ĐỀ ÁN
WTO và những vấn đề
Việt Nam cần giải quyết
để trở thành thành viên
của WTO
PHẦN MỞ ĐẦU
Toàn cầu hoá là một trong những xu thế phát triển tất yếu của quan hệ
quốc tế hiện đại, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đã và đang thúc
đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác giữa các quốc gia, làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng được quốc tế hoá cao độ. Những tiến bộ
của khoa học công nghệ đặc biệt là lĩnh vực công nghệ thông tin đã đưa các
quốc gia gắn k
ết lại gần nhau dẫn tới sự hình thành mạng lưới toàn cầu,
trước tình hình đó tất cả các nước trên thế giới đều thực hiện điều chỉnh cơ
cấu kinh tế, điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng mở cửa, hội
nhập. Các nền kinh tế của các quốc gia đang từng bước cam kết cắt giảm và
tiến tới dỡ bỏ
hàng rào thuế quan, phi thuế quan, làm việc trao đổi hàng hoá
sự luân chuyển vốn, lao động và kỹ thuật, công nghệ trên thế giới ngày càng
thông thoáng hơn, mở đường cho kinh tế phát triển. Điều này được chứng
minh trong quá trình ra đời và phát triển của tổ chức thương mại thế giới
WTO từ 1-1-1995 với vai trò điều tiết không chỉ của thương mại hàng hoá
mà còn mở rộng sang cả lĩnh vực thương mại dị
ch vụ, đầu tư, quyền sở hữu
trí tuệ… với 136 nước thành viên chiếm trên 90% tổng kim ngạch thương
mại thế giới WTO đã trở thành một tổ chức quy mô toàn cầu và là nền tảng
pháp lý cho quan hệ kinh tế quốc tế là diễn đàn thường trực đàm phán
thương mại và thể chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế. Xu thế
toàn cầu hoá và khu vực hoá về
bản chất là giải quyết vấn đề thị trường vì
vậy thực chất đây là sản phẩm của quá trình cạnh tranh, giành giật thị trường
gay gắt, quyết liệt giữa các nước và giữa các thực thể kinh tế quốc tế. Đây
cũng là một tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, với sự phát triển mạnh
mẽ của lực lượng sản xuất, c
ủa cuộc cách mạng khoa học công nghệ, sức sản
xuất ngày càng phát triển dẫn tới sự đòi hỏi cấp bách phải có một thị trường
tiêu thụ hàng hóa. Vấn đề đầu tư giữa các quốc gia, giữa các nền kinh tế thế
giới có xu thế ngày càng phát triển trở thành một thị trường chung đó là quy
luật phát triển tất yếu. Điều hiển nhiên đối với các nước để khỏi bị gạt bỏ ra
khỏi lề của sự phát triển thì đều phải có nỗ lực hội nhập và xu thế toàn cầu
hóa tọa ra s
ức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vì tồn tại của chính
mình. Đây là một quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh phân chia thị trường,
vì vậy hội nhập kinh tế quốc tế thực chất là cuộc đấu tranh phức tạp để góp
phần phát triển kinh tế và củng cố an ninh chính trị, độc lập kinh tế và bản
sắc dân tộc của mỗi quốc gia thông qua việc thiết lập các mối quan hệ
tùy
thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều tầng nấc, cấp độ với các nước
khác nhau.
Đứng trước những đòi hỏi tất yếu và cấp bách của tình hình thế giới,
đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VII (tháng 6-1991) đã đề ra chủ
trương "mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ kinh tế đối ngoại trên
nguyên tắc giữ v
ững độc lập, chủ quyền, bình đẳng cùng có lợi". Với đường
lối đổi mới toàn diện và hội nhập kinh tế quốc tế đúng đắn phù hợp với xu
thế của thời đại của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước ta trong những năm
qua đã đạt được những kết quả rất quan trọng, bước đầu ổn định về chính trị
và phát triển nền kinh tế. Quan hệ đối ngoại càng ngày càng được mở rộng
vị thế quốc tế của ta ngày càng được nâng cao. Chúng ta có thêm thế lực, có
khả năng và cơ hội để tiếp tục phát triển trong những năm tới. Ngày 22/11
theo quyết định của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam nước ta gửi đơn
xin gia nhập WTO. Nước ta đã hoàn tất giai đoạn minh bạch hóa chính sách,
trả
lời các câu hỏi về chính sách kinh tế thương mại, đầu tư mà các nước
thành viên của WTO đặt ra. Hiện nay, chúng ta đang chuẩn bị cho các phiên
họp và các vòng đàm phán tiếp theo, phấn đấu đến năm 2005 chúng ta được
công nhận là thành viên chính thức của WTO. Do vậy yêu cầu tìm hiểu về
WTO và những nguyên tắc hoạt động cơ bản của nó, tìm hiểu và chỉ ra
những biện pháp, kiến nghị đối với mỗi học viên là cực kỳ quan trọng, do
vậy em đã làm đề tài: " WTO và những vấn đề Việt Nam cần giải quyết
để trở thành thành viên của WTO". Vì thời gian có hạn nên bài viết của
em còn nhiều hạn chế, kính mong thầy giáo bổ sung để bài viết của em được
hoàn thiện h
ơn.
Em xin chân thành cảm ơn!.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ WTO
I. HỆ THỐNG WTO VÀ QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TOÀN CẦU
1.1. Lịch sử thành lập AGTT:
Trong những năm ngay sau Đại chiến thế giới thứ hai các nước đã có
những cố gắng quan trọng ban đầu để thông qua các quy tắc điều chỉnh các
quan hệ thương mại quốc tế.
Những cố gắng này đã dẫn đến việc thông qua Hiệp định chung về
thuế quan và thương mại (mà sau này thường được gọi là AGTT) vào năm
1948. Các quy tắc của AGTT áp dụng cho th
ương mại quốc tế về hàng hóa.
Qua các năm sau, văn bản của AGTT đã được sửa đổi để bao gồm thêm
nhiều điều khoản mới, đặc biệt để xử lý các vấn đề vướng mắc trong thương
mại của các nước đang phát triển. Ngoài ra nhiều hiệp định kèm theo chi tiết
hóa một số điều khoản chính của AGTT cũng đã được thông qua.
1.2. Các cuộc
đàm phán thương mại của vòng đàm phán Urugoay
Các quy tắc của AGTT và các hiệp định kèm theo sau này đã được
sửa đổi thêm và cập nhật để đáp ứng các điều kiện đang thay đổi của thương
mại quốc tế trong vòng đàm phán thương mại Urugoay được tổ chức từ 1986
đến 1994. Văn bản của AGTT, cùng các quyết định thông qua trong khuôn
khổ AGTT trong các năm sau đó và các văn kiện giải thích được thiết lập
trong vùng đàm phán Urugoay, về sau được gọi là AGTT 1994. Các Hiệp
định riêng rẽ cũng đã được thông qua cho các lĩnh vực như nông nghiệp,
hàng dệt, trợ cấp, chống bán phá giá, biện pháp tự vệ và các vấn đề khác,
cùng với AGTT 1994, chúng tạo thành các văn kiện cấu thành các hiệp định
đa biên về thương mại hàng hóa. Vòng đàm phán Urugoay cũng đã dẫn đến
vi
ệc thông qua các quy tắc mới điều tiết thương mại dịch vụ và các khía
cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
Một trong những thành tựu khác nữa của vòng đàm phán Urugoay là
việc thành lập WTO, AGTT, khuôn khổ các cuộc đàm phán này, đã không
còn là một tổ chức riêng biệt nữa mà được nhập vào WTO.
1.3. Hệ thống WTO
Hệ thống WTO hình thành từ vòng đàm phán Urugoay giờ đây bao
gồm các hi
ệp định chính sau đây.
* Các hiệp định đa biên về thương mại hàng hóa bao gồm cả Hiệp
định chung về thuế quan và thương mại (AGTT 1994) và các Hiệp định kèm
theo.
* Hiệp định chung về mục tiêu dịch vụ (AGTT)
* Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở
hữu trí tuệ (TRIPS).
WTO chịu trách nhiệm giám sát việc thực hiện các Hiệp định này. Tổ
chức này cũng
đóng vai trò là diễn đàn đàm phán giữa các nước nhằm tự do
hóa hơn nữa thương mại hàng hóa và thương mại dịch vụ. Nó cũng đưa ra
một cơ chế giải quyết tranh chấp thương mại giữa các nước thành viên. Bất
cứ nước thành viên nào cho rằng thương mại của mình bị ảnh hưởng bất lợi
vì một nước khác không tuân thủ các quy tắc, nếu không đi đến một giả
i
pháp thỏa đáng thông qua tham vấn song phương, có thể đưa ra WTO để
giải quyết.
Mọi vấn đề quan trọng cuộc thẩm quyền của WTO được quyết định
tại Hội nghị Bộ trưởng các nước thành viên. Hội nghị hai năm họp ít nhất 1
lần.
1.4. WTO và kinh tế toàn cầu
Hệ thống tồn tại trước WTO, cụ thể là AGTT, trước đây đôi khi được
coi là một câu lạ
c bộ của những người giàu vì người ta có cảm giác rằng
nhiệm vụ của nó trước hết là để phục vụ cho lợi ích của các nước phát triển
giàu có. Vào thời điểm khởi động vòng đàm phán thương mại Urugoay
(1986), chỉ có một nhóm nhỏ các nước đang phát triển tỏ ra quan tâm đến
công việc của AGTT thông qua việc đặt các phái đoàn đại diện thường trú ở
Giơnevơ. Tuy vậy, tình hình đ
ã thay đổi cơ bản sau khi vòng đàm phán được
khởi động. Vào thời gian vòng đàm phán kết thúc và AGTT chuyển đổi
thành tổ chức thương mại thế giới, ngày càng nhiều quốc gia đang phát triển
và đang tham gia vào cuộc đàm phán và thảo luận, đa phần các nước này đã
thiết lập các phái đoàn đại diện thường trú tại Giơnevơ. Ngoài ra, tiếp theo
sự sụp đổ của khối cộng sả
n, nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi đã bắt đầu
xin gia nhập WTO. Hiện tại 134 nước là thành viên của WTO. Ngoài ra, 30
nước đang phát triển và có kinh doanh chuyển đổi đang đàm phán xin gia
nhập.
Điều gì đã dẫn đến thay đổi về thái độ đối với tư cách thành viên
WTO và tại sao các nước lại tỏ ra quan tâm hơn đến hệ thống thương mại
dựa trên qui tắc xuất hiện sau vòng đ
àm phán Urugoay như vậy? có 3 lý do
chính sau:
Lý do trước hết liên quan đến tốc độ toàn cầu hóa của nền kinh tế thế
giới thông qua thế giới quốc tế và luồng lưu chuyển vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Những sự thay đổi mang tính cách mạng diễn ra trong giao
thông vận tải và thông tin liên lạc ngày nay thậm chí đã giúp cả các nhà sản
xuất nhỏ ở các nước đang phát triển có thể tìm kiếm tt cho các sản phẩm của
mình ở những nước cách xa hàng nghìn dặm. Như một số nhà quan sát nhận
xét, các phương tiện vận tải hàng hóa đã biến toàn bộ thế giới thành một
"làng toàn cầu".
Lý do thứ hai là quá trình toàn cầu hóa này đã làm tăng s
ự lệ thuộc
của các nước vào thương mại quốc tế lại càng được đẩy nhanh hơn nữa do
việc chuyển đổi các chính sách kinh tế, thương mại được ghi nhận ở hầu hết
các nước. Sự sụp đổ của khối cộng sản đã dẫn tới việc áp dụng dần dần các
chính sách mang định hướng thị trường ở hầu hết các nước trướ
c đây nhằm
kiểm soát nền sản xuất và thương mại quốc tế. Những nước này, trước đây
chủ yếu buôn bán với nhau, nay đang càng ngày tăng cường buôn bán rộng
rãi hơn với thế giới.
Nhiều nước đang phát triển đã từ bỏ chính sách thay thế nhập khẩu và
giờ đây đang theo đuổi các chính sách hướng về xã hội, theo các chính sách
đó các nước này tìm cách thúc đẩy tăng trưở
ng kinh tế bằng các xã hội ngày
càng nhiều các sản phẩm của mình.
Thứ ba, là những chính sách thương mại tự do và thông thoáng và các
biện pháp các nước đang áp dụng để khuyến khích đầu tư trực tiếp nước
ngoài đã khích lệ các công ty đã quốc gia tìm mua linh kiện và các sản phẩm
trung gian từ các nước có giá thành thấp hơn và thiết lập và cơ sở sản xuất ở
nước đó. Do vậy, các sản phẩm có trên thị tr
ường hiện nay dù đó là các sản
phẩm tiêu dùng như quần áo may sẵn, hay các sản phẩm tiêu dùng lâu bền
như tủ lạnh và điều hòa không khí, hay cả hàng tư liệu sản xuất, ngày càng
được sản xuất , ngày càng được sản xuất thông qua các công đoạn thực hiện
không chỉ ở phạm vi một quốc gia, chứng cứ cụ thể của toàn cầu hóa kinh tế
thế giới và tính lệ thuộc ngày càng tăng của các nước vào ngoại thương đã
được đưa ra trong một quảng cáo gần đây của một công ty đa quốc gia
chuyên sản xuất đồ điện gia dụng; doanh nghiệp này tự hào tuyên bố là sản
phẩm của họ được chế tạo từ các cấu kiện sản xuất ở năm đến sáu quốc gia
khác nhau.
Sự lệ thuộc ngày càng t
ăng này vào ngoại thương, dù là nhà xuất khẩu
hay nhập khẩu của các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, đã làm cho các Chính
phủ và các doanh nghiệp nhận thức được vai trò quan trọng của hệ thống
thương mại đa biên trong việc bảo vệ các lợi ích thương mại của họ. Hệ
thống dựa trên quy tắc này đảm bảo cho sản phẩm của họ tiếp cận thị trường
nước ngoài s
ẽ không đột nhiên bị gián đoạn bởi các biện pháp của các Chính
phủ như tang thuế nhập khẩu hay áp đặt các quy định cấm nhập hay hạn chế
nhập khẩu. Hệ thống này tạo điều kiện cho hàng hóa tiếp cận thị trường
nước ngoài ổn định và an toàn làm cho các doanh nghiệp có thể đặt kế hoạch
và phát triển sản xuất xuất khẩu mà không phải lo sợ sẽ mất thị
trường nước
ngoài do các hàng đóng hạn chế của các chi phí. Ngoài ra, điều còn ít người
biết đến là hệ thống này còn tạo những quyền nhất định cho các doanh
nghiệp. Hầu hết những quyền này là đối với Chính phủ nước mình, một số
quyền của họ có thể sử dụng đối với các Chính phủ nước ngoài.
Vì vậy, khuôn khổ các quyền và nghĩa vụ mà hệ thống WTO đã tạ
o ra
đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển thương mại trong bối cảnh
kinh tế thế giới đang nhanh chóng toàn cầu hóa.
Khả năng của các Chính phủ và các doanh nghiệp tận dụng lợi ích của
hệ thống này tùy thuộc rất lớn và kiến thức và hiểu biết về các quy tắc của
hệ thống và về những thuận lợi và những thách thức mà hệ thống này tạo ra.
1.5. Mục tiêu và nguyên tắ
c WTO
* Mục tiêu cơ bản của GATT, tổ chức đề ra các nguyên tắc đa phương
về thương mại hàng hóa là nhằm để tạo ra một hệ thống thương mại tự do và
thông thoáng nhờ đó các doanh nghiệp từ các nước thành viên có thể buôn
bán với nhau trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh. Mặc dù các quy tắc chi
tiết của GATT và các hiệp định kèm theo xem có vẻ phức tạp và các thuật
ngữ pháp lý của chúng thường khó hiể
u, chúng thường được dựa trên một số
ít nguyên tắc và quy tắc đơn giản. Trong thực tế khuôn khổ của GATT được
dựa trên bốn quy tắc cơ bản.
- Bảo hộ ngành sản xuất trong nước thông qua thuế quan
Mặc dù GATT được tạo ra là nhằm để dần dần tự do hóa thương mại,
GATT thừa nhận rằng các nước thành viên có thể sẽ phải bảo vệ sản xuất
trong nước ch
ống lại cạnh tranh nước ngoài. Tuy vậy GATT yêu cầu các
nước tiến hành việc bảo hộ đó thông qua hệ thống thuế quan. Việc sử dụng
các biện pháp hạn chế định lượng đều bị cấm trừ trong một số trường hợp
hạn chế.
- Ràng buộc thuế quan
Các nước đều được thúc giục cắt giảm, và ở đâu có thể, thì loại bỏ bảo
hộ
các rào cản thương mại khác trong đàm phán thương mại đa biên. Thuế
quan được cắt giảm như vậy bị buộc không được tăng lên nữa bằng cách bị
liệt kê vào trong danh mục cam kết quốc gia của mỗi nước. Các danh mục
này là một bộ phận không tách rời hệ thống pháp lý của GATT.
- Đãi ngộ tối huệ quốc
Quy tắc quan trọng này của GAT đặt ra nguyên tắc không phân biệt
đối xử
. Quy tắc này đòi hỏi là thuế quan và cách quy định khác sẽ được áp
dụng đối với hàng hóa nhập khẩu hay xuất khẩu mà không được phân biệt
đối xử giữa các nước. Như vậy quy tắc này không để cho một nước đánh
thuế quan vào hàng hóa nhập khẩu từ một nước này với thuế suất cao hơn
thuế suất được áp dụng cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước khác. Tuy vậy,
có những ngoại lệ đối với quy tắc này. Thương mại giữa các nước thành
viên của các thỏa thuận thương mại khu vực, được hưởng thuế suất ưu đãi
hay được miễn thuế, là một ngoại lệ. Một ngoại lệ khác tạo ra qua hệ thống
ưu đãi thuế quan phổ cập, theo hệ
thống này, các nước phát triển áp dụng
thuế suất ưu đãi hoặc miễn thuế cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước đang
phát triển, nhưng lại áp dụng thuế suất MFN cho hàng hóa nhập khẩu từ các
nước khác.
- Quy tắc đãi ngộ quốc gia:
Trong khi quy tắc MFN cấm các nước phân biệt đối xử đối với hàng
hóa có xuất xứ từ các nước khác nhau, thì quy tắc đãi ngộ quốc gia lại c
ấm
các nước phân biệt đối xử giữa các sản phẩm nhập khẩu và các sản phẩm
được tự sản xuất trong nước cả trong việc đánh các loại thuế nội địa áp dụng
các quy định trong nước.
Như vậy quy tắc này không để cho một nước, khi một sản phẩm đã
vào thị trường nước đó sau khi đã trả thuế nhập khẩu, được phép đánh mộ
t
loại thuế nội địa. Ví dụ như thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng (VAT)
với mức thuế cao hơn mức thuế đánh vào một sản phẩm có xuất xứ của
chính nước đó.
* Các quy tắc áp dụng chung
Bốn quy tắc cơ bản được miêu tả ở trên được bổ sung thêm bằng các
quy tắc áp dụng chung để điều tiết hàng hóa thâm nhập vào lãnh thổ hải
quan củ
a một nước nhập khẩu. Những quy tắc này bao gồm những quy tắc
sau mà các nước phải tuân thủ:
- Trong việc xác định trị giá chịu thuế của hàng hóa nhập khẩu thì
thuế quan được thu trên cơ sở đánh theo giá trị hàng hóa.
Trong việc áp dụng các tiêu chuẩn sản phẩm bắt buộc và quy định về
vệ sinh dịch tễ với hàng hóa nhập khẩu.
- Trong việc cấp giấy phép nhập khẩu
* Các quy tắc khác:
Việc trợ cấp của Chính phủ
Các biện pháp mà Chính phủ thông thường được phép áp dụng nếu
được một số ngành sản xuất yêu cầu và các biện pháp đầu tư có thể ảnh
hưởng có hại cho thương mại.
II. WTO MỤC TIÊU, CHỨC NĂNG VÀ CƠ CẤU
2.1. Mục tiêu và nhiệm vụ
WTO là một nhân tố bao trùm, chịu trách nhiệm giám sát việc thực
hiện tất cả các. Hiệp định đa biên và nhiều bên đã được đàm phán ở vòng
Urugoay và những Hiệp định sẽ được đàm phán trong tương lai. Những mục
tiêu cơ bản của WTO cũng tương tự như những mục tiêu của GATT, và
GATT nay đã chuyển thành WTO. Đó là:
Nâng cao mức sống, thu nhập, đảm bảo
đầy đủ việc làm mở rộng sản
phẩm và thương mại và tạo điều kiện để sử dụng tối ưu các nguồn lực của
thế giới (GATT) và:
- Thương mại dịch vụ
- Nhu cầu thúc đẩy sự "phát triển bền vững" bảo vệ giữ gìn môi
trường phù hợp với các nước phát triển khác nhau và mỗi quốc gia.
- Nhu cầu phải có những nỗ lự
c tích cực để đảm bảo rằng các nước
đang phát triển, đặc biệt là những nước kém phát triển nhất, có được tỷ trọng
tăng trưởng lớn hơn trong thương mại quốc tế.
2.2. Chức năng
- WTO tạo điều kiện cho việc thực thi, điều hành và hoạt động của các
công cụ pháp lý của vòng đàm phán Urugoay và của bất kỳ Hiệp định mới
nào được đàm phán trong tương lai.
- WTO là diễn đàn để các nước thành viên tiếp tục đàm phán về các
vấn đề nêu trong các hiệp định, về các vấn đề mới phát sinh trong quyền hạn
của mình và về việc mở rộng tự do hóa thươ
ng mại.
- WTO có trách nhiệm giải quyết tranh chấp và bất đồng giữa các
quốc gia thành viên.
- WTO có trách nhiệm thực hiện việc rà soát thường kỳ chính sách
thương mại của các quốc gia thành viên.
2.3. Cơ cấu của WTO:
* Cơ quan đầu não của WTO, có trách nhiệm đưa ra các quyết định là
hội nghị bộ trưởng họp 2 năm một lần . Kể từ khi thành lập WTO đến nay đã
có 3 cuộc họp hội nghị B
ộ trưởng: cuộc họp đầu tiên được tổ chức tại
Singapore tháng 12/1996, cuộc họp thứ hai tại Cnoneva tháng 5/1998 và
cuộc họp thứ ba tại Seatle 30/11 đến 3/12/1999.
- Trong thời gian 2 năm giữa hai hội nghị, đại hội đồng sẽ thực hiện
các chức năng của hội nghị.
- Khi xem xét các khiếu kiện, đại hội đồng sẽ họp với tư cách là cơ
quan giải quyết tranh chấp giữ
a các quốc gia thành viên. Đại hội đồng cũng
có trách nhiệm thực hiện việc rò soát chính sách thương mại của từng quốc
gia trên cơ sở các báo cáo do ban thư ký của WTO soạn thảo.
Hoạt động của đại hội đồng được hỗ trợ bởi các tổ chức sau:
- Hội đồng thương mại hàng hóa, giám sát việc thực thi và hoạt động
của GATT 1994. ủy ban về:
+ Tiếp cận thị trường.
+ Nông nghiệp
+ Các biện pháp vệ sinh và kiểm dịch
+ Các hàng rào kỹ thuật đối với thương mại
+ Trợ cấp và các biện pháp đối kháng
+ Hành vi chống phá giá
+ Trị giá hải quan
+Quy tắc xuất xứ
+ Cấp phép nhập khẩu
+ Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại
+ Các biện pháp tự vệ
- Hội đồng về các khía cạnh đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Hội
đồng thương mại hàng hóa
ủy ban về:
+ Thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
+ Những cam kết cụ thể
* Quá trình ra quyết định:
Hiệp định quy định là WTO sẽ tiếp nối tập quán ra quyết định của
GATT, tức là theo phương pháp đồng thuận. Điều này có nghĩa là khi một
quyết định được đưa ra, không có nước nào bỏ phiếu trống.
Khi không đạt được sự đồng thu
ận, hiệp định WTO cho phép quyết
định được thông qua bằng đa số phiếu. Mỗi quốc gia có quyền bỏ 1 phiếu.
Mặc dù có điều kiện này song những quyết định về tất cả các vấn đề
chính sách quan trọng (như vậy bắt đầu đàm phán về một lĩnh vực chưa
được các công cụ pháp lý của WTO điều chỉnh) nói chung đều phải được
thông qua bằng đồng thu
ận. Quy tắc đồng thuận này nhằm ngăn chặn "sự
chuyển biến của đa số", đặc biệt khi có một nhóm đồng ý kiến phản đối
mạnh mẽ quyết định được đưa ra.
Tuy nhiên cũng có một vài trường hợp quy định yêu cầu bỏ phiếu đặc
biệt.
* Ban thư ký của WTO
WTO đặt trụ sở tại Geneva, Thụy Sĩ. Đứng đầu WTO là Tổng giám
đốc. Giúp việc cho Tổng giám đốc là ba phó Tổng giám đốc, các phó tổng
giám đốc do Tổng giám đốc bổ nhiệm sau khi tham khảo ý kiến của các
quốc gia thành viên.
Ban thư ký của WTO gồm 500 người thuộc các quốc tịch khác nhau.
Để thực hiện nhi
ệm vụ của mình, Tổng giám đốc và nhân viên của WTO
không được "xin hay chấp thuận sự chỉ đạo của bất kỳ Chính phủ hay tổ
chức nào ngoài WTO" và do đó, duy trì được đặc trưng quốc tế của ban thư
ký.
* Tư cách thành viên:
Cho đến 31/5/1999, WTO có 134 thành viên:
Các nước chưa phải là thành viên của WTO có thể trở thành thành
viên thông qua đàm phán để gia nhập. Trong các cuộc đàm phán này, các
nước phải đồng ý thực hiện các bước để đư
a hệ thống luật pháp của mình
phù hợp với các quy tắc của các hiệp định đa biên. Hơn nữa, họ phải cam kết
giảm thuế quan và sửa đổi luật pháp để tăng khả năng thâm nhập thị trường
của hàng hóa và dịch vụ nước ngoài. Các cam kết này thường được coi là cái
giá của "vé vào cửa" cho phép nước gia nhập được hưởng lợi trên cơ sở chí
tối huệ quốc, từ
toàn bộ cam kết cắt giảm thuế quan và các cam kết của các
nước thành viên trong quá khứ. Hiện đang có 30 nước tiến hành đàm phán
gia nhập WTO.
* Phân loại các thành viên WTO:
Hệ thống WTO có phân biệt 4 nhóm các nước thành viên: phát triển,
đang phát triển, kém phát triển nhất là các nền kinh tế chuyển đổi tại hội
nghị Bộ trưởng Giơnevơ năm 1998, lần đầu tiên đề cập tới "một số nền kinh
tế nhỏ bé" trong khuôn khổ nhóm các nước đang phát triển".
Tất cả chính sách nước do Liên hiệp quốc xếp hạng là "kém phát triển
nhất" được đối xử như các nước kém phát triển nhất là trong hệ thống WTO.
Hiện tại có 48 nước thuộc nhóm này. Tuy nhiên chưa có định nghĩa thống
nhất và chính xác xem các nướ
c còn lại thuộc nhóm nào. Việc xác định một
quốc gia "đang phát triển" được thực hiện theo nguyên tắc "tự nhân". Những
nước trong quá khứ có nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung chủ yếu thuộc
Đông và Trung Âu và Liên Bang Xô viết cũ) và hiện nay đang từng bước
chuyển sang kinh tế thị trường và dân chủ hóa được đối xử như những nền
kinh tế chuyển đổi. Những thành viên còn lại được coi là nh
ững nước phát
triển.
- Các điều khoản về đối xử đặc biệt và các khác biệt đối với các nước
đang phát triển và các nước kém phát triển nhất.
Các hiệp định đa biên nhận thấy các nước đang phát triển kể cả các
nước kém phát triển nhất, có thể gặp khó khăn trong việc chấp nhận tất cả
hoặc một số nghĩa vụ và quy định đề ra các Hi
ệp định này đã quy định dành
đối xử đặc biệt và khác biệt cho các nước trên. Các điều khoản đó có thể sơ
bộ chia làm 3 loại:
- Các điều khoản yêu cầu các nước (phát triển và đang phát triển) thực
hiện các biện pháp tạo thuận lợi cho thương mại của các nước đang phát
triển và kém phát triển.
- Sự linh hoạt của các nước đang phát triển và kém phát triển nhất
trong việ
c chấp nhận các nghĩa vụ do các Hiệp định WTO.
- Cung cấp trợ giúp kỹ thuật cho các nước đang phát triển và kém phát
triển nhất để xây dựng năng lực cho các nước này thực hiện các hiệp định.
* Các thủ tục giải quyết tranh chấp
Hệ thống WTO đưa ra cơ chế giải quyết tranh chấp khi một nước phát
triển một nước khác vi phạm các quy tắc và sau khi mọi nỗ lực tìm kiếm các
giải pháp thoải đáng thông qua tham vấn song phương thất bại tranh chấp
trong khuôn khổ WTO thông thường là kết quả các thông tin về những khó
khăn gặp phải khi tiếp thị sản phẩm tại các thị trường nước ngoài do các
ngành sản xuất hay hiệp hộ
i ngành cung cấp cho Chính phủ.
Mặc dù trong suốt quá trình giải quyết tranh chấp - tham vấn song
phương, kiểm tra của Ban hội thẩm và sau đó là cơ quan phúc thẩm. Các đại
diện Chính phủ là người tham gia vào các quá trình này, nhưng các cơ quan
này chủ yếu dựa vào tư vấn và sự ủng hộ từ ngành sản xuất và các hiệp hội
có quyền lợi trong vấn đề đưa ra tranh chấp. Khả năng của các Chính phủ
theo đuổi m
ột vụ khiếu kiện hay bảo vệ các quyền lợi trong trường hợp bị
kiện, phụ thuộc lớn vào sự trợ giúp và ủng hộ của các nhóm ngành sản xuất
có liên quan.
* Cơ chế và chính sách thương mại
Ngoài việc đưa ra một cơ chế giải quyết tranh chấp, WTO hoạt động
như một diễn đàn để rà soát theo định kỳ chính sách thương mại của các
nước thành viên. Hoạ
t động rà soát là nhằm đạt được hai mục tiêu. Thứ nhất,
để đánh giá mức độ tuân thủ các yêu cầu và cam kết theo các Hiệp định đa
biên của từng quốc gia thành viên, và nếu tham gia các Hiệp định nhiều bên
thì kể các các hiệp định nhiều bên. Bằng cách thực hiện những rà soát như
vậy một cách định kỳ, WTO hành động như một "bộ máy giám sát" nhằm
đảm bảo là các quy tắc được tuân thủ và như vậ
y góp phần ngăn chặn xung
đột thương mại. Các điều khoản quy định về cơ chế rà soát, tuy nhiên cũng
nêu rõ là cơ chế rà soát không phải sử dụng làm cơ sở để thực thi các nghĩa
vụ; hay để giải quyết tranh chấp. Thứ hai, mục tiêu không kém phần quan
trọng của phần rà soát này là tạo nên sự minh bạch và sự hiểu biết hơn về
các chính sách và hoạt động thương mại của các nước thành viên.
III. NHỮNG LỢI ÍCH CỦA HỆ THỐNG WTO ĐỐI VỚI GIỚI KINH DOANH
Mối liên hệ giữa hệ thống WTO và những quyết định mà các ngành
sản xuất và doanh nghiệp đưa ra trong hoạt động thương mại quốc tế là gì?
Khi xem xét vấn đề này cần phải lưu ý một điều là cách Chính phủ đã phải
đàm phán cải thiện khả năng, tiếp cận thị trường sao cho các doanh nghiệp
có thể biến các nhượng bộ thương mại thành các cơ hội kinh doanh mục tiêu
c
ủa thương mại dựa trên nguyên tắc này là đảm bảo cho thị trường luôn
được mở cửa và việc tiếp cận thị trường không bị cản trở bởi những biện
pháp hạn chế nhập khẩu độc đoán và không được báo trước.
Tuy vậy, cộng đồng doanh nghiệp ở nhiều nước đang phát triển vẫn
chưa hoàn toàn ý thức được lợi thế của hệ thống th
ương mại WTO. Lý do
chính là do quá phức tạp của hệ thống, cho tới nay điều này đã cản trở các
cộng đồng doanh nghiệp quan tâm và làm quan với những luật lệ và quy tắc
của hệ thống thương mại thế giới. Ví dụ như họ không hiểu được rằng hệ
thống luật pháp đó không chỉ đem lại lợi ích cho các ngành sản xuất và các
doanh nghiệp mà còn tạo ra những quyền l
ợi cho họ.
3.1. Những lợi ích đối với cộng đồng doanh nghiệp
* Lợi ích đối với các nhà xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
- Đảm bảo tiếp cận thị trường
Đối với thương mại hàng hóa trong khuôn khổ WTO, hầu hết các
dòng thuế của các nước phát triển và đa số các dòng thuế của các nước đang
phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi bị ràng buộc không tăng thêm. Đi
ều
đó đảm bảo rằng việc tiếp cận thị trường được thuận lợi hơn do việc giảm
thuế đã được cam kết và ràng buộc trong danh mục nhượng bộ của các nước
nhập khẩu áp dụng các biện pháp hạn chế khác. Đối với thương mại dịch vụ
các nước thành viên đã cam kết không hạn chế việc xâm nhập các sản phẩm
dịch vụ, và các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài hơn nữa những điều kiện
và hạn chế đã ghi được trong danh mục cam kết của nước mình.
Việc tiếp cận thị trường được đảm bảo bằng các cam kết giúp các nhà
xuất khẩu đưa ra chính sách đầu tư và sản xuất với sự ch
ắc chắn hơn.
- Sự ổn định cho việc tiếp cận thị trường.
Hệ thống cũng đảm bảo sự ổn định cho việc tiếp cận thị trường xuất
khẩu thông qua việc yêu cầu tất cả các nước thành viên áp dụng một hệ
thống các quy định thống nhất được cụ thể hoá thông qua hàng loạt các Hiệp
định. Do đó các nước có nghĩa vụ đả
m bảo rằng các quy định về xác định trị
giá tính thuế hải quan, về việc kiểm định hàng hóa phù hợp với tiêu chuẩn
bắt buộc, hoặc về việc cấp giấy phép nhập khẩu, đều phải phù hợp với các
điều kiện của các Hiệp định liên quan.
- Lợi ích đối với các nhà nhập khẩu nguyên liệu thô và các sản phẩm
đầu vào khác.
Các doanh nghiệp thường phải nhập khẩu nguyên li
ệu thô các sản
phẩm và dịch vụ trung gian cho mục đích sản xuất hàng xuất khẩu. Nguyên
tắc cơ bản yêu cầu cho phép được nhập khẩu mà không được áp dụng thêm
các hạn chế nào ngoài thuế, đồng thời yêu cầu các quy định quốc gia áp
dụng tại biên giới phù hợp với các nguyên tắc thống nhất của các hiệp định
giúp cho nhập khẩu được thuận lợi hơn. Điều này giúp các ngành công
nghiệ
p sản xuất hàng xuất khẩu sự đảm bảo rằng họ có thể có được loại hàng
mình yêu cầu mà không bị chậm trễ và với mức giá cạnh tranh. Hơn nữa, các
cam kết ràng buộc về thuế quan đảm bảo cho các nhà nhập khẩu rằng chi phí
nhập khẩu sẽ không bị tăng do việc đánh thuế quan cao hơn mức đã cam kết
ràng buộc.
3.2. Quyền của cộng đồng kinh doanh
Ngoài việc thu được những thuận lợi thì hệ thống luật pháp đã tạo ra
một số quyền nhất định có lợi cho doanh nghiệp. Những quyền lợi có thể
chia làm hai nhóm:
Quyền của các nhà sản xuất và nhập khẩu trong nước:
Nhiều hiệp định yêu cầu luật pháp của các quốc gia thành viên tạo ra
những quyền nhất định cho các nhà sản xuất và nhập khẩu trong nước.
Chính phủ buộc ph
ải thi hành các quyền này trong khuôn khổ hệ thống luật
pháp của mình. Đối với những quyền khác Chính phủ chỉ được yêu cầu nỗ
lực cao nhất để đảm bảo các liên quan được hưởng lợi ích đầy đủ các quyền
đó.
Các quyền có thể thực thi bao gồm các quyền theo quy định của Hiệp
định xác định trị giá tính thuế hải quan, trong đó yêu cầu Chính phủ các
quốc gia thành viên phải đảm bảo về
mặt luật pháp cho các nhà nhập khẩu
về những quyền sau:
Biện minh trị giá đã khai báo khi hải quan tỏ ra nghi ngờ về tính trung
thực hoặc sự chính xác của trị giá khai báo đó.
- Yêu cầu cán bộ hải quan đưa ra dưới hình thức văn bản lý do không
chấp nhận giá trị khai báo, để họ có thể khiếu nại với cơ quan chức trách về
quyết định đó.
Những yêu cầu Chính phủ các nướ
c thành viên nỗ lực cao nhất bao
gồm cả những quyền trong Hiệp định về cấp phép nhập khẩu trong đó yêu
cầu giấy phép nhập khẩu phải được cấp trong một khoảng thời gian nhất
định từ khi nhận được đơn yêu cầu. Trong ví dụ này, trừ khi luật pháp quốc
gia quy định khác thì nhà nhập khẩu có quyền được bảo đảm nhận giấy phép
trong phạm vi thời gian đã được công b
ố.
Khiếu nại về quyền nói trên thường tùy thuộc vào những điều kiện mà
các ngành sản xuất hoặc doanh nghiệp trong nước phải đáp ứng. Ví dụ như
đã nêu ở phần trên, một ngành sản xuất có thể yêu cầu chính phủ phải áp
dụng các biện pháp tự vệ, hoặc đánh thuế chống bán phá giá hoặc thuế đối
kháng nếu ngành sản xuất đó đáp ứng được các yêu cầu của cơ quan điều tra
rằng kiến nghị của họ được ủng hộ của các nhà sản xuất chiếm tỷ trọng lớn
về
sản lượng trong ngành công nghệ đó. Các cơ quan điều tra phải xác định
chính xác xem đề nghị đưa ra có đáp ứng yêu cầu nói trên không trước khi
tiến hành điều tra.
* Quyền của các doanh nghiệp xuất khẩu:
Một ví dụ về quyền của các doanh nghiệp xuất khẩu được quy định
trong các Hiệp định là quyền được đưa ra các bằng chứng trong quá trình
điều tra ở nước nhập khẩu v
ề việc đánh giá thuế chống bán phá giá hoặc
thuế đối kháng. Trường hợp cơ quan chức năng của nước nhập khẩu không
tôn trọng quyền của họ, các doanh nghiệp xuất khẩu không thể tiếp xúc trực
tiếp để đòi khắc phục vấn đề đó. Các doanh nghiệp đó cần phải nêu vấn đề
với Chính phủ nước nhập khẩu và nếu cần thiế
t đưa vấn đề ra giải quyết theo
thủ tục WTO về giải quyết tranh chấp.
PHẦN II
NHỮNG ẤN ĐỀ VIỆT NAM CẦN GIẢI QUYẾT ĐỂ
TRỞ THÀNH THÀNH VIÊN CỦA WTO
Qua phần tổng quan về WTO chúng ta biết được rằng hệ thống WTO
là một hệ thống phức tạp, với những quy tắc quy chế và các hiệp định rất đa
dạng và phong phú.
Trong hệ thống WTO này chứa đựng nhiều những quy tắc bắt buộc
mà những quốc gia muốn gia nhập hay có thể tồn tại được trong hệ thống
này phải tuân thủ. Những quy tắc này không thể một sớ
m một chiều có thể
thực hiện được. Bằng chứng là Việt Nam xí nghiệp gia nhập WTO vào tháng
1/1995 thế nhưng đến nay, 2004 Việt Nam cũng chưa đủ điều kiện để có thể
gia nhập được vào tổ chức này.
Việt Nam đã từng bước khắc phục những yếu kém, cũng như những
thiếu sót và hạn chế trong hệ thống luật pháp, hệ thống quản lý kinh tế
, các
quy định về thuế về trợ cấp xuất khẩu, về các luật thương mại…
Còn rất nhiều những hạn chế mà Việt Nam cần phải thay đổi và cũng
cùng thời gian đó để các doanh nghiệp Việt Nam chuẩn bị đầy đủ những yếu
tố cần thiết để có thể tồn tại và phát triển được trong một thế giới cạnh tranh
gay gắt vớ
i các sản phẩm từ nước ngoài vào Việt Nam.
1.1. Việt Nam phải mở cửa thị trường hàng hóa và dịch vụ
Tức là hàng hóa của các nước cùng thành viên WTO được vào Việt
Nam mà với mức thuế nhập khẩu rất thấp.
Được biết tháng 12/2000, Việt Nam đã trình WTO bản chào đầu tiên
về việc mở cửa thị trường, hàng hóa và dịch vụ bao gồm 96% các dòng thuế
quan và 9 ngành dịch vụ với 78 phân ngành. Bình quân đơn thuế xuất nhậ
p
khẩu của toàn bộ các sản phẩm được chào giảm xuống còn 27,8% và 32%
đối với sản phẩm nông nghiệp và 27,1% đối với sản phẩm phi nông nghiệp.
Tạo thuận lợi cho các thành viên khác thâm nhập thị trường dưới hình
thức giảm thuế nhập khẩu cho hàng nông nghiệp và công nghiệp. Hai
chương trình giảm thuế sẽ phải được thương lượng giữa Việt Nam và nhóm
làm việc về Việt Nam gia nhập WTO và sẽ được g
ắn với nghị định thư gia
nhập như là các cam kết ràng buộc phải mở cửa thị trường dịch vụ cho cá
nhà kinh doanh nước ngoài như ngân hàng, bảo hiểm, vận tải, thông tin, kỹ
thuật và tư vấn… Một chương trình riêng biệt về dịch vụ sẽ phải được đàm
phán, trong đó có việc thâm nhập thị trường dịch vụ và được đưa vào nghị
định thư gia nhậ
p của Việt Nam
1.2. Việt Nam phải cung cấp sự bảo vệ phù hợp và hiệu quả cho sở
hữu trí tuệ, thiết lập chính sách cho đầu tư nước ngoài và tiếp tục cải
cách kinh tế tuân thủ các yêu cầu của WTO
Các cuộc đàm phán của Việt Nam xin gia nhập WTO đã đạt được
những tiến triển đáng kể, đặc biệt là trong phiên đàm phán thứ năm (tháng 4
năm 2002) và phiên thứ sáu (tháng 4 năm 2003). Trong các phiên
đàm phán
đó Việt Nam và các đối tác thương mại đã trao đổi ý kiến về các vấn đề liên
quan. Việt Nam cũng đã hoàn thành và nộp cho WTO báo cáo về trợ cấp
nông nghiệp và trợ cấp sản xuất, và thông báo cho WTO về các biện pháp
phi thuế quan đang được áp dụng và chương trình cải cách pháp luật của
mình.
Phân đàm phán thứ bảy mới đây nhất diễn ra tại Geneva vào các ngày
11/11 tháng 12 năm 2003 trong phiên đàm phán này, Việt Nam đã cung cấp
cho WTO b
ản dự thảo báo cáo trong đó trả lời rất nhiều câu hỏi do các nước
thành viên đặt ra các phiên trước đây, nhất là về mở cửa thị trường hàng hóa,
dịch vụ, chương trình hành động cải cách pháp luật. Trọng tâm của đàm
phán vẫn là cắt giảm thuế quan, hạn ngạch, trợ cấp cho nông dân và xuất
khẩu nông sản. Một kết quả quan trọng đạt được của phiên đàm lần này là
ban thư ký đã soạn thảo dự báo cáo về việc Việt Nam gia nhập WTO. Ngoài
ra Việt Nam còn tiến hành đàm phán song phương với 13 nước thành viên
của WTO.
Đến thời điểm này, Việt Nam và các đối tác thương mại chưa đạt
được thỏa thu
ận về các vấn đề chủ yếu được đặt ra trong đàm phán. Để đạt
được mục tiêu trở thành thành viên của WTO vào năm 2005, Việt Nam cần
phải có những nỗ lực vượt bậc.
Việt Nam sẽ cam kết bảo vệ mức độ phù hợp về sở hữu trí tuệ tức là
Việt Nam phải đảm bảo về các lĩnh vực sau: đối tượng của sở hữu trí tu
ệ là
những phát sinh của trí óc con người. Quyền của những nhà phát minh hay
nhà sáng tạo ra các tác phẩm nghệ thuật được coi là quyền sở hữu trí tuệ.
Những quyền này bao gồm bản quyền (bảo hộ quyền của tác giả đối với ấn
phẩm và những sáng tạo nghệ thuật khác), bằng sáng chế (bảo hộ quyền của
nhà phát minh) và kiểu dáng công nghiệp (bảo hộ quyền đối với các kiểu
dáng trang trí). Quyền sở hữu trí tuệ cũng bao gồm cả thương hiệu và các
dấu hiệu khác mà thương nhân sử dụng để phân biệt sản phẩm của họ với
sản phẩm của thương nhân khác, và như vậy xây dựng sự trung thành và
thiện cảm của người tiêu dùng đối với tên mác hoặc tên hiệu của mình.
Việt Nam phải đảm bảo không được phân biệt đối xử giữa các cá
nhân, công ty nướ
c ngoài với nhau và giữa các cá nhân và tổ chức nước
ngoài với các nhân và tổ chức trong nước trong việc thụ hưởng, phạm vi và
sự duy trì các quyền sở hữu trí tuệ. Xây dựng các quyền này và được bảo vệ
bằng thủ tục pháp lý trong nước đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế.
Hệ thống pháp luật Việt Nam phải chặt chẽ công bằng bảo vệ quyền
lợi hợp pháp cho các doanh nghiệp trong nước cũ
ng như nước ngoài.Tạo
tâm lý thoải mái và an toàn cho các nhà kinh doanh nước ngoài khi tham gia
vào hệ thống kinh doanh trong nước theo tiêu chuẩn của WTO họ phải có
cảm giác được pháp luật của nước sở tại bảo vệ quyền lợi chính đáng và sự
hợp pháp của chính bản thân họ.
1.3. Chính phủ Việt Nam phải sửa đổi các quy định về đầu tư cam
kết thực hiện các nghĩa vụ quốc gia và giảm hay loại bỏ các hạn chế về
đầ
u tư nước ngoài.
Quá trình tự do hóa chính sách đầu tư nước ngoài nay là một phần
trong các chính sách kinh tế theo hướng thị trường, gồm cả tự do hóa thương
mại nới lỏng quy chế và tư nhân hóa. Các biện pháp đó gồm:
- Đơn giản hóa yêu cầu thẩm định trong phê duyệt FDI.
- Mở cửa các ngành công nghiệp cho đầu tư nước ngoài.
- Bỏ các hạn chế về cổ phần nước ngoài
- Khuyến khích các nhà đầu tư nướ
c ngoài tham gia vào quá trình tư
nhân hóa và xây dựng hạ tầng cơ sở (là hai lĩnh vực cần nhiều vốn và đầu tư
công nghiệp).
Bên cạnh đó Nhà nước còn đưa ra các biện pháp khuyến khích nhằm
thu hút FDI.
* Khuyến khích tài chính, liên quan đến việc chính phủ nước nhận đầu
tư cung cấp vốn cho nhà đầu tư nước ngoài ví dụ dưới dạng hỗ trợ đầu tư và
tín dụng trợ cấp.
* Khuyến khích về thu
ế, nhằm giảm gánh nặng về thuế cho nhà đầu tư
nước ngoài, trong nhóm này có các biện pháp như miễn thuế giảm thuế đối
với nguyên liệu, bán thành phẩm hoặc hàng tư bản nhập khẩu.
* Khuyến khích gián tiếp, nhằm tăng lợi nhuận của nhà đầu tư theo
nhiều cách gián tiếp khác nhau. Ví dụ, Chính phủ có thể cấp đất và các cơ sở
hạ tầng với giá thấp hơn giá thị tr
ường. Hoặc chính phủ có thể dành cho một
doanh nghiệp nước ngoài vị thế ưu đãi trên thị trường dưới dành ưu đãi cho
việc tiếp cận các hợp đồng của Chính phủ, vị thế độc quyền, đóng cửa thị
trường không cho các công ty khác tham gia, bảo hộ tránh cạnh tranh với
hàng nhập khẩu, hoặc dành đối xử ưu đãi đặc biệt về quy định.
Chính phủ Việt Nam phải tiếp tục cải cách kinh tế phù h
ợp với yêu
cầu của WTO. Các lĩnh vực của cải cách tương lai sẽ có thể bao gồm hệ
thống giá, cơ chế xuất nhập khẩu, hệ thống tài chính và thuế, cải cách các xí
nghiệp quốc doanh và hệ thống an toàn xã hội.
Các nghĩa vụ khác sẽ cam kết thực hiện áp dụng thống nhất cho các
chính sách thương mại trên phạm vi toàn cầu, các quyền về ngoại thương
cho các xí nghiệp các cá nhân, định ra thờ
i gian biểu cho các cải cách kinh tế
và các quy chế về hoạt động của các công ty thương mại Nhà nước.