TRƯỜNG
KHOA…………………
ĐỀ ÁN
Giải pháp hoàn thiện và phát
triển mô hình Công ty Tài
chính trong Tổng Công ty Nhà
nước ở Việt Nam
Đề án môn học
1
MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thực hiện quan điểm chỉ đạo của Đảng về vấn đề đổi mới doanh nghiệp Nhà
nước, Chính phủ đã ra các quyết định 90-91/1994/TTg thành lập các tổng Công ty
Nhà nước trên cơ sở sắp xếp lại các Tổng Công ty và liên hiệp các xí nghiệp cũ.
Trong quá trình chỉ đạo thực hiện của mình, Chính phủ luôn lưu ý đến việc kiện
toàn tổ chức bộ máy của các Tổng Công ty trong đó rất l
ưu ý đến các Công ty tài
chính.
Từ các quyết định 90 và 91/TTg, Nghị định 39/1995/CP Chính phủ đã cho
phép thành lập các Công ty Tài chính tại các Tổng Công ty có đủ điều kiện nhằm
tìm kiếm khơi thông các nguồn vốn nội bộ, thu hút vốn từ bên ngoài, quản lý và
nâng cao việc sử dụng vốn của toàn bộ các Tổng Công ty.
Cho đến nay đã có 5 Công ty tài chính như thế được thành lập là Công ty Tài
chính dầu khí, Bưu điện, Công nghiệp tàu thủy, Dệt may và Cao su. Tuy nhiên nhìn
chung cho đế
n nay, chúng đều có quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được những yêu cầu
đặt ra, vì thế phải có định hướng phát triển và hoàn thiện chúng nhằm khai thác tốt
hơn nguồn lực sẵn có của các Tổng Công ty, bản thân Công ty Tài chính và những
vấn đề khác. Việc làm này có tính chất chiến lược lâu dài, là một biện pháp rất quan
trọng để tiến đến những hình thức sản xuất lớn. Đó là điều quan tâm của toàn xã
hội, nh
ất là đối với chính phủ và bản thân các Tổng Công ty.
Những vấn đề bức xúc trên đã là điểm xuất phát để tôi chọn đề tài "Giải
pháp hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty Tài chính trong Tổng Công ty
Nhà nước ở Việt Nam”
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI:
- Nhìn nhận được một số vấn đề lý luận về Công ty Tài chính cũng như về
mô hình công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế.
- Đánh giá thực trạng hoạt động của các Công ty Tài chính trong các Tổng
Công ty Nhà nước trong thời gian qua và rút ra những bài học bước đầu.
- Nêu lên một số giải pháp và kiến nghị cơ bản để hoàn thiện mô hình.
III. PHẠM VI CỦA ĐỀ TÀI:
Đây là một nội dung lớn về vấn đề như: Hoàn thiện phát triển về cơ cấu tổ
chức, nghiệp vụ, cơ chế hoạt động. Nhưng vấn đề này nếu xem xét kỹ thì đều có thể
Đề án môn học
2
trở thành những vấnđề lớn cần nghiên cứu sâu. Vì thế trong phạm vi đề tài chỉ đề
cập chủ yếu đến vấn đề hoạt động nghiệp vụ, và các vấn đề khác liên quan chỉ đề
cập ở mức độ thấp hơn.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp được sử dụng ở đây bao gồm phương pháp luận chung cho mọi
khoa học: Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với một số phương pháp
khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê.
V. KẾT CẤU NỘI DUNG:
Xuất phát từ phạm vi đã nêu ra, kết cấu nội dung của đề tài gồm có:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung với 3 chương:
+ Chương I: Một số lý luận chung về mô hình Công ty Tài chính trong tập
đoàn kinh tế.
+ Chương II: Thực trạng hoạt động của các Công ty Tài chính trong Tổng
Công ty Nhà nước.
+ Chương III: Giải pháp hoàn thiện và phát triển mô hình Công ty Tài chính
trong Tổng Công ty ở Việt Nam.
- Phần kết luận chung.
Để có được nhữ
ng kiến thức phục vụ cho quá trình tìm hiểu này, em đã
được sự giúp đỡ của các thầy cô của khoa tiền tệ - thị trường vốn. Nhân đây em xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của thầy cô.
Hà Nội, tháng 09 năm 2003
Sinh viên
Lê Lương Hùng
Đề án môn học
3
CHƯƠNG I
MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY TÀI CHÍNH TRONG
TẬP ĐOÀN KINH TẾ.
I. KHÁI QUÁT VỀ TỔ CHỨC TÀI CHÍNH PHI NGÂN HÀNG.
1. Khái niệm về tổ chức tài chính phi ngân hàng.
Dưới sự phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính, bản thân các chủ thể
của nó cũng có những bước phát triển không ngừng. Các hoạt động của hệ thống
ngân hàng càng được mở rộng về tiền gửi, cho vay, dịch vụ thanh toán, từ các hình
thức mang tính chất ngắn hạn đến trung và dài hạn… Đồng thời chúng đã được
chuyên môn hóa theo các lĩnh vực khác nhau để
đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tuy nhiên trước sự phát triển rất mạnh của thị trường tài chính, có những
nơi, những lĩnh vực mà bản thân các ngân hàng không thể bao quát hết, vì thế
đòi hỏi phải có những tổ chức nhất định đảm nhận công việc này. Đó là các tổ
chức tài chính phi ngân hàng. “Những tổ chức này kinh doanh trong lĩnh vực tài
chính - tiền tệ, được thực hiện một số ho
ạt động ngân hàng nhưng không được
nhận tiền gửi không kỳ hạn và không cung cấp hệ thống thanh toán”.
2. Đặc điểm và vai trò.
Các tổ chức tài chính phi ngân hàng có đặc điểm khác biệt với các ngân hàng
ở chỗ: Chúng không nhận tiền gửi không kỳ hạn, chỉ được nhận tiền gửi có kỳ hạn
nhất định, không được làm các dịch vụ thanh toán như các ngân hàng. Do đó chúng
không tham gia quá trình tạo tiền gửi và không bị đi
ều hành chặt chẽ của Ngân hàng
Trung ương như các Ngân hàng Thương mại. Với đặc thù của mình, chúng đã đưa
các khoản tiết kiệm nhỏ lẻ vào phục vụ quá trình sản xuất và đời sống theo các hoạt
động thế mạnh của mình như: chứng khoán, cho vay tiêu dùng, thế chấp đồng thời
làm các dịch vụ như: môi giới, đại lý.Với những đặc thù của mình, các tổ chức tài
chính phi ngân hàng có vai trò quan trọng trong đời số
ng kinh tế - xã hội.Chúng góp
phần làm đa dạng hóa các dịch vụ, tài chính cho nền kinh tế, đem lại những lợi ích
thiết thực: tạo cơ hội sinh lời cho các nguồn tiết kiệm nhỏ lẻ thúc đẩy cạnh tranh và
tiến bộ tài chính…
Các hoạt động của các tổ chức tài chính phi ngân hàng đem lại các hợp đồng
bảo hiểm, các dịch vụ cung cấp thông tin… cho các khách hàng, giúp họ được bảo
Đề án môn học
4
vệ tài chính và phân tán rủi ro. Đây là một khía cạnh đặc thù mà các tổ chức này
đem lại.
3. Phân loại:
Nhìn chung các tổ chức tài chính phi ngân hàng chủ yếu gồm:
- Các trung gian đầu tư: Đặc trưng của loại này là huy động vốn trung và dài
hạn để đầu tư vào một số lĩnh vực. Các quỹ đầu tư bao gồm 2 loại hình cơ bản:
Công ty tài chính và các quỹ đầu tư.
- Các tổ chức tiết kiệm theo hợp
đồng: Thuộc loại hình này có các Công ty
Bảo hiểm và các quỹ trợ cấp. Tại đây, tài sản nợ của tổ chức được hình thành từ các
hợp đồng, bằng cách nhận được các khoản nộp theo định kỳ và có trách nhiệm chi
trả khi có sự kiện nảy sinh. Sự chênh lệch thời gian thu và chi tạo cơ hội cho các tổ
chức này sử dụng vốn nhàn rỗi để đầu tư.
II. CÔNG TY TÀI CHÍNH VÀ MÔ HÌNH CÔNG TY TÀI CHÍNH TRONG TẬP
ĐOÀN KINH TẾ.
1. Công ty tài chính.
1.1. Khái niệm:
Công ty tài chính là trung gian tài chính thành nguồn vốn bằng cách huy
động tiền gửi có kỳ hạn hoặc phát hành các chứng khoán nợ hay vay của các ngân
hàng. Nguồn vốn này được dùng để cho vay sản xuất tiêu dùng, thực hiện nghiệp vụ
phục vụ riêng hay thuê mua.Bản thân Công ty tài chính là một trung gian đầu tư, vì
thế một trong những nội dung quan trọng của chúng hướng tới là tham gia các hoạt
động đầu tư để thu lãi.
1.2. Các loại hình Công ty tài chính.
Căn cứ vào hoạt
động kinh doanh, Công ty tài chính được phân loại thành ba
loại hình chủ yếu:
* Các Công ty tài chính tiêu dùng: Cung ứng phần lớn vốn cho các gia đình
và cá nhân này, phục vụ mục đích mua sắm tiêu dùng. Hầu hết các khoản cho vay
đều được trả góp theo định kỳ. Loại cho vay này thường là các món nhỏ với lãi suất
cao hơn lãi suất thị trường để giảm rủi ro.
* Các Công ty tài chính bán hàng: Cung cấp tín dụng gián tiếp cho người
tiêu dùng để mua sắm các loại hàng do Công ty mẹ hay một nhà sả
n xuất nào đó
bán ra. Các Công ty tài chính này mua lại khoản nợ của người mua hàng, từ người
bán hàng và thu nợ từ người mua hàng.
Đề án môn học
5
* Công ty tài chính - thương mại: Chúng mua những khoản tiền phải thu
hoặc chiết khấu các khoản phải thu của doanh nghiệp. Các khoản phải thu này là
vốn lưu động phí dịch vụ chưa thu tiền. Ngoài cách này, các Công ty tài chính còn
cung cấp các loại hình như: cho thuê tín dụng, thuê thiết bị…
Như vậy, mỗi loại hình Công ty có những khách hàng riêng biệt của mình và
đi đôi với nó là một phạm vi cung ứng dịch vụ riêng.Tuy nhiên thời gian gần đây,
s
ự phân biệt trên đã dần mờ nhạt dần.
2. Về mô hình Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế.
2.1. Những điểm chính về Tập đoàn kinh tế.
Tập đoàn kinh tế đã ra đời, tồn tại và phát triển từ lâu trong lịch sử phát triển
kinh tế thế giới. Quá trình tích tụ, tập trung sản xuất đã tạo ra một làn sóng chưa
từng có để hình thành các tập đoàn lớn hoạt động trong các ngành, các l
ĩnh vực then
chốt có lợi nhuận cao. Tập đoàn là một hình thức sản xuất tiên tiến, đại diện cho
trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, đóng vai trò chi phối mạnh mẽ đến
toàn bộ nền kinh tế các nước trong giai đoạn hiện nay. Chúng có một số đặc điểm
sau:
Một là: Có quy mô rất lớn về vốn, doanh thu và thị trường.
Hai là: Phạm vi hoạ
t động rất rộng; đa số các tập đoàn lớn trên thế giới là
các Công ty đa quốc gia hoạt động trên toàn cầu.
Ba là: Tập đoàn có thể sản xuất theo đơn ngành hay đa ngành. Xu thế hiện
nay là mở rộng ra đa ngành mà lĩnh vực tài chính là đặc biệt quan trọng.
Bốn là: Tập đoàn là một tổ hợp các Công ty, trong đó các Công ty đóng vai trò là
Công ty mẹ chi phối các thành viên về các mặt tài chính và chiến lược phát triể
n.
Để thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của mình đồng thời đảm bảo sự vững
chắc cho sự phát triển đó, đòi hỏi trong mỗi tập đoàn phải có Công ty tài chính
trong mô hình của mình.
2.2. Sự cần thiết của mô hình công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế.
- Thứ nhất: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn tìm hiểu và khai thông các
nguồn vốn; huy động các nguồn vốn cho Công ty mẹ từ nguồn bên ngoài đáp ứng
đủ và kịp thời nhu c
ầu về vốn.
- Thứ hai: Công ty tài chính giúp quản lý một cách có hiệu quả thông qua sử
dụng vốn đúng mục đích, đúng dự án đem lại hiệu quả kinh tế.
Đề án môn học
6
- Thứ ba: Các Công ty tài chính giúp tập đoàn mở rộng lĩnh vực, đa dạng hóa
ngành nghề kinh doanh, nhằm giảm thiểu rủi ro vì nâng cao lợi nhuận.
- Thứ tư: Với sự hoạt động của mình, các Công ty tài chính giúp các tập đoàn
đạt được sự thống nhất cao, khai thác được tất cả các nguồn lực của tập đoàn thông
qua một số cơ chế tài chính chung.
Nói chung, với một xu thế là tiền tệ hóa các mố
i quan hệ kinh tế, tiến đến
một nền kinh tế tiền tệ, thì các Công ty tài chính ngày càng trở thành bộ phận then
chốt của tập đoàn.
2.3. Đặc điểm:
Xuất phát từ đặc thù của mình Công ty tài chính trong tập đoàn có một số
đặc điểm sau đây:
- Về mục đích thành lập:Nó có hai nhiệm vụ cơ bản là: Huy động vốn để
phục vụ tập đoàn và kinh doanh tiề
n tệ.
- Về loại hình sở hữu: Công ty tài chính có thể là 100% vốn thuộc sở hữu của
tập doan hoặc là sở hữu hỗn hợp, trong đó tập đoàn giữ đa số cổ phần.
- Về nội dung hoạt động: Công ty tài chính thuộc các tập đoàn kinh tế chú
trọng đến chức năng huy động vốn để phục vụ nhu cầu của tập đoan. Tiếp đ
ó, nội
dung này có thể được mở rộng hơn nữa khi quy mô của bản thân Công ty phát triển.
- Về phạm vi hoạt động: Thị trường đầu tiên và chủ yếu của nó là các thành
viên của tập đoàn, sau đó là mở rộng phạm vi ra bên ngoài gắn liền với phạm vi và
thị trường hoạt động của tập đoàn.
- Về mối quan hệ giữa Công ty Tài chính và các thành viên: Gắn bó chặt chẽ
với nhau; v
ừa là khách hàng và bạn hàng của nhau . Chúng cùng quan hệ với nhau
thông qua một mức lãi suất nội bộ.
Để thấy rõ hơn phần nào đặc điểm của các Công ty tài chính trong các tập
đoàn kinh tế ta sẽ so sánh một số điểm giữa Công ty tài chính và các phòng ban tài
chính trong các doanh nghiệp. Sự khác biệt được thể hiện dưới bảng sau:
STT Phòng ban tài chính Công ty tài chính
1
Là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ có
chức năng tham mưu cho lãnh đạo.
Là doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực tài chính - tiền tệ
2 Không có tư cách pháp nhân
Hạch toán độc lập và có tư cách pháp
nhân
3
Theo dõi, kiểm tra, giám sát về lĩnh
vực kế toán, thống kê, tài chính của
doanh nghiệp.
- Giao dịch với các thành viên với tư
cách là các khách hàng đặc biệt
- Kinh doanh tiền tệ, được ủy thác
Đề án môn học
7
thực hiện huy động, điều hòa vốn và
đầu tư tài chính
4
Thực hiện chức năng kế hoạch hóa tài
chính: Kế hoạch tài chính, cân đối và
quản lý các nguồn vốn, các quỹ
- Là trung gian giữa các thành viên,
giữa tập đoàn với các tổ chức tín
dụng và thị trường tài chính
Như vậy quy mô và phạm vi hoạt động của Công ty tài chính là rộng hơn
nhiều so với phòng ban tài chính, chúng hoạt động với tư cách là doanh nghiệp thực
sự.
2.4. Các hoạt động chủ yếu của Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế.
2.4.1. Huy động vốn:
2.4.1.1. Phát hành giấy tờ có giá:
* Phát hành cổ phiếu: Quy mô của phát hành và số lượng phát hành phụ
thuộc vào quyết định của Công ty mẹ, cũng như phụ thuộc vào quy mô ban đầu củ
a
Công ty tài chính. Phát hành Cổ phiếu thực hiện khi Công ty huy động vốn ban đầu
hay bổ sung vốn điều lệ.
* Phát hành trái phiếu trung và dài hạn với quy định không được nhận tiền
gửi không kỳ hạn, thì loại hình huy động vốn này trở thành công cụ chủ yếu để huy
động vốn từ bên ngoài của các Công ty tài chính.
* Phát hành chứng chỉ nợ: Đó là giấy nhận nợ của Công ty, nó sẽ phát hành
loại này khi có nhu cầu cấp thiết v
ề vốn ngắn hạn. Có hai loại chủ yếu là:
- Chứng chỉ nợ loại lớn: Ghi rõ thời hạn trả và mức lãi suất.
- Hợp đồng mua lại: Đó là các hợp đồng bán chứng khoán cho các đối tượng,
thửa tiền mặt và thỏa thuận mua lại trong thời gian ngắn.
2.4.1.2. Vay từ các tổ chức tín dụng:
- Các Công ty tài chính có thể vay các nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng
theo những điề
u kiện nhất định. Tùy theo cơ chế hoạt động mà vay các hình thức
như: vay mượn trực tiếp, tiếp nhận vốn ủy thác đầu tư từ các tổ chức tín dụng để
cho vay các dự án phát triển.
2.4.1.3. Vay từ tâp đoàn:
Theo hình thức này, các tập đoàn với uy tín của mình đưa ra phát hành các
giấy tờ có giá để huy động vốn rồi chuyển chúng cho Công ty tài chính vay.
2.4.2. Hoạt động đầu tư vốn:
Đề án môn học
8
2.4.2.1. Cho vay Đây là hoạt động chủ yếu của các Công ty tài chính để tạo
lợi nhuận. Hoạt động này rất đa dạng, phong phú, bao gồm:
* Nếu căn cứ vào thể thức cho vay, bao gồm:
- Tín dụng ứng trước:.
- Thấu chi:.
- Chiết khấu thương phiếu:.
* Nếu căn cứ vào đối tượng, hoạt động cho vay gồm:
- Cho vay theo ngành nghề
- Cho vay tiêu dùng.
- Cho các tập đoàn và thành viên vay.
- Cho các tổ chức tín dụng khác vay.
2.4.2.2. Đầ
u tư chứng khoán:
Các Công ty tài chính còn là nhà đầu tư trên thị trường tài chính. Đầu tư
chứng khoán là nguồn lợi quan trọng thứ hai sau cho vay. Hoạt động này giúp Công
ty tài chính có thể phân tán rủi ro trong hoạt động của mình.
2.4.2.3. Cho thuê tài sản.
Đó là hình thức mà theo đó, khách hàng có thể sử dụng tài sản vào mục đích
nhất định. Đáng chú ý là: nếu trong hợp đồng có kèm theo lời hứa của người cho
thuê sẽ bán lại tài sản này cho người đi thuê chậm nhát là khi kết thúc h
ợp đồng thì
gọi là cho thuê tài chính; nếu không có thì gọi là cho thuê hoạt động.
Hợp đồng thuê tài chính được nêu ở trên có 4 tiêu chuẩn đó là:
* Quyền sở hữu tài sản được chuyển giao khi kết thúc hợp đồng.
* Hợp đồng có quy định quyền chọn mua
* Thời hạn hợp đồng: Phần lớn thời gian hoạt động của tài sản.
* Hiện giá tiền thuê cao hỏn giá trị tài sản.
2.4.3. Các hoạt động kinh doanh khác.
* Các dịch vụ
kinh doanh ngoại hối: mua- bán ngoại tệ huy động vốn ngoại
tệ, đầu tư tài chính trên thị trường tài chính quốc tế.
* Bao thanh toán: Hoạt động này gần giống chiết khấu thương phiếu nhưng
có điểm khác là: Các khoản nợ được mua là có hóa đơn; Công ty tài chính thường
giữ lại từ 10 -20% số tiền nợ để dự phòng hàng hóa bị trả lại. Lãi suất người mua
được hưởng là cao bởi vì hoạt động này có tính r
ủi ro cao.
Đề án môn học
9
* Các dịch vụ khác như: chuyển nhượng chứng khoán cầm cố: tư vấn đầu tư,
tư vấn tài chính.
2.5. Các yếu tố tác động đến hoạt động của Công ty tài chính trong tập
đoàn kinh tế.
2.5.1. Tác động từ Nhà nước:
Nhà nước co tác động cực kỳ quan trọng đến hoạt động của Công ty tài chính
trong tập đoàn kinh tế cũng như các trung gian tài chính khác.
- Xây dựng hệ thống pháp luật, tạo ra khuôn khổ cho các Công ty tài chính
hoạt động, nhất là các pháp luật về kinh tế.
- Tạo dựng môi trường kinh tế - xã hội, thực hiện các chính sách phát triển từ
đó tác động đến xu hướng phát triển, hỗ trợ các trung gian tài chính phát triển.
- Đầu tư vào các ngành quan trọng có vai trò là cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế
từ đó giúp các chủ thể kinh tế phát triển.
2.5.2. Tác động từ tập đoàn.
Công ty tài chính là một bộ phận trong chiến lược phát tri
ển chung của tập
đoàn. Tuy nhiên, các Công ty tài chính cũng có tính độc lập của nó.
Công ty tài chính là một bộ phận của tập đoàn, vì thế nó chịu sự ràng buộc
của các mối quan hệ ràng buộc và phụ thuộc lẫn nhau trong tập đoàn. Nó hoạt động
không những vì lợi ích riêng mà còn xuất phát từ lợi ích chung của các tập đoàn.
bản thân của tập đoàn đưa ra cơ chế hoạt động rõ ràng cho các thành viên để tránh
sự ch
ồng chéo, cạnh tranh lẫn nhau. Bản thân các Công ty tài chính phải tự vận
động trong cơ chế đó.
2.5.3. Những tác động từ thị trường.
Các Công ty tài chính tham gia thị trường cũng phải tuân theo các quy luật
kinh tế khách quan, cũng phải gánh chịu những rủi ro có thể xảy ra. Ngoài ra Công
ty tài chính là doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ nên nó cũng
chịu sự tác động của những yếu tố đặc thù riêng.
III. VỀ MÔ HÌNH CÔNG TY TÀI CHÍNH TRONG TỔNG CÔNG TY Ở NƯỚC
TA.
Trong công cuộc đổi mới kinh tế ở nước ta, cải cách doanh nghiệp Nhà nước
là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Những Nghị quyết của Đảng và chính
sách của Nhà nước đều nhất quán quan điểm là: Phải tạo dựng được những tập đoàn
kinh tế mạnh để trở thành đầu tầu của nền kinh tế.
Đề án môn học
10
Hướng đi chủ yếu của các Tổng Công ty 91 là hướng tới trở thành các tập
đoàn kinh tế và trong mô hình của nó có các Công ty tài chính. Đây được coi là
bước đột phá trong phát triển doanh nghiệp Nhà nước.Thực hiện chủ trương này, đã
có 5 Tổng Công ty 91 thành lập Công ty tài chính trong cơ cấu của mình, đó là: Bưu
chính Viễn thông, Dầu khí, Cao su, Dệt may và Công nghiệp Tàu thủy. Những
Công ty tài chính này hoạt động trong khuôn khổ điều chỉnh của hai luật là: Luật
doanh nghiệ
p Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng.
Mục tiêu thành lập là góp phần làm đa dạng hóa các dịch vụ và các loại hình
tổ chức tín dụng Việt Nam, thực hiện chủ trương phát huy nội lực và nhất là tạo
thêm kênh dẫn vốn để bổ sung cho các hoạt động ngân hàng truyền thống ở nước ta.
Việc ra đời các Công ty tài chính góp phần thu hút nhiều nguồn vốn cho
Tổng Công ty như: vay ưu đãi, tiếp nhận vố
n ủy thác đầu tư phát hành giấy tờ có
giá… tạo điều kiện thuận lợi cho các Tổng Công ty. Các Công ty tài chính này
có sự hiểu biết trong ngành, vì vậy nó có lợi thế về khả năng tiếp cận thông tin
của các thành viên, nắm bắt được tình hình, đồng thời thời gian thẩm định, chi
phí thẩm định dự án thấp hơn so với các ngân hàng. Sau một thời gian hoạt động,
các Công ty này đã đáp ứng phần nào yêu cầu đề
ra là: Tạo ra định hướng phát
triển lâu dài cho mô hình Tổng Công ty; cung cấp vốn và khâu trung gian về vốn
cho Tổng Công ty và các thành viên. Đặc biệt là chưa thấy xuất hiện nợ xấu, tất
cả đều kinh doanh có lãi do biết tận dụng ưu thế của mình.
Tuy nhiên, mô hình này vẫn còn là mới mẻ ở nước ta, do đó trong quá
trình hoạt động còn rất nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Những nội dung này sẽ
được làm rõ hơn khi tìm hiểu hoạ
t động của mô hình được thực hiện ở chương
sau.
Đề án môn học
11
KẾT LUẬN CHƯƠNG I
Trong nền kinh tế thị trường, Công ty tài chính là một loại hình tổ chức tài
chính phi ngân hàng, thực hiện một số hoạt động ngân hàng và cung cấp một số
dịch vụ tài chính cho thị trường tài chính. Hình thức của các Công ty tài chính là rất
đa dạng, trong đó một hình thức phổ biến là Công ty tài chính trong các tập đoàn
kinh tế. Sự tồn tại của mô hình này là một sản phẩm tất yếu của nề
n kinh tế thị
trường Công ty tài chính trong tập đoàn kinh tế đã góp phần làm tăng thêm các
nguồn huy động và sử dụng vốn của tập đoàn, góp phần làm đa dạng hình thức kinh
doanh của các tập đoàn kinh tế, từ đó đưa các tập đoàn tiến sâu hơn vào lĩnh vực tài
chính - tiền tệ. Quá trình này được Công ty tài chính thực hiện tuần tự từ các nghiệp
vụ trong nội bộ tập
đoàn sau đó là vươn ra bên ngoài. Phần lớn các Công ty tài
chính trong tập đoàn lớn có phạm vi hoạt động rất rộng, vượt qua biên giới quốc
gia. Phạm vi đa quốc gia này giúp cho bản thân các Công ty tài chính cũng như các
tập đoàn tăng phạm vi, sức mạnh của mình trên thế giới.
Mô hình Công ty tài chính trong Tổng Công ty ở nước ta đã bắt đầu được
chú ý phát triển từ các Quyết định 90 - 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính
phủ. Ban đầu nó đượ
c triển khai tại một số TCT 91 và cho đến nay đã có 5 Công ty
tài chính được thành lập. Hiệu quả ban đầu đem lại của các Công ty này là đáng
khích lệ, tuy nhiên, trong quá trình hoạt động bản thân các Công ty này còn rất
nhiều khó khăn và vướng mắc.
Đề án môn học
12
CHƯƠNG II.
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CỦA CÔNG TY TÀI CHÍNH
TRONG TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA.
I. NHỮNG THÀNH TỰU BAN ĐẦU:
1. Huy động vốn.
- Mục tiêu thành lập Công ty tài chính là để tích tụ vốn, tập trung chuyên
môn hóa để nâng cao sức cạnh tranh cho các Tổng Công ty và các thành viên của
nó. Tuy nhiên, các Công ty tài chính còn bị ràng buộc bởi những quy định khác nên
tổng số vốn huy động và tự có của 5 Công ty tài chính tính đến 6/2001 là gần 827 tỷ
đồng thì trong đó nguồn vốn tự có chiếm tỷ trọng cao. Tỷ lệ vốn huy động so với
vốn tự có như sau:
Bảng 1
. Tỷ lệ vốn huy động so với vốn tự có của Công ty tài chính.
Đơn vị: %
Tên Cty
Năm
Bưu điệnDầu khí
Công nghiệp
tàu thủy
Dệt may Cao su
1999 17% - - 152% 295%
2000 69% 2% 192% 147% 275%
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002
Nguồn vốn huy động từ CBCNV Chiếm tỷ lệ nhỏ (1,7% vào tháng 6/2001),
nguồn vốn ủy thác đầu tư có vị trí quan trọng, nguồn vốn đi vay từ các tổ chức, tín
dụng có tỷ lệ tăng trưởng khá và ngày càng chiếm tỷ trọng khá: chiếm từ 10,8%
tháng 3/1999 tăng lên 23,9% tháng 11/2000 và 29,4% tháng 6/2001.
- Một chỉ tiêu đáng lưu ý là vốn điều lệ của Công ty là khá thấp (như trên).
Trong đó: Duy nh
ất Công ty tài chính dầu khí có vốn Điều lệ là 100 tỷ, còn lại chỉ
từ 30 đến 70 tỷ đồng.
- Nguồn vốn từ phát hành giấy tờ có giá gần như không có gì bởi phải sau 3
năm hoạt động có lãi mới được xem xét cấp giấy phép, và phải có dưới sự bảo lãnh
Đề án môn học
13
của một tổ chức tín dụng có uy tín. Hơn nữa các Tổng Công ty mẹ vẫn chưa thực
hiện bất cứ nghiệp vụ nào loại này.
Bảng 2
: Các chỉ tiêu nguồn vốn
Đơn vị: Triệu đồng
TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001
1 Vốn điều lệ 130.000 279.000 287.000
2 Các loại quỹ khác 11.208
3 Tiền gửi CBCNV và tổ chức kinh tế 2.439 4.609 14.200
4 Vay các tổ chức tín dụng 18.451 124.261 243.220
5 Vốn ủy thác 20.083 112.520 234.708
6 Tài sản nợ khác 31.570
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002.
- Nguồn vốn ngắn hạn vay từ các ngân hàng thương mại có tỷ lệ cao (từ 80%
- 90% vốn thu hút là của Ngân hàng thương mại là ngắn han và ủy thác đầu tư,
nguồn vốn trung và dài hạn là quá ít.
- Nguồn vốn từ vốn vay ưu đãi Nhà nước lại phụ thuộc vào quỹ hỗ trợ phát
triển với nguồn này, con số vay lúc dồi dào nhất cũng không vượt quá 100 tỷ đồng.
2. Về
sử dụng vốn:
- Theo báo cáo chưa đầy đủ, trong 2 năm 1999 - 2000: Ba Công ty tài chính
là Cao su, Dệt may, Bưu điện: Tăng dư nợ cho vay ủy thác mới đạt gần 580 tỷ, còn
lại các hoạt động khác bằng vốn tự có và huy động được, chỉ chiếm 1/3 tổng tài sản
có, như vậy, khó có thể nói các Công ty tài chính có những dự án đích thực. Đặc
biệt, đối với 2 ngành dầu khí và tàu thủy, một dự án thuộc nhóm B cầ
n vốn từ 50
đến 400 tỷ thì với nguồn vốn hạn chế không thể được của hàng chục dự án mỗi
năm.
- Với cơ cấu nguồn vốn là ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao, tỷ trọng dư nợ ngắn hạn
của các Công ty tài chính khá cao. Trong khi đó vốn trung và dài hạn khá khiêm tốn.
- Một trong những điều cần quan tâm là khả năng cho vay nội bộ trong các
Tổ
ng Công ty. Đến năm 2002, 65% số đơn vị thành viên của Tổng Công ty Bưu
chính viễn thông, 44% ở Tổng Công ty công nghiệp tàu thuỷ và 100% ở Tổng Công
Đề án môn học
14
ty Dầu khí. Tuy nhiên quy mô vốn cho vay thấp, điều đó thể hiện ở tỷ lệ vốn vay
của các thành viên với Công ty tài chính so với tổng vốn vay của các đơn vị này là
rất thấp, lần lượt là: 0,21%; 10%, 10% ở 3 Tổng Công ty trên vào năm 2000. Điều
này xuất phát từ nghịch lý là: Nhu cầu vốn của các Tổng Công ty 91 là rất lớn
nhưng năng lực của các Công ty Tài chính thì có hạn. Ngay bản thân các Ngân hàng
thương mại lớn khi cho các T
ổng Công ty 91 vay vốn phải áp dụng hình thức đồng
tài trợ do gặp phải các quy định về hạn chế cho vay.
Kết quả sử dụng vốn được thể hiện ở bảng dưới dây.
Bảng 3: Chỉ tiêu sử dụng vốn
Đơn vị: Triệu đồng
TT Chỉ tiêu 3/1999 11/2000 6/2001
1 Tiền mặt - Tiền gửi tại NHNN 333 1.979 11.420
2 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng 68.150 81.028 185.909
3 Dư nợ ngắn hạn 64.382 145.632 284.799
4 Dư nợ dài hạn 8.693 53.668 68.034
5 Góp vốn mua cổ phiếu 16.958
6 Cho vay ủy thác đầu tư 20.082 113.354 229.062
7 Tài sản có khác 19.846
Nguồn: Tạp chí Ngân hàng 3/2002.
3. Các hoạt động khác:
* Đầu tư tài chính và dịch vụ tài chính tiền tệ:
Theo quy định các Công ty tài chính được phép đầu tư với mức tối đa là 40%
vốn Điều lệ. Mặt khác, trong quy chế tài chính của Tổng Công ty, đầu tư vốn của
công ty tài chính chỉ được coi là đầu tư vào các đơn vị sản xuất thông thường. Nó
đã lãng quên một chức năng của Công ty tài chính là giúp Tổng Công ty đầu tư v
ốn
ra ngoài. Vì thế hạn chế việc đầu tư tài chính của Công ty tài chính.
Về các hoạt động dịch vụ tài chính tiền tệ tại Công ty tài chính đã giúp các
Công ty mẹ và các thành viên về các vấn đề như: cổ phần hóa, thẩm định dự án.
Nhưng các khoản phí thu từ dịch vụ này khá thấp. Đơn cử tại Công ty tài chính Bưu
điện. Năm 2001 đã giúp thẩm định 640 dự án với tổng vốn đầu tư
2.240 tỷ; nghiên
Đề án môn học
15
cứu các phương án hỗ trợ về quản lý vốn, tài sản, cổ phần hóa… Tổng phí dịch vụ
thu được chỉ đạt khoảng 600 triệu, khá thấp so với yêu cầu đề ra.
* Về hoạt động ngoại hối: Do những yêu cầu từ phía Ngân hàng Nhà nước
nên chưa Công ty tài chính nào được phép hoạt động trong lĩnh vực này. Đã có một
số Công ty hội tụ đủ điều kiện nhưng vẫ
n chưa được cấp phép.
Nhìn chung sau một thời gian hoạt động, các Công ty đã ổn định tổ chức và
bắt đầu thu được hiệu quả nhất định. Theo đó thu nhập hàng năm trước thuế của các
Công ty là khoảng 4 - 5 tỷ / năm. Như vậy hoạt động của các Công ty là bước đầu
có lãi, tuy vẫn còn nhiều điểm hết sức hạn chế.
II. NHỮNG KHÓ KHĂN, HẠN CHẾ:
1. Khó khăn trong hoạt động nghiệp vụ:
* Đối với huy động vốn: Do được quy định một cách hạn hẹp nên không thể
huy động vốn một cách rộng rãi, hơn nữa các nguồn đi vay khác lãi suất cao hơn do
đó gây bất lợi cho các Công ty tài chính.
* Đối với việc cho vay: Do không được cho vay quá 15% vốn tự có nên khả
năng cho vay thấp (do vốn tự có thấp, hơn nữa khách chủ yếu của các Công ty tài
chính là các đơn v
ị hạch toán độc lập (theo Quyết định 296/1999/NHNN của Ngân
hàng Nhà nước) nên đối tượng cho vay bị hạn chế.
Hơn thế nữa việc cho vay phần lớn là dưới hình thức ngắn hạn do đó chưa
thực sự đem lại hiệu quả rõ rệt.
* Đối với việc kinh doanh ngoại hối: Do chưa được cấp phép nên gặp nhiều
khó khăn trong thực hiện cấp tín dụng cho các vấ
n đề có liên quan đến các yếu tố
nước ngoài như: đầu tư, loại hoạt động xuất nhập khẩu…
* Chất lượng dịch vụ về tài chính tiền tệ còn thấp do bản thân các Công ty
còn chưa thực sự nhập cuộc về lĩnh vực này.
* Khả năng sử dụng vốn của các Công ty còn hạn chế, tỷ trọng tiền gửi của
tại các tổ chức tín dụ
ng của các Công ty lớn, do đó doanh thu hàng năm của các
Công ty xuất phát từ các hoạt động này là chủ yếu, kéo theo nó là hạn chế về hoạt
động ngân quỹ.
Rõ ràng là các hoạt động nghiệp vụ mà các Công ty này thực hiện là hết sức
hạn chế. Nổi bật là hoạt động phát hành giấy tờ có giá chưa hề được thực hiện.
2. Khó khăn - hạn chế trong các hoạt động nội bộ:
- Các Tổng Công ty can thiêp sâu vào hoạt độ
ng của các Công ty tài chính,
Đề án môn học
16
do đó các Công ty này không thể quyết định những vấn đề then chốt như: quyết
định lãi suất cho vay và huy động.
- Bản thân các Tổng Công ty chưa thực sự nhuần nhuyễn với một cơ chế có
một Công ty tài chính trong cơ cấu. Bản thân các đơn vị thành viên còn khá lạnh
nhạt với các Công ty tài chính.
III. NGUYÊN NHÂN VÀ BÀI HỌC BƯỚC ĐẦU.
1. Nguyên nhân:
Những hạn chế mà các Công ty tài chính gặp phải là toàn diện ở mọi mặt khó
khăn về nghiệp vụ, cơ chế hoạt động, mô hình tổ chức. Những hạn chế này nảy sinh
là do Công ty tài chính còn là một mô hình còn mói nên dễ nảy sinh những vướng
mắc. Những hạn chế này thể hiện từ cơ chế chính sách của Nhà nước, của các cấp
quản lý và từ bản thân các Công ty.
1.1. Nguyên nhân từ các cơ quan quản lý Nhà n
ước.
Chúng ta đã thấy được rằng phải có Công ty tài chính trong các Tổng Công
ty mạnh. Nhưng chúng ta chưa hình dung được cụ thể về mô hình này.
Một la: Chưa xác định được vị trí, định hướng cho Công ty tài chính trong
Tổng Công ty ngoài việc coi đây là mô hình mới đã được đưa tên vào Điều lệ mẫu
thành lập các Tổng Công ty 91.
Hai là: Các Công ty tài chính phải tự xoay xở với hệ thống cơ chế chính sách
về tài chính tiền tệ còn nhiều b
ất cập.
Ba là: Các Công ty tài chính không được thực hiện nghiệp vụ thanh toán
trong khi các Tổng Công ty muốn sử dụng chúng như một công cụ điều tiết vốn của
Tổng Công ty.
Bốn là: Các quy định của Ngân hàng Nhà nước về cơ chế và phạm vi hoạt
động còn rất nhiều bất cập về huy động vốn sử dụng vốn, về hoạt động ngoại hối,
về đầ
u tư tài chính, như đã nêu ra ở các phần trên. Các Công ty tài chính đứng trước
hoàn cảnh là lực bất tòng tâm.
1.2. Nguyên nhân từ các tổng công nhà nước
* Một là: Cơ chế quản lý vốn đầu tư.
Đa số các Tổng Công ty chưa thực sự tin tưởng vào các Công ty tài chính.
Vẫn thực hiện chế độ bao cấp về vốn, đầu mối thanh toán, cho các đơn vị phụ
thuộc. Rõ ràng là tồn tại tới hai đầu mối về v
ấn đề vốn trong TCT.
Đề án môn học
17
* Hai là: Cơ chế điều hòa vốn nhàn rỗi
Các Tổng Công ty chưa có chính sách quản lý, điều hành vốn nhàn rỗi tại
Tổng Công ty mà để các thàn viên "mặc ai nấy làm" làm mất đi vai trò thu hút và
điều hòa vốn của Công ty tài chính. Trong một Tổng Công ty, có những đơn vị thừa
vốn để gửi thu lợi nhuận, trong khi một số khác lại phải đi vay vốn các Ngân hàng
thương mại với lãi suất cao dẫn đến hi
ệu quả sử dụng vốn nhàn rỗi tại các Tổng
Công ty thấp.
* Ba là: Cơ chế quản lý của Tổng Công ty còn bất cập.
- Một cơ chế quản lý điều hành chung vẫn còn nhiều vướng mắc bởi bản thân
các Tổng Công ty đang vẫn phải loay hoay tìm lời giải cho vấn đề này. Mối quan hệ
giữa Công ty mẹ - Công ty con giữa các thành viên với nhau còn rất nhiều mâu
thuẫn về lợi ích, nên r
ất nhiều các Công ty con chỉ hoạt động vì lợi ích riêng. Do đó
khi có thêm một Công ty tài chính rất mới mẻ sẽ gây rất nhiều lúng túng trong các
mối quan hệ nội bộ.
1.3. Nguyên nhân chủ quan từ bản thân các Công ty.
* Đội ngũ nhân lực còn thiếu kinh nghiệm, năng lực chuyên môn chưa hẳn
đã cao do đó dẫn đến các hoạt động còn chưa thực sự sôi động.
* Đó là sự thiếu chủ động, nhanh nhạy của Công ty tài chính trong việc tìm
kiếm các đối tượng khách hàng trong phạm vi đối tươngj được pháp luật cho phép.
1.4. Nguyên nhân từ nền kinh tế.
- Trong thời gian hoạt động gần đây của các Công ty tài chính, nền kinh tế đã
có một số biến động nhất định gây tác động không nhỏ đến các Công ty này.
- Từ năm 1999 đến nay, cơ chế điều hành lãi suất lần lượt qua các hình thức:
quy định trần lãi suất, lãi suất cơ bản (8/2000) và lãi suất theo thỏ
a thuận (6/2002).
Những cơ chế này làm các tổ chức tín dụng phải đưa ra các chính sách lãi suất riêng
của mình. Các Ngân hàng thương mại với ưu thế của mình có lợi thế hơn hẳn trong
điều kiện hạ lãi suất cho vay hoặc sẵn sàng chấp nhận lỗ để lôi kéo khách hàng.
Trong điều kiện đó, nguồn thu từ tiền gửi đã thực sự giảm sút đồng thời các
Công ty cũng phải h
ạ lãi suất của mình để lôi kéo khách hàng. Với những hoạt động
này, hiệu quả bước đầu của Công ty tài chính là không cao.
- Cũng có một điểm nữa cần nhận thấy là các lĩnh vực hoạt động chủ yếu của
các Công ty tài chính cũng như các tổ chức tài chính phi ngân hàng khác còn chưa
có một cơ sở đầy đủ như: Thị trường chứng khoán, các dịch vụ tài chính, tiền tệ…
Đề án môn học
18
vì thế tác động phần nào đến các định chế tài chính này.
2. Những bài học kinh nghiệm bước đầu.
Một là: Mặc dù việc xây dựng các Công ty tài chính trong các Tổng Công ty
Nhà nước là đúng đắn. Chúng rõ ràng sẽ góp phần tích cực cho sự phát triển của hệ
thống tài chính và của bản thân các Tổng Công ty.
Hai là: Do mới đi vào hoạt động, nên còn rất nhiều vướng mắc để mô hình
này hoạt động xuôn sẻ. Đó là những khó khăn, hạn ch
ế từ Nhà nước, Tổng Công ty
chủ quản và từ bản thân các Công ty. Chính vì thế các hoạt động ban đầu là nhỏ
hẹp, chưa đem lại hiệu quả rõ nét và cần phải được giúp đỡ nhiều về mọi mặt.
Ba là: Các Công ty tài chính trong các Tổng Công ty có nhiều lợi thế do khả
năng tiếp cận nguồn thông tin, có sự hiểu biết về các đặc thù kinh tế, kỹ thuật của
ngành chính vì thế cần hế
t sức tận dụng lợi thế này để tạo được một mức độ an toàn
nhất định trong quá trình hoạt động. Đồng thời bản thân các Công ty phải chủ động
hơn nữa trong các hoạt động của mình.
Các Công ty tài chính này cũng giúp đa dạng hóa các hoạt động tài chính, từ
đó làm gia tăng sự cạnh tranh với các định chế tài chính khác từ đó góp phần tạo sự
chuyển biến tích cực trong các hoạt
động tài chính. Đối với các Tổng Công ty, các
Công ty tài chính sẽ góp phần tạo sự chuyển biến tích cực trong cơ chế hoạt động và
hiệu quả hoạt động của chúng. Trong quá trình tiến đến sự thống nhất trong các
Tổng Công ty, một công cụ rất tốt là thông qua các cơ chế tài chính mà các Công ty
tài chính là một biểu hiện quan trọng của cơ chế này.
Đề án môn học
19
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Thực hiện quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ về
việc thí điểm thành lập các Tổng Công ty Nhà nước theo mô hình tập đoàn kinh tế,
đến 31/2/2002 đã có 17 Tổng Công ty 91 được thành lập. Đi đôi với nó là quyết
định cho phép thành lập các Công ty tài chính trong mô hình này tại tất cả các Tổng
Công ty 91 nếu đủ điều kiện.
Như đã nêu ở trên, 5 Công ty tài chính đầu tiên đã được thành lậ
p: Dầu
khí, Bưu điện, Công nghiệp tàu thủy, Cao su và Dệt may. Các Công ty tài chính
này là các đơn vị hạch toán độc lập, trong mô hình các Tổng Công ty 91.
Qua những năm đầu các kết quả đạt được là rất đáng khích lệ thể hiện qua
các mặt như: làm ăn có lãi, bước đầu đóng góp cho ngân sách, thu hút được đội ngũ
lao động có chuyên môn, đặc biệt là không xuất hiện nợ xấu. Bước đầu góp phần hỗ
trợ đầu t
ư các dự án đổi mới kỹ thuật, công nghệ… đồng thời là kênh dẫn vốn và thị
trường tiêu thụ lớn nhất, an toàn, hiệu quả từ các Ngân hàng Thương mại quốc
doanh đến các Tổng Công ty như: đóng tầu, khai thác và cung ứng dầu khí.
Tuy nhiên, quy mô của các Công ty tài chính vẫn còn nhỏ bé, các hoạt động
nghiệp vụ còn gặp nhiều khó khăn, cơ chế điều hành quản lý chưa hiệu quả, bản
thân các Công ty c
ũng kém mạnh dạn, kém chủ động làm hạn chế phạm vi hoạt
động. Nhiều mục đích vẫn chưa được thực hiện nhất là các mục đích cho vay. Tỷ
trọng cho vay so với tỷ trọng tiền gửi của các Công ty tại các Tổ chức tín dụng là
khá chênh lệch. Điều đó khẳng định sự hạn chế trong nghiệp vụ của các Công ty
này. Khó khăn đã được nhìn nhận, nguyên nhân c
ủa nó cũng đã được chỉ ra, điểm
cần thiết cần lúc này là phải khắc phục nó như thế nào để quá trình thí điểm này đạt
hiệu quả cao hơn để tiến đến mở rộng mô hình.
Đề án môn học
20
CHƯƠNG III.
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ PHÁT TRIỂN MÔ HÌNH CÔNG TY TÀI
CHÍNH TRONG TỔNG CÔNG TY NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM.
I. QUAN ĐIỂM VỀ NỘI DUNG CÁC GIẢI PHÁP.
Các giải pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động của mô hình trong thời
điểm hiện nay là rất quan trọng bởi lẽ, mô hình này là mới mẻ đối với nước ta, một
số điểm cần chú ý là:
Thứ nhất: Phải đi theo hướng phát triển chung của nền kinh tế, hệ thống tài
chính tiền tệ, về mô hình Tổng Công ty.
Thứ hai: Với tính chất mới mẻ của mình bản thân các Công ty tài chính cầ
n
có được sự hỗ trợ nhất định. Sự hỗ trợ đó sẽ dần mất đi khi các Công ty lớn mạnh
hơn.
Thứ ba: Các cơ quan chủ quản phải nhìn nhận rõ vai trò, vị trí của Công ty
tài chính trong mô hình của các Tổng Công ty. Đồng thời tạo được môi trường pháp
lý, kinh tế cho sự phát triển của các công ty tài chính, đi đôi với nó là một cơ chế
quản lý mềm dẻo linh hoạt.
Th
ứ tư: Cần có sự đánh giá rút kinh nghiệm thường xuyên, tham quan học
hỏi mô hình này trên thế giới và vận dụng linh hoạt nó vào Việt Nam.
II. NHỮNG GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN VÀ HOÀN THIỆN MÔ HÌNH
1. Về huy động vốn
Về mặt lí thuyết, các công ty tài chính có thể huy động vốn từ tất cả các
nguồn có thể theo những cách thức khác nhau.
1.1. Huy động vốn từ các Tổng công ty.
Theo cách thức này, các Tổng công ty có thể cấp vốn loại phát hành trái
phiếu rồi cho chính công ty tài chính vay lại. Bản thân các nguồn vốn của tổng công
ty trong những năm tới là rất lớn, ví dụ VNPT từ 2001 đến 2010 là khoản 70.000 tỷ,
và nên giao các công ty tài chính quản lý một s
ố nguồn quan trọng như vốn tự tích
luỹ, vốn ODA bởi nó sẽ giúp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các tổng công ty
và tận dụng được năng lực của các công ty tài chính.
1.2. Huy động vốn từ các tổ chức tín dụng
Các Tổng công ty nên giao cho các công ty tài chính làm đại diện trong việc
tìm kiếm các nguồn vốn vay, kí kết các hợp đồng tín dụng và giải ngân các nguồn
Đề án môn học
21
tín dụng đó. Ngoài ra tăng cường huy động vốn dưới hình thức cho vay hợp vốn và
tiếp nhận vốn đầu tư uỷ thác để cho vay các dự án đầu tư phát triển. Cách làm này
có lợi cho tất cả các bên. Cụ thể:
- Các tổ chức tín dụng: Đáp ứng các nhu cầu vốn lãi, khắc phục giới hạn cho vay
rút ngắn thời gian chi phí đồng thời phân tán rủi ro.
- Các tổng công ty: Đây là biện pháp nhanh linh hoạt, trong triển khai các dự
án đầu tư.
- Các công ty tài chính: Ngoài các khoản thu về phí, đây còn là cách nâng cao vị
thế và uy tín.
1.3. Huy động vốn các nguồn khác trong nước và nước ngoài.
Xuất phát từ nguồn vay từ tổ chức tín dụng trong nước bị hạn chế, việc huy
động từ dân cư, tổ chức kinh tế xã hội và nước ngoài thông qua các hình thức như
phát hành giấy từ có giá, dịch vụ tiết kiệm … là rất quan trọng.
2. Về hoạt động cho vay:
Cho vay, với t
ư cách là nghiệp vụ tài sản Có quan trọng nhất của các Công ty
tài chính hiện vẫn còn yếu kém như đã đề cập. Bản thân các Công ty tài chính phải
chủ động hơn nữa trong vấn đề này.
2.1. Cho vay các thành viên trong Công ty.
Bản thân các Công ty tài chính không ỷ lại quá nhiều vào đơn vị chủ quản
mà phải chủ động qua các vấn đề sau đây.
* Nâng cao chất lượng tín dụng trung và dài hạn.
- Cần tiếp tục củng cố quan hệ với các
đơn vị truyền thống, mở rộng quan hệ
qua các hoạt động giới thiệu các dịch vụ tín dụng, quy trình thủ tục, đa dạng hóa các
dịch vụ, kèm theo đó là: tư vấn, hỗ trợ giúp các đơn vị thành viên lập các dự án
đồng thời tổ chức giải ngân đúng tiến độ.
* Tăng cường cho vay đồng tài trợ:
- Trong điều kiện bị hạn chế hiện nay, cầ
n phải sử dụng phương thức này để
cho vay, các dự án đầu tư của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên, bởi các dự án
đa số đều phải cần đến số vốn lớn.
- Ngoài việc hợp tác đối với các đối tác trong nước, cần mở rộng với các đối
tác nước ngoài về các dự án rất lớn như về dầu khí, các dự án viễn thông… khi
được phép của Nhà nước.
*
Điều hòa vốn tạm thời nhàn rỗi:
Đề án môn học
22
- Đây là hình thức quan trọng để giải quyết vấn đề thừa vốn và thiếu vốn của
các thành viên trong Tổng Công ty. Điều này giúp cho các thành viên thiếu vốn tìm
được một nơi tin cậy để vay vốn một cách nhanh nhạy và thuận tiện. Để tạo sự hấp
dẫn phải tạo ra được sự phát triển của hình thức này phải có cơ chế phù hợp trong
quá trình thu nhận vốn và cho vay vốn nhàn rỗi trong quy mô Tổ
ng Công ty. Trong
đó cần hết sức lưu ý là không được gượng ép mà phải cho các thành viên đó thấy rõ
lợi ích của mình và của toàn Tổng Công ty trong hoạt động này.
2.2. Cho vay các đối tượng ngoài Tổng Công ty.
* Một đối tượng khách hàng quan trọng là các đối tượng của ngành như
ngành Bưu chính Viễn thông, Kinh tế - Kỹ thuật. Những đối tượng này so với
các Tổng Công ty là những đơn vị non trẻ vì thế nhu cầu đầu tư lớn. Các Công ty
tài chính trong Tổng Công ty có
ưu thế lớn trong việc cung cấp các dịch vụ, các
khoản cho vay với các đối tượng này bởi sự hiểu biết ngành kỹ thuật của mình.
Vì thế cần tăng cường giới thiệu các dịch vụ đến với những đối tượng này.
* Về tín dụng tiêu dùng : Một khó khăn với 4/5 Công ty tài chính hiện này là:
Các sản phẩm của Tổng Công ty đến với người tiêu dùng mà ở đó người tiêu dùng
có thể thanh toán ngay nh
ất là các tầng lớp dân cư. Khi đó đôi khi phải cần có sự
liên kết kinh tế nào đó để giới thiệu dịch vụ của mình, để từ đó quảng bá về uy tín
của mình để thu hút khách hàng. Điều này đã thấy được trên thực tế là cho vay tiêu
dùng là quá ít.
3. Về đầu tư tài chính.
* Quản lý phần vốn góp của các Tổng Công ty tại các liên doanh.
- Nhìn chung, những liên doanh của 5 Tổng Công ty này tham gia đều đạt
hiệu qu
ả bước đầu. Tuy nhiên, hiệu quả đồng vốn mà các Tổng Công ty tham gia có
thể nâng cao hơn nữa nếu các Công ty tài chính được ủy quyền tham gia liên doanh
thay vì cơ quan chủ quản cử người tham gia. Bởi vì đa số các Công ty tài chính này
đều am hiểu về kỹ thuật và vấn đề tài chính. Do đó cả thể xử lý tốt các tình huống
xảy ra.
- Thêm một điểm nữa là, xu thế kinh doanh đa ngành đa nghề đang thịnh hành,
việc
ủy quyền cho các Công ty tài chính có thể tham gia mua cổ phần để nâng cao hơn
nữa chất lượng hoạt động tài chính ở các doanh nghiệp mới.
* Đầu tư chứng khoán:
Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển như hiện nay,
Đề án môn học
23
điều cần thiết cho các Công ty tài chính là công dụng cho mình chiến lược về
vấn đề này để có thể tham gia khi điều kiện cho phép.
* Hướng tới vươn ra thị trường quốc tế.
Hiện nay đây vẫn còn là mục tiêu quá xa, vì để tham gia khi thị trường này
đòi hỏi năng lực rất mạnh của các Công ty tài chính doanh nghiệp.
4. Về hoạt động dịch vụ.
* Phát triển dịch vụ - Tư vấn phát hành chứng khoán.
Nhu cầu này vẫn đang ở dạng tiềm năng và cần phải được khai thác triệt để.
Theo đó, đẩy mạnh dịch vụ tư vấn về cổ phần hóa, đại lý phát hành, hỗ trợ nghiệp
vụ phát hành… Mục đích của nghiệp vụ này là giúp các doanh nghiệp khác có thể
nắm bắt tường tận về vấn đề phát hành chứng khoán, hiểu biết hơn về vấn đề này.
Ngoài ra, góp ph
ần bảo vệ lợi ích của những người tham gia.
* Các dịch vụ khác:
- Tăng cường hỗ trợ nhất là đối với các đơn vị thành viên Tổng Công ty, về
xây dựng và thẩm định dự án; Tư vấn về cơ chế, tổ chức tài chính - kế toán phù hợp
với đặc điểm của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
5. Chuẩn bị cho những nghiệp vụ mới.
Những nghiệp vụ này hiện nay chưa thực hiện được nhưng trong thời gian
tới sẽ thực hiện vì thế phải nghiên cứu cách thức thực hiện, nhất là 2 nghiệp vụ:
chiết khấu thương phiếu và bao thanh toán. Bản thân các nghiệp vụ này có thể thực
hiện trong nội bộ Tổng Công ty sau đó mở rộng ra bên ngoài.
6. Các giải pháp hỗ trợ.
6.1. Cơ cấu lại các Công ty trên cơ sở xác lậ
p vai trò, vị trí của các Công ty
tài chính:
- Thứ nhất: Thấy được vị trí quan trọng của các Công ty tài chính trong cơ
cấu bộ máy tổ chức của các Tổng Công ty.
- Thứ hai: Định hình về cơ cấu sở hữu của các Công ty tài chính: Theo xu
hướng chung, các Công ty này sẽ đi từ hình thức sở hữu một chủ đến nhiều chủ
trong đó các Tổng Công ty sẽ chi phối hoạt động của chúng.
- Thứ ba: Thiết lậ
p một chế độ tài chính kế toán, kiểm toán phù hợp.
- Thứ tư: Tổ chức nhân sự chặt chẽ, thống nhất, tuyển chọn đội ngũ có năng lực.
Đề án môn học
24
6.2. Phát triển năng lực cho các Công ty tài chính.
- Hỗ trợ tài chính ban đầu cho các Công ty tài chính sao cho nó đủ sức hoạt
động. Số vốn điều lệ hiện nay còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu của thực tế, điều này
đã được chỉ ra ở phần trên.
- Xây dựng chính sách tài chính - tín dụng: Một cơ chế lãi suất, phí dịch vụ ở
mức hợp lý sẽ tạo được sức hút với khách hàng.
- Nâng cao chất l
ượng dịch vụ: Chất lượng dịch vụ trong tương lai sẽ trở
thành công cụ cạnh tranh lợi hại, vì thế cần phải biết coi trọng chúng.
- Nâng cao năng lực làm việc chung: Xuất phát từ một cơ cấu tổ chức cả một
cơ chế làm việc hoàn thiện cần phải biết cách phát huy chúng một cách hiệu quả cao
nhất để tạo ra những sản phẩm có chất lượ
ng.
6.3. Tăng cường hợp tác với các tổ chức tín dụng và tổ chức nước ngoài.
Việc hợp tác với các tổ chức như trên không những trong việc vay vốn, cho vay
hợp vốn là qua đó giúp công ty trao đổi kinh nghiệm và mở rộng các hình thức đào
tạo nguồn nhân lực và vươn ra thị trường trong và ngoài nước.
III. KHUYẾN NGHỊ
1. Đối với Nhà nước.
Tạo ra môi trường pháp lý và mối tương quan kinh tế thuận lợi hơn nữa,
theo đó:
* Xem xét lại hệ thống pháp luật về hoạt động doanh nghiệp Nhà nước, theo
đó : làm rõ hơn về mô hình Tổng công ty Nhà nước, tâp đoàn kinh tế nâng cao
quyền tự chủ về kinh tế và sử dụng vốn…
* Cần xác định rõ về vai trò, vị trí, cơ chế hoạt động, quản lý đối v
ới các
Công ty tài chính, theo đó sửa đổi những điểm bất hợp lý về tổ chức, về phạm vi
hoạt động, về các nghiệp vụ của công ty tài chính.
* Tiếp tục duy trì sự ổn định nền kinh tế, phát triển các yếu tố cơ sở tạo điều
kiện thuận lợi cho Công ty tài chính phát triển như : Hoàn thiện thị trường tiền tệ,
thị trườ
ng chứng khoán, thị trường bất động sản
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước:
- Với tư cách là cơ quan tham mưu cho Nhà nước về xây dựng, luật tổ chức
tín dụng, trong thời gian tới cần sửa đổi những bất hợp lý, trong luật này để trình
Quốc Hội xem xét, sửa đổi.
- Phối hợp cùng cán bộ ngành để ban hành quy định cho phép coi mỗi đơn vị