính sách bảo hộ làm cho hàng hóa
nước ngồi bị hạn chế thâm nhập nội địa, cầu lớn hơn cung và đẩy giá hàng hóa lên
cao. Hơn nữa, các nhà sản xuất trong nước có trình độ sản xuất không tiên tiến bằng
thế giới nên sản xuất ra các sản phẩm chất lượng kém hơn, năng suất lao động thấp
hơn và giá thành cao hơn. Vì vậy, người tiêu dùng phải chịu mức giá cao hơn nên họ

sẽ hạn chế tiêu dùng.
- Các doanh nghiệp được bảo hộ kỹ sẽ không cố gắng nâng cao khả năng cạnh tranh,
ngày càng phải dựa vào những cái ô bảo hộ của Chính phủ để tồn tại. Hoạt động của
thị trường vốn quốc tế ngày nay cho phép các doanh nghiệp có thể tiếp cận được với
nhiều nguồi vốn khác nhau, do vậy không nhất thiết phải tiếp nhận từ phía Chính phủ.
Sự hỗ trợ của Chính phủ với doanh nghiệp trong nước có thể dẫn đến làm giảm hiệu
quả và tăng chi phí với chính những doanh nghiệp đó.
- Khi các doanh nghiệp được bảo hộ sẽ làm cho thị trường thế giới bị chia cắt
manh mún, môi trường thương mại trở nên kém thuận lợi. Các công cụ bảo hộ mậu
dịch của Chính phủ chính là các rào cản thương mại làm cho hàng hóa giữa các quốc
gia khơng được lưu thơng. Hàng hóa ở những nơi có lợi thế sản xuất hơn sẽ khó đến
được những nơi khơng có lợi thế sản xuất vì rào cản thương mại. Những nơi được bảo
hộ sẽ phải san xẻ nguồn lực để sản xuất những mặt hàng khơng có lợi thế làm cho quy
mô sản xuất manh mún, hiệu quả sản xuất thấp.
- Việc Chính phủ tăng hỗ trợ cho một ngành cơng nghiệp nào đó cịn là kết quả
của sự vận động chính trị của một số nhóm có quyền lợi đặc biệt. Nếu điều này xảy ra
thì những người tiêu dùng hồn tồn khơng có lợi gì từ việc hỗ trợ của Chính phủ và
họ sẽ ngừng ngay việc mua những hàng hóa có chất lượng thấp do các doanh nghiệp
được bảo hộ sản xuất ra. Điều này có thể dẫn đến việc cạnh tranh tiêu cực, thậm chí
5


có thể dẫn đến chiến tranh thương mại giữa các quốc gia. Nước áp dụng chính sách
này hồn tồn có thể bị các nước khác trả đũa.
- Cạnh tranh lớn nhất trong bất kỳ quốc gia nào không phải là cạnh tranh giữa các
công ty trong nước với các đối thủ nước ngồi mà là cạnh tranh giữa các cơng ty trong
nước với nhau nhằm tranh giành nguồn vốn và lao động khan hiếm trên “sân nhà”.
Các rào cản thương mại và các khoản trợ cấp có thể làm tăng sản lượng đầu ra, tăng
việc làm cho người lao động và mang lại lợi nhuận cao hơn cho một số ngành cơng
nghiệp trong nước, nhưng họ đạt được điều đó bằng cách gây bất lợi cho các công ty

nội địa khác không được trợ cấp hay bảo hộ. Nếu nguồn lợi nhuận trong các ngành
cơng nghiệp được Chính phủ ưu đãi là giá trong nước cao hơ chứ không phải là nhờ
năng suất cao hơn, thì khoản lợi nhuận này chính là thu nhập bị mất đi của một số
người. Do đó, khoản lợi nhuận này khơng làm tăng thu nhập quốc dân.
Như vậy, chính sách bảo hộ thương mại có các tác động tích cực và tác động tiêu
cực đến nền kinh tế. Muốn sử dụng chính sách bảo hộ mậu dịch hiệu quả Chính phủ
cần phân biệt rạch rịi giữ những ngành cơng nghiệp cần bảo hộ và những ngành
không cần bảo hộ. Đay là công việc rất khó thực hiện. Hơn nữa, một khi bảo hộ được
ăp đặt thì việc dỡ bỏ nó sẽ rất khó khăn. Vì vậy Chính phủ cần phải cân nhắc kỹ lưỡng
giữa những lợi ích thu được và những thiệt hại trước khi áp đặt bảo hộ mậu dịch một
ngành sản xuất nào đó của quốc gia mình.

6


Chương II
THỰC TRẠNG VỀ BẢO HỘ THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ VẤN
ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA
TẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Thực trạng bảo hộ thương mại trên thế giới hiện nay
1. Thực trạng hiện nay
Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so
sánh, cho thấy, các quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so
sánh cao nhất nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của
mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo,
nhân cơng rẻ, ngun liệu dồi dào, thậm chí cả các yếu tố mang tính can thiệp của
chính quyền như chính sách bảo hộ, hàng rào thuế quan... Về bản chất, đó là sự phân
cơng lao động trong dây chuyền sản xuất tồn cầu.
Có thể thấy rằng, tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các

quốc gia; giữa các khu vực, tầng lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến
xu hướng chống toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại. Với sự phát triển của khoa
học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện thêm các hình thức thương mại
hàng hóa, dịch vụ xun biên giới, “xóa nhịa biên giới quốc gia”, làm giảm vai trò
của các lợi thế so sánh trước đây. Vì vậy, một số quốc gia thúc đẩy các doanh nghiệp
dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính
phủ tun bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tơn trọng các nguyên tắc thị trường, phê
phán chủ nghĩa bảo hộ nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện
pháp can thiệp hành chính.
Theo Global Trade Alert (GTA), kể từ khủng hoảng tài chính năm 2008 đã có
thêm 4.000 biện pháp bảo hộ thương mại mới được áp dụng gồm: biện pháp phòng vệ
thương mại, tăng thuế, rào cản địa phương, trợ cấp phí xuất khẩu, và các phân biệt đối
xử. Xu hướng bảo hộ trở nên rõ ràng hơn so với những năm trước đó. Chỉ riêng trong
10 tháng đầu năm 2015, GTA đã ghi nhận 539 biện pháp bảo hộ, nhiều hơn so với 407
biện pháp bảo hộ trong cùng kỳ năm 2014 và 183 biện pháp được triển khai trong 10
tháng đầu năm 2012.
Tại châu Âu, xu hướng bảo hộ thương mại thể hiện rõ nét nhất khi nước Anh tổ
chức trưng cầu dân ý (Brexit) vào năm 2016, và hiện đang đàm phán các thủ tục để
rời EU, tạo ra các điều kiện, cơ hội để nước Anh đàm phán thương mại song phương
với các đối tác mới trên phạm vi toàn thế giới.

7


Tại Mỹ, ngay từ khi tranh cử Tổng thống năm 2016, Ơng Donald Trump ln
nêu ra khẩu hiệu “Nước Mỹ trước hết”. Ngay sau khi nhậm chức, Tổng thống Donald
Trump thực hiện chủ trương, bất chấp những phản đối từ ngay trong nội bộ chính giới
nước Mỹ và các đồng minh của Mỹ. Ngày 23/1/2017, Tổng thống Donald Trump đã
ký sắc lệnh rút Mỹ khỏi Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ và
11 nước trong khu vực đã ký. Tiếp đó, ngày 17/5/2017, Chính quyền Tổng thống Mỹ

Donald Trump đã chính thức gửi thơng báo tới Quốc hội nước này về kế hoạch đàm
phán lại Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) ký kết với Canada và
Mexico. Đồng thời, Tổng thống Mỹ Donald Trump chủ trương đàm phán và thúc đẩy
các hiệp định thương mại song phương thay vì đa phương nhằm phát huy lợi thế của
Mỹ và gia tăng lợi ích của Mỹ trong thương mại quốc tế; thúc đẩy xu hướng gia tăng
bảo hộ và sẵn sàng tăng thuế nhập khẩu đối với mặt hàng mà Mỹ có lợi thế để bảo vệ
sản xuất trong nước.
Chỉ trong năm 2017, Mỹ đã khởi xướng 02 vụ việc điều tra áp dụng biện pháp tự
vệ (với pin năng lượng mặt trời và máy giặt). Ngày 8/3/2017 (ngày 9/3 theo giờ Việt
Nam), Tổng thống Mỹ đã ban hành quyết định áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu
thép và nhôm theo Mục 232 Đạo luật Thương mại mở rộng năm 1962 (Trade
Expansion Act) dưới hình thức tăng thuế nhập khẩu. Cụ thể, một số sản phẩm thép và
nhôm nhập khẩu vào Mỹ sẽ phải chịu mức thuế 25% với thép và 10% với nhôm.
Quyết định này của Mỹ sẽ có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày ký ban hành.
Lý do áp dụng biện pháp hạn chế nhập khẩu thép và nhôm bằng chính sách tăng thuế
nhập khẩu được chính quyền Tổng thống Trump đưa ra là vì “an ninh quốc gia”.
Bảo hộ thương mại đã lên đến đỉnh điểm tính đến thời điểm hiện nay là xung đột
thương mại Mỹ - Trung Quốc chính thức nổ ra khi Quyết định của Chính quyền Tổng
thống Mỹ Donald Trump áp thuế đối với các mặt hàng nhập khẩu trị giá 34 tỷ USD từ
Trung Quốc, chủ yếu là máy móc, thiết bị điện tử và cơng nghệ cao đã chính thức có
hiệu lực từ ngày 6/7/2018 và Trung Quốc áp dụng các biện pháp đáp trả. Hiện khơng
ai có thể đốn chắc cuộc xung đột thương mại này sẽ kéo dài bao lâu, cũng như mức
độ tác động của nó.
Trung Quốc vốn được đánh giá là hưởng lợi từ thương mại tự do, cũng đang
theo đuổi chính sách giảm nhập khẩu từ các nước bằng các biện pháp bảo hộ những
mặt hàng, sản phẩm sản xuất ở trong nước. Đồng thời, Trung Quốc cũng rất chú trọng
đến việc nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, đảm bảo tính cạnh tranh của
các sản phẩm xuất khẩu nước này ra thị trường thế giới.
Báo cáo về biện pháp thương mại của G20 cho thấy, từ trung tuần tháng 10/2015
đến trung tuần tháng 5/2016, các nền kinh tế G20 đã áp dụng 145 biện pháp mới về

hạn chế thương mại, trung bình mỗi tháng áp dụng 21 biện pháp, nhiều hơn so với
mức trung bình 17 biện pháp/tháng trong giai đoạn 7 tháng trước đó, trong đó chủ yếu
là các biện pháp chống bán phá giá. Đây cũng là mức trung bình tháng cao nhất kể từ
năm 2011, thời điểm ghi nhận những biện pháp hạn chế thương mại đạt kỷ lục.
Hội nghị thượng đỉnh G7 và G7 mở rộng từ ngày 08-09/6/2018, tại Canada đã ra
tuyên bố chung khẳng định vai trò cốt yếu của hệ thống thương mại quốc tế dựa trên
8


các quy định, nêu rõ sự cần thiết của thương mại tồn cầu “tự do, cơng bằng và cùng
có lợi”, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đấu tranh chống lại chủ nghĩa
bảo hộ. Các nhà lãnh đạo G7 cam kết hiện đại hóa Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) sớm nhất có thể và “nỗ lực giảm các hàng rào thuế quan, các hàng rào phi
thuế quan và các khoản trợ cấp của chính phủ”. Tuy nhiên, Mỹ đã rút khỏi Tuyên bố
chung.
2. Nguyên nhân các nước hiện nay gia tăng bảo hộ thương mại
Các nền kinh tế lớn trên thế giới đang đứng trước bài toán khó là làm sao dung
hịa được lợi ích quốc gia và những cam kết hợp tác thúc đẩy tự do thương mại vì lợi
ích chung. Việc Mỹ đưa ra những rào cản thuế đối với nhập khẩu, cũng như khuyến
khích các doanh nghiệp chuyển địa điểm sản xuất về trong nước, trong khi Trung
Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, cũng tìm mọi cách tăng kim ngạch xuất khẩu
song lại dựng lên những rào cản đối với hàng nhập khẩu, giữ thị phần trong nước cho
các doanh nghiệp nội địa, là những minh chứng rõ nét về xu hướng theo đuổi chủ
nghĩa bảo hộ. Và chính những căng thẳng kinh tế và địa chính trị nêu trên là mối đe
dọa lớn đối với tăng trưởng toàn cầu.
Thời gian gần đây, trong bối cảnh kinh tế thế giới bắt đầu tăng trưởng chậm lại kể
từ năm 2013, làn sóng bảo hộ thương mại trỗi dậy khá mạnh và lan nhanh. Ngày càng
nhiều nước quay trở lại chính sách thúc đẩy sản xuất hàng hóa cơng nghiệp để thế
chân hàng nhập khẩu, thắt chặt quy định về tỷ lệ nội địa hóa và trợ giá hàng xuất
khẩu, dựng nên các rào cản thương mại để bảo vệ nền sản xuất trong nước. Trong khi

đó, thành quả của tồn cầu hóa không được phân chia đồng đều giữa các khu vực, các
nền kinh tế cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới xu hướng phản đối tự do
hóa thương mại gia tăng mạnh ở nhiều khu vực trên thế giới, nhất là tại các nền kinh
tế lớn, trong đó có Mỹ và châu Âu. Trong thời gian qua, số lượng biện pháp bảo hộ
thương mại mà các nền kinh tế lớn thực hiện ngày càng tăng lên. Đặc biệt, tại Mỹ,
Tổng thống Donald Trump, với chính sách “Đưa nước Mỹ vĩ đại trở lại”, đã áp dụng
nhiều biện pháp, từ rút khỏi các thỏa thuận thương mại mà ông coi là “gây thiệt hại”
cho nền kinh tế đất nước, tới kêu gọi các doanh nghiệp lớn quay trở lại kinh doanh ở
Mỹ để mang lại việc làm cho người dân Mỹ. Trong bối cảnh mà nền kinh tế thế giới
vẫn đang trì trệ, tồn cầu hóa chưa cho thấy những chuyển biến đáng kể thì cũng
khơng khó để lý giải cho việc chủ nghĩa bảo hộ đang dần quay trở lại tại các nền kinh
tế lớn nhất thế giới. Các nhà lãnh đạo của những nền kinh tế lớn nhất thế giới giờ đây
đã khơng cịn đặt nhiều niềm tin vào hiệu quả của tự do thương mại.
Trong bối cảnh gia tăng xu thế bảo hộ, nguy cơ chiến tranh thương mại cận kề,
tại Hội nghị Bộ trưởng Tài chính và Thống đốc Ngân hàng Trung ương Nhóm các nền
kinh tế phát triển và mới nổi (G20) tại thủ đô Buenos Aires của Argentina tháng 32018, đích thân Tổng Giám đốc Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) Christine Lagarde khẳng
định khơng có ai là người chiến thắng nếu chủ nghĩa bảo hộ “lên ngôi”, trong khi các
9


đối tác thương mại chính của Mỹ đều cảnh báo về những hệ lụy đối với tăng trưởng
kinh tế thế giới khi một cuộc chiến thương mại nổ ra. Nhiều ý kiến cho rằng biện
pháp của Mỹ có thể sẽ tạo một tiền lệ nguy hiểm gây cản trở tới q trình phục hồi và
tăng trưởng kinh tế tồn cầu.
3. Các chính sách và cơng cụ các nước áp dụng để bảo hộ thương mại
3.1. Chính sách
Hiện nay hầu hết các nước trên thế giới vẫn áp dụng chính sách bảo hộ thương
mại để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước cũng như an ninh quốc gia. Thực tế thì các
quốc gia áp dụng chính sách bảo hộ thương mại được thể hiện như sau:
Đối với các quốc gia đã gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì việc áp đặt

này chỉ được phép đối với một hay nhiều thành viên khác của WTO khi và chỉ khi
phán quyết của WTO cho phép quốc gia này làm điều đó (với các chứng cứ cho thấy
các thành viên kia đang thực hiện việc bán phá giá hay hỗ trợ bất hợp pháp cho ngành
sản xuất của mình v.v).
Đối với các quốc gia chưa gia nhập WTO hoặc quốc gia là thành viên của WTO áp
đặt đối với các quốc gia chưa là thành viên WTO hay ngược lại.
Việc áp đặt này hồn tồn nằm trong ý chí chủ quan của từng quốc gia hoặc sau
khi nhận được đơn kiện của các (nhóm, hiệp hội) cơng ty tại quốc gia đó về việc bán
phá giá. Các vụ kiện tơm hay cá tra, cá ba sa tại Mỹ vừa qua đối với các quốc gia xuất
khẩu các mặt hàng này là một ví dụ cho thấy việc áp đặt bảo hộ mậu dịch.
3.2. Các công cụ
Hiện nay các nước sử dụng các công cụ như gia tăng mức thuế được lựa chọn,
sự giảm giá tiền tệ để làm cho giá các mặt hàng xuất khẩu rẻ hơn và giá các mặt hàng
nhập khẩu đắt hơn, sự trợ cấp xuất khẩu cho nhiều loại mặt hàng, điều khoản “mua
hoặc thuê ở địa phương” và các biện pháp chống bán phá giá mà có thể giúp cho các
nhà sản xuất trong nước chống lại các đối tác thương mại bị buộc tội là bán hàng hóa
với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất,…để bảo hộ thương mại
Biện pháp tự vệ là công cụ khẩn cấp nhằm loại bỏ trước mắt những thiệt hại do tình
trang gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu. Biện pháp này được áp dụng trong
điều kiện thương mại cơng bằng, là van an tồn trong một khoảng thời gian nhất định
khi hàng hóa nhập khẩu đang cạnh tranh chính đáng với hàng hóa trong nước. Tuy
nhiên, khi sử dụng biện pháp này, nước áp dụng có thể sẽ phải đối mặt với yêu cầu
đền bù từ nước bị áp dụng.
Các biện pháp trừng phạt đang ngày càng bị xem như một cơng cụ chính trong
chính sách thương mại của nhiều quốc gia, buộc các nước khác cũng phải thích nghi
và áp đặt các biện pháp đáp trả. Đây được coi là chính sách bảo hộ thương mại mới,
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Hiện cơng cụ phịng vệ thương mại mà
WTO và các FTA cho phép áp dụng gồm 3 biện pháp là chống bán phá giá, chống trợ
cấp và tự vệ.
10



II. Thực trạng bảo hộ thương mại ở Việt Nam đối với vấn đề xuất khẩu hàng hóa
hiện nay
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa hội nhập kinh tế đó vừa là cơ hội mà
cũng là một thách thức đối với nước ta, nhiều vấn đề kinh tế chịu ảnh hưởng trực tiếp
như xuất - nhập khẩu của Việt Nam. Là nước đang phát triển nên Việt Nam vẫn là
nước nhập siêu. Việc gia nhập tổ chức thương mại, ký kết các hiệp định thương mại
song phương và đa phương đã mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam phát huy những thế
mạnh, tháo gỡ hạn chế về thị trường xuất khẩu và tạo lập môi trường thương mại mới.
Sự tăng trưởng xuất khẩu và đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế trong thời gian
qua như một minh chứng cho thấy Việt Nam đã biết tận dụng các cơ hội này một cách
hiệu quả. Tuy nhiên, hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam mới chỉ thiên
về bề nổi, cịn xét về mặt chất thì xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế.
Chẳng hạn như cơ cấu hàng hóa xuất khẩu, những sản phẩm thô, phụ thuộc nhiều vào
nguồn nguyên liệu nhập khẩu... dẫn đến giá trị xuất khẩu không cao...
Trong năm 2018, tình hình bảo hộ thương mại bằng thuế quan trên thế giới có
nhiều biến động lớn, thể hiện rõ nét nhất là chiến tranh thương mại Mỹ và Trung
quốc. Diễn biến của chiến tranh thương mại Mỹ - Trung ngày càng phức tạp, có ảnh
hưởng tiêu cực đến kinh tế thế giới và thương mại quốc tế của Việt Nam. Về chính
sách phi thuế quan, vì nhiều lý do khác nhau mà các quốc gia đều gia tăng mạnh các
biện pháp bảo hộ bằng hàng rào kỹ thuật (TBT), vệ sinh và kiểm dịch động thực vật
(SPS), chống bán phá giá (AD), chống trợ cấp (CD), phòng vệ thương mại (SG), hạn
chế số lượng (QR). Trong đó, các biện pháp TBT và SPS được sử dụng phổ biến nhất,
có tác động mạnh đến xuất khẩu, đặc biệt là hàng nông sản của Việt Nam.
Tính đến tháng 10/2018, đã có hơn 140 vụ việc khởi xướng điều tra phòng vệ
thương mại liên quan tới hàng xuất khẩu của Việt Nam.Xu hướng các vụ kiện phòng
vệ thương mại trên thế giới nhằm vào hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung
vào kiện chùm, kiện chống lẩn tránh thuế, kiện domino, kiện kép (kiện đồng thời
chống bán phá giá và chống trợ cấp). Một số vụ việc kiện đã tác động tiêu cực đến sản

xuất trong nước như Mỹ điều tra áp dụng biện pháp tự vệ với pin năng lượng mặt trời,
thép cán nguội và thép carbon chống mịn, tơm, cá da trơn...; Úc điều tra chống bán
phá giá với dây thép; Canada điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản
phẩm khớp nối bằng đồng của Việt Nam…
Liên tiếp những kỷ lục về xuất khẩu được thiết lập trong các năm gần đây đã tạo
tiền đề quan trọng cho tăng trưởng ở các năm tiếp theo, đồng thời cũng xuất hiện
nhiều động lực mới mang tính nền tảng, thúc đẩy sức tăng bền vững cho xuất khẩu.
Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới, gắn kết chặt
chẽ hơn với nền kinh tế khu vực và toàn cầu. Việt Nam bắt đầu thực thi các FTA thế
hệ mới như Hiệp định Ðối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP), Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) với phạm vi và mức
độ cam kết cắt giảm thuế quan sâu rộng, tạo ra nhiều cơ hội lớn cũng như mở rộng thị
trường cho xuất khẩu. Một động lực khác đến từ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế
theo hướng tích cực và hiệu quả, đang diễn ra không chỉ giữa các ngành kinh tế mà
11


còn trong nội bộ từng ngành. Cụ thể, chuyển đổi từ nông nghiệp sang nuôi trồng thủy
sản, biến đất trồng kém hiệu quả thành hồ ni các lồi thủy sản trọng điểm dùng làm
nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu, nhất là tôm nước lợ. Hay trong lĩnh vực công
nghiệp là sự chuyển dịch theo hướng phát triển mạnh các ngành cơng nghiệp có giá trị
gia tăng cao, giá trị xuất khẩu lớn. Ngoài ra, trong năm 2019, nhiều năng lực sản xuất
mới cũng được bổ sung vào nền kinh tế, như tổ hợp nhà máy ơ-tơ Vinfast tại Hải
Phịng với cơng suất 250 nghìn ơ-tơ/năm hay hàng loạt nhà máy chế biến nông sản
công suất lớn đã và sẽ đi vào hoạt động. Theo thống kê, trong năm 2018, cả nước có
tới 14 nhà máy sản xuất nơng sản mới được khánh thành, ba nhà máy khác đang được
xây dựng, dự kiến đưa vào hoạt động trong quý I-2019, sẽ là động lực quan trọng thúc
đẩy sản xuất và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nông sản Việt Nam tham gia sâu hơn vào
chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều chuyên gia nhận định, trong bối cảnh tình hình thương
mại thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cộng thêm việc phải cân đối với

những chỉ tiêu vĩ mô khác như: GDP, lạm phát…, chỉ tiêu tăng trưởng xuất khẩu Quốc
hội đã đề ra từ 7 đến 8% là hợp lý. Nếu có sự chuẩn bị tốt, thực hiện hiệu quả các giải
pháp đồng bộ, nắm bắt tốt cơ hội, mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu hoàn toàn có thể
đạt, thậm chí vượt chỉ tiêu Quốc hội giao.
Năm 2019 mở ra với rất nhiều cơ hội cho Việt Nam khi Hiệp định CPTPP chính
thức có hiệu lực. Cùng với nhiều FTA khác, hàng hóa Việt Nam sẽ có cơ hội xuất
khẩu khi hàng rào thuế quan bị gỡ bỏ. Hiện nay bất cứ hàng hóa xuất khẩu nào
cũng có khả năng là đối tượng bị điều tra áp dụng phòng vệ thương mại, nhất là
các mặt hàng xuất khẩu chủ đạo của nước ta như thủy sản, sắt, thép… Trong bối
cảnh đó, thời gian qua, Việt Nam đã xây dựng khn khổ pháp lý khá hồn chỉnh
để thực thi pháp luật về phòng vệ thương mại phù hợp với các quy định của WTO.
Bước vào năm 2019, trước diễn biến tình hình chiến tranh thương mại Mỹ Trung ngày càng căng thẳng, song hoạt động xuất khẩu của Việt Nam tương đối khả
quan. Báo cáo kinh tế - xã hội do Tổng cục Thống kê cơng bố, tính chung 5 tháng đầu
năm 2019, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam ước đạt 100,74 tỷ USD, tăng
6,7% so với cùng kỳ năm 2018, trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 30,33 tỷ
USD, tăng 11,6%, chiếm 30,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư
nước ngồi (kể cả dầu thơ) đạt 70,41 tỷ USD, tăng 4,7%, chiếm 69,9% (tỷ trọng giảm
1,3 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước).
Trong 5 tháng, có 19 mặt hàng đạt giá trị xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 84,4% tổng
kim ngạch xuất khẩu, trong đó: Điện thoại và linh kiện có giá trị xuất khẩu lớn nhất
đạt 19,9 tỷ USD, chiếm 19,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu, tăng 3% so với
cùng kỳ năm trước; điện tử, máy tính và linh kiện đạt 12,3 tỷ USD, tăng 11,1%; hàng
dệt may đạt 12,1 tỷ USD, tăng 10,3%; giày dép đạt 7,1 tỷ USD, tăng 14,3%...
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu, trong 5 tháng đầu năm 2019, Hoa Kỳ là thị trường
xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch đạt 22,6 tỷ USD, tăng 28% so với
cùng kỳ năm trước, trong đó điện thoại và linh kiện tăng 109,2%; điện tử, máy tính và
linh kiện tăng 58,4%; hàng dệt may tăng 9,8%. Tiếp đến là thị trường EU đạt 17,3 tỷ
12



USD, tăng 1,9%, trong đó máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng tăng 21,1%; giày dép
tăng 7,1%; điện tử, máy tính và linh kiện tăng 3,2%.
Trung Quốc đạt 13,4 tỷ USD, giảm 2,6%, trong đó thủy sản giảm 11,8%; điện thoại
và linh kiện giảm 56,6%; gạo giảm 78,7%. Thị trường ASEAN đạt 10,6 tỷ USD, tăng
5,2%, trong đó hàng dệt may tăng 31,6%; sắt thép tăng 19,4%; máy móc thiết bị, dụng
cụ phụ tùng tăng 12,8%... Đây là kết qua khá ấn tượng trong bối cảnh chiến tranh
thương mại Mỹ – Trung ngày càng leo thang, cùng với những động thái giữa Mỹ – Ấn
cho thấy, Việt Nam có thể đạt được mục tiêu xuất khẩu đề ra cho cả năm 2019.
Mặc dù có nhiều thuận lợi, nhưng xuất khẩu năm 2019 sẽ phải đối mặt với khơng
ít thách thức. Trước hết, dự báo kinh tế thế giới năm 2019 vẫn tiềm ẩn nhiều rủi ro
khiến tăng trưởng tiếp tục có xu hướng chậm lại. Hoạt động thương mại quốc tế ngày
càng phức tạp hơn với các yếu tố khó lường bởi xu hướng gia tăng của chủ nghĩa dân
túy, bảo hộ thương mại; tranh chấp thương mại giữa các nền kinh tế lớn và tình hình
địa chính trị trên thế giới khó đốn, nhất là căng thẳng của cuộc chiến thương mại Mỹ
- Trung Quốc. Chủ nghĩa bảo hộ ở nhiều nước đang ở quá mức cần thiết, xung đột
thương mại Mỹ - Trung đang là rào cản cho xuất khẩu của Việt Nam
Các nước thành viên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) nhận thấy các biện
pháp phịng vệ thương mại chính là “lá chắn” cuối cùng để đảm bảo thương mại công
bằng và bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Hiện nay, các quốc gia trên thế giới
thường áp dụng biện pháp phòng vệ thương mại thơng qua hình thức điều tra chống
bán phá giá, chống trợ cấp và nghi ngờ trốn thuế. Việt Nam đã và đang rất tích cực,
chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện
pháp phòng vệ thương mại, vượt qua các rào cản thương mại của các thị trường nhập
khẩu nhưng tình hình thế giới đang có những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường,
các nước phát triển ngày càng gia tăng các biện pháp hạn chế thương mại, bảo hộ sản
xuất trong nước.

13



CHƯƠNG III
THÁCH THỨC ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM
I. Thách thức cho Việt Nam
1. Sự cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng lớn.
Bộ Công Thương đã đưa ra hàng loạt cảnh báo về việc nâng cao chất lượng hàng
xuất khẩu Việt Nam để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ
lực của Việt Nam, trong đó có gạo, hiện giá trị rất thấp và có nguy cơ mất giấy phép
xuất khẩu. Đặc biệt, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn khi, xuất khẩu nhóm hàng nơng,
thủy sản đã gặp khá nhiều khó khăn, kể cả về giá bán ngay trong những tháng đầu
năm 2019.
Xuất khẩu gạo dự báo sẽ đối mặt với cạnh tranh lớn khi nhu cầu nhập khẩu giảm ở
một số thị trường lớn là Indonesia, Bangladesh và Trung Quốc giảm. Trong khi đó,
đối thủ cạnh tranh chủ yếu của Việt Nam tại các thị trường châu Âu, Hoa Kỳ có ưu
thế hơn hẳn về giá cả, điển hình như Trung Quốc chiếm lĩnh thị phần lớn trong ngành
hàng tiêu dùng tại Hoa Kỳ, với sự cạnh tranh khốc liệt về giá bán...
2. Khả năng thâm nhập các thị trường mới
Thực tế cho thấy, mức độ đa dạng hóa thị trường của một số mặt hàng thuộc
nhóm nơng sản, thuỷ sản của Việt Nam chưa cao, cụ thể là còn phụ thuộc nhiều vào
khu vực châu Á (chiếm tới 54%), đặc biệt là Trung Quốc. Đáng chú ý, một số mặt
hàng phụ thuộc vào một thị trường (sắn, cao su, thanh long…). Các mặt hàng nông,
thủy sản xuất khẩu cịn gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận những thị trường có u
cầu cao về chất lượng và an tồn thực phẩm.
Thậm chí, ngay cả Trung Quốc - Thị trường xuất khẩu trái cây, rau quả lớn nhất của
Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu trái cây, rau quả năm 2018 đạt 2,78 tỷ USD, chiếm
trên 70% tỷ trọng xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam thì xuất khẩu nơng sản sang
thị trường này vẫn chưa bền vững, cịn phụ thuộc khá nhiều vào đường tiểu ngạch,
quy mô nhỏ lẻ. Trung Quốc cũng khơng cịn là thị trường dễ tính, yêu cầu của người
tiêu dùng với trái cây, rau quả nhập khẩu tại thị trường này ngày một khắt khe. Đặc
biệt, chính sách của Trung Quốc đã có nhiều thay đổi. Từ ngày 1/1/2019 trái cây, rau
quả xuất khẩu sang thị trường này bắt buộc phải có truy xuất nguồn gốc rõ ràng, có

giấy chứng nhận kiểm dịch động thực vật.
3. Những biến động khó lường trên thị trường thương mại toàn cầu.
Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung nổ ra từ tháng 7/2018 với việc Mỹ áp thuế
nhập khẩu lên 34 tỷ USD hàng Trung Quốc. Qua nhiều vòng, Mỹ tiếp tục áp thuế lên
tổng cộng 250 tỷ USD hàng Trung Quốc và Trung Quốc trả đũa với 110 tỷ USD. Đến
14


đầu tháng 5/2019, Mỹ tiếp tục công bố "sốc" khi nâng thuế 200 tỷ USD đối với các
mặt hàng của Trung Quốc, vì cho rằng Bắc Kinh đã thay đổi các cam kết.
Sau đó, Trung Quốc trả đũa bằng việc nâng thuế với phần lớn trong nhóm 60 tỷ USD
hàng Mỹ đã chịu thuế từ năm 2018. Theo Bùi Nguyên Khoa (2019), khi chiến tranh
thương mại leo thang, dòng chảy thương mại bị gián đoạn, ảnh hưởng tới động lực
tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Với một nền kinh tế có độ mở lớn như Việt Nam, lợi ích
ngắn hạn từ một số ngành hàng được hưởng lợi chưa chắc đã bù lại được tác động
trong dài hạn.
Với những dự báo tăng trưởng tồn cầu, quy mơ thị trường và nhu cầu hàng hóa giảm,
hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta sẽ bị ảnh hưởng. Ước tính chiến tranh thương
mại Mỹ - Trung sẽ làm GDP Việt Nam giảm 0,09% vào 2019 và đạt đỉnh điểm sụt
0,12% vào 2020-2021. Tuy nhiên, ước tính này đưa ra giữa năm 2018, với kịch bản
Mỹ áp thuế 25% cho 34 tỷ USD hàng nhập từ Trung Quốc, trong khi quy mô cuộc
chiếm thương mại hiện nay đã tăng hơn so với trước. Lúc đó, cùng với xu thế bảo hộ
thương mại gia tăng, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam chắc chắc sẽ đối mặt với
nhiều thách thức lớn hơn.
4. Các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả.
Trong những năm qua, mặc dù đã có nhiều nỗ lực, song hoạt động xúc tiến thương
mại chưa được đồng đều và đồng bộ từ khâu sản xuất đến khâu tiếp thị và thâm nhập
thị trường. Việc tiếp cận thị trường để tìm kiếm khách hàng mới và giới thiệu sản
phẩm thông qua các hoạt động xúc tiến thương mại còn hạn chế. Thực trạng này
khiến cho các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả, chưa đạt

được như kỳ vọng đề ra.
5. Thách thức từ các biện pháp phòng vệ thương mại của các quốc gia nhập khẩu.
Mặc dù, Việt Nam đã, đang rất tích cực, chủ động xử lý có hiệu quả các vấn đề
trong tranh chấp thương mại, xử lý các biện pháp phòng vệ thương mại, vượt qua các
rào cản thương mại của các thị trường nhập khẩu, nhưng tình hình thế giới đang có
những diễn biến hết sức phức tạp, khó lường, các nước phát triển ngày càng gia tăng
các biện pháp hạn chế thương mại, bảo hộ sản xuất trong nước.
Bên cạnh các biện pháp phòng vệ thương mại, nhiều quốc gia cũng đang có xu hướng
gia tăng bảo hộ sản xuất trong nước một cách khắt khe. Đơn cử như: Trung Quốc liên
tiếp thực hiện nghiêm các quy định, siết chặt nhập khẩu nông sản. Thời gian tới, các
DN xuất khẩu của Việt Nam tiếp tục đối diện với khó khăn về xu hướng bảo hộ, quy
định tiêu chuẩn cao tại các thị trường nhập khẩu như: Các quy định kỹ thuật khá khắt
khe với mục đích là bảo vệ sức khoẻ con người, bảo vệ môi trường, phát triển bền
vững; chính sách bảo hộ cao đối với sản xuất nông nghiệp nội địa của nhiều nước; các
quy định mới về kiểm nghiệm kiểm dịch và thực hiện kiểm tra chặt chẽ về vệ sinh an
toàn thực phẩm, yêu cầu nghiêm ngặt và phức tạp về bao bì đóng gói, ký mã hiệu,
ngơn ngữ ghi trên bao bì…

15


6. Năng lực tham gia thương mại quốc tế của DN Việt Nam cịn hạn chế.
Mặc dù, có nhiều nỗ lực nhưng do khả năng về tài chính nên các DN Việt Nam ít
có điều kiện tham gia vào các hội chợ, triển lãm chuyên ngành tại các nước phát triển
châu Âu, châu Mỹ. Việc khảo sát và xây dựng chiến lược tiếp cận thị trường cần có
đầu tư về kinh phí, trong khi các DN của Việt Nam đa phần là DN vừa và nhỏ. Hơn
nữa, trong quá trình khảo sát thị trường mới, việc tìm hiểu và nắm bắt đầy đủ các quy
định của các nước nhập khẩu thì khơng phải DN nào của Việt Nam cũng chủ động
thực hiện được khi kinh phí ln là bài tốn khó đối với DN. Chẳng hạn, đối với
Canada: Hệ thống Luật Thương mại tương đối phức tạp. Hàng nhập khẩu vào Canada

phải chịu sự điều tiết của Luật Liên bang và Luật Nội bang.
II. Giải Pháp
1. Giải pháp ứng phó xu thế bảo hộ thương mại gia tăng
- Thường xuyên cập nhật với các doanh nghiệp (DN) và hiệp hội về xu hướng áp
dụng các biện pháp phòng vệ thương mại;
- Nâng cấp Hệ thống cảnh báo sớm để đánh giá những mặt hàng xuất khẩu có nguy cơ
bị áp dụng phòng vệ thương mại;
- Phối hợp chặt chẽ với DN trong q trình xử lý các vụ kiện phịng vệ thương mại
ngay từ giai đoạn đầu.
2. Đề xuất giải pháp tăng cường áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại
Thứ nhất, đối với doanh nghiệp nội địa
Để tăng cường năng lực, mỗi DN nên có một bộ phận pháp chế chuyên trách
riêng. Bộ phận pháp chế này thường xuyên theo dõi và nắm rõ hành lang pháp lý của
DN, đồng thời nghiên cứu các sáng kiến, đề xuất chiến lược cũng như là đầu mối của
DN với các cơng ty tư vấn luật chun về PVTM bên ngồi (nếu cần thiết phải sử
dụng) trong các vụ khởi kiện PVTM.
Đối với các DN, đặc biệt là các DN có khả năng bị tác động đáng kể bởi hàng hóa
cùng loại nhập khẩu từ nước ngoài, cần thiết phải đưa PVTM vào danh sách các công
cụ được cân nhắc khi xây dựng chiến lược kinh doanh hoặc phương án đối phó với
các vấn đề gặp phải trong q trình kinh doanh.
Đồng thời, cần có kế hoạch dành một phần lợi nhuận thu được hàng năm, dưới dạng
quỹ cho các hoạt động pháp lý, để tạo nguồn lực sẵn sàng cho việc đi kiện PVTM khi
cần thiết. DN trong nước cần bắt đầu áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về kế toán và
kiểm toán để đảm bảo các số liệu cung cấp đáng tin cậy...
Thứ hai, đối với hiệp hội chun ngành
Hiệp hội đóng vai trị quan trọng trong việc tăng cường năng lực sử dụng các biện
pháp PVTM của DN. Trong một số trường hợp đặc biệt, chính bản thân hiệp hội cịn
có thể đại diện cho các DN trong ngành để khởi xướng các vụ kiện PVTM. Từ thực
tiễn của các nước cho thấy, mỗi hiệp hội nên có một bộ phận chuyên sâu về các vấn
đề liên quan đến PVTM để có thể giúp nâng cao kinh nghiệm và hiểu biết của các DN

thành viên cũng như tư vấn cho DN trong quá trình khởi kiện.
16


Với lợi thế về mạng lưới mối quan hệ và thơng tin, hiệp hội có thể hỗ trợ DN thành
viên trong quá trình thu thập, tìm kiếm chứng cứ tại các thị trường nước ngồi. Hiệp
hội có thể cảnh báo cho DN khi phát hiện thấy dấu hiệu bán phá giá hàng hóa hoặc
hàng hóa được trợ cấp, hay gia tăng ồ ạt tại thị trường nội địa.
Thứ ba, về cơ sở pháp lý phịng vệ thương mại
Việc hồn thiện các biện pháp PVTM, chống trợ cấp và tự vệ thương mại cần
nghiên cứu, kỹ càng cả về lý thuyết cũng như thực tiễn của thế giới và Việt Nam. Tuy
nhiên, rà soát về những vấn đề vướng mắc thực tiễn ở Việt Nam thấy rằng, cần xem
xét điều chỉnh một số nội dung sau:
- Liên quan đến các quy định về hình thức: Việt Nam cần phải ban hành quy định cụ
thể về các tiêu chí để đánh giá mức độ tin cậy của các thông tin được cung cấp trong
đơn kiện cũng như yêu cầu về việc thông báo cho nước có hàng xuất khẩu vào Việt
Nam nằm trong đối tượng điều tra trước khi ra quyết định điều tra. Tương tự như các
nước khác, Việt Nam nên có quy định thành lập các tịa án chun về các vấn đề
thương mại quốc tế với quyền hạn xét xử các vụ việc liên quan đến PVTM trong hệ
thống tư pháp.
- Liên quan đến nội dung: Việt Nam cần phải bổ sung các quy định về điều kiện
thương mại thơng thường trong xác định giá trị bình thường của sản phẩm bị điều tra;
Chỉ rõ phương pháp cũng như công thức so sánh giá xuất khẩu và giá trị bình thường
của hàng hóa trong xác định biên độ phá giá; Yêu cầu về việc sử dụng bằng chứng xác
thực hay xác định thiệt hại khách quan cũng như yêu cầu về việc đánh giá tác động
của các nhân tố khác đến tình trạng của ngành cơng nghiệp nội địa trong xác định
thiệt hại của ngành công nghiệp nội địa…
- Liên quan đến các quy định về chống trợ cấp: Cần phải có quy định cụ thể của Việt
Nam bên cạnh quy định của WTO về việc xác định lợi ích trong điều tra trợ cấp, các
hình thức trợ cấp, trong đó xác định rõ trợ cấp bị cấm và trợ cấp không bị cấm.

Theo quy định của WTO, để đứng đơn khởi kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp
hoặc tự vệ, bên đi kiện phải có đủ tư cách khởi kiện, tức là phải đáp ứng được ít nhất
02 điều kiện: doanh nghiệp khởi kiện phải sản xuất ra ít nhất 25% tổng lượng sản
phẩm liên quan tại Việt Nam; đơn kiện nhận được sự ủng hộ của các doanh nghiệp
sản xuất ra ít nhất 50% tổng lượng sản phẩm liên quan đến sản xuất tại Việt Nam.
- Liên quan đến quy định về tự vệ thương mại: Cần bổ sung quy định cụ thể về các
tiêu chí cũng như phương pháp để chứng minh việc gia tăng hàng hóa nhập khẩu một
cách đột biến; quy định về việc xác định những tác động tiêu cực của các yếu tố liên
quan khác và phân biệt chúng với những tác động do sự gia tăng hàng hóa nhập khẩu
đối với nền sản xuất nội địa khi phân tích mối quan hệ nhân quả trong trường hợp áp
dụng biện pháp tự vệ với hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam.
Thứ tư, đối với các cơ quan quản lý nhà nước
Các cơ quan quản lý liên quan đến lĩnh vực PVTM như Bộ Công Thương, cụ thể
là Cục Quản lý Cạnh tranh và Hội đồng xử lý vụ việc PVTM cần thường xuyên tổ
17


chức các hoạt động hướng dẫn và tư vấn cho DN. Đồng thời, hỗ trợ các DN hoàn
thiện bộ hồ sơ khởi kiện cũng như các thông tin, bằng chứng cần phải bổ sung hay
cung cấp trong quá trình điều tra vụ việc.
Xét đến tầm quan trọng của các biện pháp PVTM trong thời gian tới, để có thể gia
tăng hiệu quả trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước có liên quan
cần xây dựng một cơ quan liên ngành với bộ phận chuyên về các vấn đề PVTM. Bộ
phận này được xây dựng từ việc tập hợp cán bộ đại diện cho các bộ ngành liên quan
như:
Hải quan, Tài chính, Cơng Thương, Ngoại Giao, Thống kê…Mỗi đại diện sẽ là đầu
mối để cung cấp các thông tin cần thiết trong các vụ khởi kiện cũng như đối phó với
các vụ kiện PVTM tại nước ngồi. Bộ phận này đóng vai trị hỗ trợ hiệu quả từ việc
cảnh báo đến cả quá trình khởi kiện cũng như kháng kiện PVTM của Việt Nam.
Như vậy, việc nâng cao nhận thức và năng lực sử dụng công cụ PVTM của DN dường

như sẽ khó có thể thực hiện được trọn vẹn nếu khơng có sự phối hợp, hỗ trợ của Nhà
nước, đặc biệt là từ các cơ quan liên quan tới vấn đề này. Do số lượng các vụ kiện
chưa nhiều và chưa đầy đủ cả ba biện pháp, cũng như hạn chế của bài viết trong việc
tiếp cận các thông tin thực tế của các bên liên quan trong quá trình điều tra các vụ
việc này.
Đồng thời, lĩnh vực và số lượng các DN tham gia khảo sát cịn hạn chế. Do đó, các
phân tích trong bài chưa khái quát hết được tất cả các vấn đề cũng như nguyên nhân
mà doanh nghiệp nội địa cũng như cơ quan quản lý gặp phải trong quá trình áp dụng
các biện pháp PVTM. Đây có thể là gợi ý cho các nghiên cứu tiếp theo có thể được
phát triển trong tương lai.

18


KẾT LUẬN
Bảo hộ thương mại là biện pháp của chính phủ nhằm bảo vệ các nhà sản xuất
trong nước trước sự cạnh tranh với hàng hóa của nước ngồi. Trong thời kỳ khủng
hoảng kinh tế tài chính tồn cầu, các biện pháp mang tính bảo hộ hàng hố trong nước
đối với lĩnh vực thương mại đã được các nước thành viên của WTO thực hiện và tình
trạng này ngày càng gia tăng. Điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến những nền kinh tế
phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu như Việt Nam ta.
Việc bảo hộ thương mại đem lại lợi ích nhất thời cho các nhà sản xuất trong nước,
đảm bảo được mục tiêu xã hội là đảm bảo được cơng ăn việc làm cho một số nhóm
người lao động nào đó. Mặt trái của nó là làm cho các nhà sản xuất trong nước có cơ
hội đầu cơ trên giá bán hàng (hay cung cấp dịch vụ) ở mức có lợi nhất cho họ hoặc
khơng có các biện pháp nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Điều này đem
lại thiệt hại cho người tiêu dùng xét theo mục tiêu dài hạn.
Như vậy, các biện pháp bảo hộ thương mại đưa ra nhằm bảo vệ sản xuất trong
nước là điều phải làm, nhưng cũng cần xem xét phải làm sao đảm bảo cạnh tranh công
bằng. Để làm được điều đó, ngồi việc các bộ, ngành tham mưu cho Chính phủ ban

hành những chính sách giải pháp thiết thực
Một là, tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Việc mở rộng thị trường xuất khẩu
được coi là một chiến lược dài hạn nhằm giúp DN Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi
giá trị khu vực, nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu và cạnh tranh. Đồng thời, giúp
DN Việt Nam cọ xát với thế giới bên ngoài, có điều kiện để phát triển hoạt động sản
xuất kinh doanh và khẳng định vị thế mới của mình trên trường quốc tế.
Hai là, tiếp tục chuyển dịch cơ cấu sản phẩm xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng
sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Trong đó, đối với nông sản xuất khẩu: Chuyển từ
xuất khẩu nguyên liệu thô sang sản phẩm đã chế biến, từ sản phẩm chế biến đơn giản
sang sản phẩm chế biến có giá trị gia tăng cao. Đối với hàng công nghiệp xuất khẩu:
Chuyển từ sản phẩm giá trị gia tăng thấp sang sản phẩm giá trị gia tăng cao.
Ba là, nâng cao chất lượng đối với sản phẩm xuất khẩu: Đẩy nhanh việc xây dựng và
áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quốc gia hài hòa với tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu
vực, tiêu chuẩn nước ngồi đối với hàng hóa xuất khẩu, bao gồm tiêu chuẩn kỹ thuật,
tiêu chuẩn vệ sinh an tồn thực phẩm, tiêu chuẩn mơi trường. Xây dựng năng lực của
tổ chức thử nghiệm, tổ chức chứng nhận, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế để phục vụ
việc đánh giá sự phù hợp các tiêu chuẩn quốc gia, tiêu chuẩn quốc tế, tiêu chuẩn khu
vực, tiêu chuẩn nước ngồi và tiêu chuẩn riêng đối với hàng hóa xuất khẩu.
Bốn là, nâng cao hiệu quả và đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, tập trung vào
các hàng hóa có lợi thế xuất khẩu, các thị trường tiềm năng và các thị trường ngách để
mở ra các thị trường mới nhằm đa dạng hóa thị trường xuất khẩu. Tiếp tục đàm phán,
ký kết và triển khai các hiệp định thương mại song phương và đa phương theo hướng
19


tạo thuận lợi và nâng cao lợi thế cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Việt Nam trên thị
trường thế giới…
Năm là, tăng cường xây dựng thương hiệu quốc gia, thương hiệu sản phẩm xuất khẩu
và thương hiệu DN Xây dựng thương hiệu quốc gia chung Việt Nam tại các thị trường
xuất khẩu. Bên cạnh đó, khuyến khích, hỗ trợ DN xây dựng sản phẩm xuất khẩu đạt

thương hiệu quốc gia và xây dựng thương hiệu DN. Hồn thiện chính sách hỗ trợ DN
trong việc xác lập, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ của DN ở thị trường trong nước và tại
các thị trường xuất khẩu.
Sáu là, tăng cường công tác theo dõi, nghiên cứu diễn biến chính sách và phân tích tác
động tới Việt Nam: Trong bối cảnh xu thế bảo hộ gia tăng, đặc biệt là các diễn biến
nhanh, khó lường của tranh chấp thương mại giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc, các cơ
quan quản lý, hiệp hội ngành hàng, DN cần tăng cường công tác nghiên cứu, cập nhật
các thay đổi về chính sách thương mại, quy định của các nước, đặc biệt tại các thị
trường xuất khẩu lớn; phân tích tác động của các thay đổi này tới sản xuất, xuất khẩu
của Việt Nam để có sự điều chỉnh, ứng phó thích hợp.
Ngày 30/6/2019 Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) và Hiệp
định Bảo hộ đầu tư Việt Nam - EU (EVIPA). Ðây được đánh giá là những hiệp định
toàn diện, chất lượng cao và cân bằng về lợi ích cho cả Việt Nam và EU. Về mặt
chiến lược, việc đàm phán và thực thi các Hiệp định này cũng gửi đi một thơng điệp
tích cực về quyết tâm của Việt Nam trong việc thúc đẩy sự hội nhập sâu rộng vào nền
kinh tế thế giới trong bối cảnh tình hình kinh tế địa chính trị đang có nhiều diễn biến
phức tạp và khó đốn định./.

20


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................................1
Chương I................................................................................................................................................3
CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ BẢO HỘ THƯƠNG MẠI, CÁC CƠNG CỤ CHÍNH SÁCH CỦA BẢO
HỘ THƯƠNG MẠI..............................................................................................................................3
I. Khái niệm và các cơng cụ của chính sách bảo hộ thương mại......................................................3
1. Khái niệm bảo hộ thương mại.......................................................................................................3
2. Các cơng cụ của chính sách bảo hộ mậu dịch...............................................................................3
2.1.Thuế quan................................................................................................................................3

2.2. Phi thuế quan..........................................................................................................................3
II. Tác động của chính sách bảo hộ mậu dịch tới nền kinh tế...........................................................4
1. Những tác động tích cực của chính sách bảo hộ thương mại........................................................4
2. Những tác động tiêu cực của chính sách bảo hộ thương mại........................................................5
Chương II..............................................................................................................................................7
THỰC TRẠNG VỀ BẢO HỘ THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CHÍNH
SÁCH XUẤT KHẨU HÀNG HÓA TẠI CỦA VIỆT NAM HIỆN NAY.............................................7
I. Thực trạng bảo hộ thương mại trên thế giới hiện nay....................................................................7
1. Thực trạng hiện nay.......................................................................................................................7
2. Nguyên nhân các nước hiện nay gia tăng bảo hộ thương mại......................................................9
3. Các chính sách và công cụ các nước áp dụng để bảo hộ thương mại.........................................10
3.1. Chính sách............................................................................................................................10
3.2. Các cơng cụ..........................................................................................................................10
II. Thực trạng bảo hộ thương mại ở Việt Nam đối với vấn đề xuất khẩu hàng hóa hiện nay.........11
CHƯƠNG III......................................................................................................................................14
THÁCH THỨC ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP CHO VIỆT NAM...........................................................14
I. Thách thức cho Việt Nam............................................................................................................14
1. Sự cạnh tranh trong hoạt động xuất khẩu ngày càng lớn............................................................14
2. Khả năng thâm nhập các thị trường mới.....................................................................................14
3. Những biến động khó lường trên thị trường thương mại tồn cầu.............................................14
4. Các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu chưa phát huy tối đa hiệu quả..................................................15
5. Thách thức từ các biện pháp phòng vệ thương mại của các quốc gia nhập khẩu.......................15
6. Năng lực tham gia thương mại quốc tế của DN Việt Nam còn hạn chế.....................................16
II. Giải Pháp....................................................................................................................................16
1. Giải pháp ứng phó xu thế bảo hộ thương mại gia tăng...............................................................16
2. Đề xuất giải pháp tăng cường áp dụng các biện pháp phòng vệ thương mại..............................16
KẾT LUẬN.........................................................................................................................................19
MỤC LỤC...........................................................................................................................................21

21




×