Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Chính sách quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ và một số điều cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này” pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 104 trang )






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP



Chính sách quản lý hàng nhập khẩu
của Mỹ và một số điều cần lưu ý đối
với các doanh nghiệp Việt Nam khi
xuất khẩu hàng hoá vào thị trường này







1
LỜI MỞ ĐẦU

Mỹ- một đất nước với những tiềm năng to lớn về kinh tế, khoa học kỹ
thuật, công nghệ và quân sự, đã và đang là một cường quốc số một thế giới
chi phối đời sống kinh tế và chính trị quốc tế.
Đất nước này là một thị trường rộng lớn với dân số xấp xỉ 300 triệu người,
thu nhập bình quân đầu người gầ
n 40000 USD. Hàng năm Mỹ nhập khẩu một
lượng hàng hoá trị giá tới trên 1000 tỷ USD. Do đó, Mỹ được coi là một thị
trường quan trọng và lớn nhất thế giới mà nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam


mong muốn hàng hoá của mình thâm nhập được vào. Đặc biệt trong giai đoạn
hiện nay, khi Việt Nam đang thực hiện chiến lược hướng tới xuất khẩu để phục
vụ mục tiêu công nghiệ
p hoá, hiện đại hoá đất nước thì thị trường Mỹ là một thị
trường không thể bỏ qua. Đây là một thị trường tiềm năng lớn cho hàng hoá Việt
Nam, nhất là kể từ sau khi Hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ có hiệu
lực, hàng hoá Việt Nam sang Mỹ được hưởng quy chế Tối huệ quốc thì cơ hội
xâm nhập thị trường này cho các doanh nghiệp Việt Nam càng trở nên r
ộng mở.
Song, do những hạn chế của chính sách cấm vận của Mỹ với Việt Nam
trong nhiều năm kể từ sau cuộc chiến tranh giữa hai nước cộng với những khác
biệt về chế độ chính trị, kinh tế, ngoại giao, chính sách thương mại đã khiến cho
thị trường Mỹ tuy hấp dẫn nhưng đầy xa lạ với các doanh nghiệp Việt Nam. Do
đó, khả năng rủ
i ro xảy đến với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất hàng sang
Mỹ cũng lớn hơn so với các thị trường khác. Thách thức không nhỏ đang đặt ra
đối với các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam là hệ thống pháp luật vô cùng
phức tạp của Mỹ. Những quy định ngặt nghèo của Mỹ về hàng nhập khẩu là
những trở ngại lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam và nếu không có sự
nỗ
lực cao, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ không dễ gì vượt qua rào cản này.
Chính vì vậy, hiện nay việc tìm hiểu về thị trường Mỹ nói chung và cơ
chế chính sách điều chỉnh hoạt động nhập khẩu hàng hoá của Mỹ nói riêng trở
nên hết sức cần thiết và bức xúc.
Sau bốn năm học tập tại trường Đại học Ngoại thương, với những kiến
thức v
ề chuyên ngành ngoại thương đã tích luỹ được, em mong muốn được vận

2
dụng những kiến thức đã học để giải quyết một vấn đề thực tế đặt ra trong hoạt

động ngoại thương của đất nước trong bài khoá luận của mình. Với mong muốn
đó, và xuất phát từ yêu cầu thực tế tìm hiểu thị trường Mỹ, em đã chọn đề tài
“Chính sách quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ và một số điều cầ
n lưu ý đối
với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá vào thị trường
này” để thực hiện khoá luận của mình. Mục đích đặt ra là nêu lên được những
đặc điểm cơ bản nhất về thị trường Mỹ cũng như những đạo luật quan trọng
quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ, từ đó rút ra những điều đáng lưu ý nhất mà
doanh nghiệp cần quan tâm khi xuất khẩu hàng vào Mỹ. Qua đấy, góp phần cho
sự thành công của các doanh nghiệp Việt Nam trong buôn bán với Mỹ.
Phương pháp sử dụng để thực hiện khoá luận là phương pháp duy vật
biện chứng, kết hợp với phương pháp phân tích, tổng hợp và thống kê.
Vì đây là một vấn đề rộng lớn và phức tạp nên trong phạm vi bài khoá
luận của mình, em chỉ xin chọn cách tiếp cận đề tài từ
một bình diện khái quát
nhất để tiến hành nghiên cứu.
Khoá luận được chia làm ba phần:
- Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về nền kinh tế Mỹ
- Chương 2: Chính sách quản lý hàng nhập khẩu của Mỹ trong giai đoạn
hiện nay
- Chương 3: Một số vấn đề cần lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam
khi xuất khẩu hàng hoá vào th
ị trường này
Mặc dù đã cố gắng, nhưng do thời gian và trình độ có hạn, khoá luận chắc
chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong nhận được sự chỉ dẫn tận tình của thầy
cô và góp ý của bạn bè để có thể hoàn thiện đề tài.
Qua đây em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn Tiến sĩ Phạm
Duy Liên đã tận tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn này.
Hà Nội, 12-2003
Sinh viên th

ực hiện: Tạ Thị Minh Huệ



3

CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NỀN KINH TẾ MỸ

I. Khái quát về nền kinh tế Mỹ trong những năm gần đây:
H.Kissinger- cựu ngoại trưởng Mỹ từng nói: “ Nước Mỹ ngày nay có
ảnh hưởng và thực lực của một đế quốc”. Đó là một thực tế. Điểm lại nền
kinh tế Mỹ trong quá khứ cũng nh
ư trong hiện tại, chúng ta có thể thấy rõ
điều này:
Năm mươi năm trước đây, sáu trong số bảy nước công nghiệp phát
triển nhất thế giới (ngày nay là các nước G7) có giá trị tổng sản phẩm quốc
dân chỉ đạt 75% giá trị tổng sản phẩm quốc dân của Mỹ (nước thứ bẩy đó là
Mỹ). Lúc đó, có thể nói sức mạnh kinh tế của Mỹ có tính chất áp đả
o đối với
các nước khác. GNP của Mỹ cao hơn Nhật Bản 12 lần và cao hơn Đức 8 lần.
Năm mươi năm sau, Tây Âu và Nhật Bản đã vươn lên. Năm 1995, so
với GDP của Mỹ, Nhật Bản đã bằng 70%, Đức bằng 33% và Anh bằng 61%.
Tính chung sáu nước công nghiệp phát triển nhất đã có GDP gấp đôi Mỹ.
Nhiều chỉ tiêu tương đối về phát triển kinh tế tổng hợp củ
a Mỹ đã giảm sút
dần so với các nước khác. Chẳng hạn, tỷ trọng GDP của Mỹ trong tổng GDP
thế giới giảm trong các năm gần đây như sau: 1994: 21,14%, 1995: 20,89%,
1996: 20,69%. GDP tính trên đầu người của Mỹ cũng đang dần bị một số
nước đuổi kịp và vượt.

Những số liệu trên cho thấy sức mạnh kinh tế của Mỹ đã giảm sút
tương
đối so với sự phát triển chung của toàn thế giới.
Tuy nhiên, dù có sự giảm sút, sức mạnh kinh tế của Mỹ vẫn đang đứng
đầu thế giới. Số liệu so sánh Mỹ với các nước phát triển khác của thế giới
(G7) sẽ cho thấy điều đó. Năm 1997 GDP của Mỹ đứng đầu thế giới với
8083,4 tỷ USD, trong khi đó Nhật Bản là 4192,3 tỷ USD bằng 52% so với

4
Mỹ, của Anh là 4801,3 tỷ USD bằng 59% và của Pháp là 1393,3 tỷ USD bằng
17%. Năm 1997, trong GDP thế giới Mỹ chiếm 20,4%, Nhật: 7,7%, Đức:
4,6%
1
. Với tỷ trọng tuyệt đối lớn hơn, Mỹ lại có tốc độ tăng trưởng kinh tế,
xuất nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ và đầu tư đều cao và ổn định hơn so với các
nước được so sánh. Trong vòng 30 năm gần đây, trừ những năm bị khủng
hoảng kinh tế (1990-1991), Mỹ luôn có mức tăng trưởng trên 2%, nhìn chung
cao hơn mức trung bình của các nước G7 và cho tới gần
đây chưa hề có dấu
hiệu nào cho thấy sự giảm sút nghiêm trọng của nền kinh tế Mỹ. Đặc biệt,
trong 10 năm qua (1991-2001) kinh tế Mỹ đã liên tục tăng trưởng với tốc độ
trung bình 3,5% từ 1991 đến 1995 và 4,25% từ 1995 đến 2000. Năm 1999,
GDP tăng 4,2% và năm 2000 là 5%
2
. Sự tăng trưởng này là quá trình mở rộng
của nền kinh tế Mỹ kéo dài nhất trong lịch sử với gần 18 triệu việc làm mới,
lương tăng hơn 2 lần, tỷ lệ lạm phát thấp (khoảng 2%) và mức sở hữu nhà ở
của dân chúng cao nhất trong lịch sử, thất nghiệp thấp nhất kể từ 1957, thặng
dư ngân sách tăng cao và ở mức kỷ lục 237 tỷ USD. Ph
ần lớn các công ty

phát triển mạnh mẽ và thành công nhất trên thế giới là những công ty của Mỹ.
Theo thống kê trong số 100 công ty lớn nhất thế giới thì Mỹ chiếm 36 với 4
công ty dẫn đầu đều là của nước này. Quy mô sản xuất và xuất nhập khẩu của
Mỹ tăng liên tục. Tốc độ xuất nhập khẩu của Mỹ trong những năm gần đây
đạt khá cao, xuất khẩu tă
ng 12%, nhập khẩu tăng 13-14% hàng năm. Từ năm
1999-2002 xuất khẩu hàng năm đạt hơn 1000 tỷ USD và nhập khẩu từ 1200-
1392,1 tỷ USD
3
. Nói chung sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế Mỹ trong
hơn 10 năm qua đã khẳng định vị thế “nền kinh tế phát triển vào bậc nhất thế
giới” của Mỹ cả về tổng sản phẩm quốc nội, kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu
tư, cũng như những ưu thế trong các lĩnh vực công nghệ tin học, công nghiệp

1
Nguồn: WTO (trang web)
2
Nguồn: Bộ thương mại Mỹ
3
Nguồn: Vụ Châu Mỹ, Bộ ngoại giao

5
chế tạo, năng lượng, tài chính ngân hàng…Sự phồn vinh đó của nền kinh tế
Mỹ đã trở thành động lực của nền kinh tế thế giới. Mỹ giữ vai trò chi phối gần
như tuyệt đối trong Ngân hàng thế giới (WB), trong Quỹ tiền tệ thế giới IMF,
trong Tổ chức thương mại thế giới WTO và các tổ chức kinh tế tài chính
khác.
Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế Mỹ
bắt đầu suy giảm từ nửa cuối năm
2000 cho dù vẫn tiếp tục kéo dài kỷ lục tăng trưởng kinh tế liên tục (124

tháng) cho đến tháng 6 năm 2001. Sau khi đạt mức tăng trưởng 5,7% trong
quý I năm 2000, nền kinh tế bắt đầu chững lại, trong quý III và IV năm 2000
mức tăng trưởng là 1,3 và 1,9%. Trong quý I và quý II năm 2001 tốc độ tăng
trưởng chỉ đạt 1,3 % và 0,3%. Theo báo cáo của ban nghiên cứu kinh tế quốc
gia thì nền kinh tế Mỹ
đã thực sự bước vào trì trệ kể từ tháng 3 năm 2001.
Bảng 1: Các chỉ số tăng trưởng của kinh tế Mỹ năm 2000-2001 (%)
Q2/ 00 Q3/ 00 Q4/ 00 Q1/ 01 Q2/ 01 Q3/ 01
GDP 5,7 1,3 1,9 1,3 0,3 - 1,3
Chi tiêu cá nhân 3,6 4,3 3,1 3,0 2,5 1,0
Đầu tư 19,5 - 2,8 - 2,3 - 2,3 - 12,1 - 10,5
Xuất khẩu 13,5 10,6 - 4,0 - 1,2 - 11,9 - 18,8
Nhập khẩu 16,4 13,0 - 0,5 - 5,0 - 8,4 - 13,0
Chi tiêu chính phủ 4,4 - 1,8 3,3 5,3 5,0 0,3
Nguồn: BEA, Department of Commerce
Nguyên nhân chính của sự suy giảm này là sự cắt giảm đầu tư một cách
ồ ạt. Trong quý II năm 2000 tốc độ đầu tư còn ở mức 19,5% là nhân tố quan
trọng nhất đóng góp 57% cho tăng trưởng kinh tế thì trong năm 2001, mức
suy giảm đầu tư luôn trên 10%, trong quý III là -10,5%. Sản xuất đình trệ,
ngoại thương thu hẹp. Trong 10 tháng đầu năm 2001, xuất khẩu và nhập khẩu
của Mỹ giảm tươ
ng ứng 4,2% và 4,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó ,

6
xuất-nhập khẩu hàng hoá giảm 4,8% và 4,3% so với 10 tháng đầu năm 2000,
xuất-nhập khẩu dịch vụ cũng giảm tương ứng 2,6% và 5,7%. Trước tình hình
đó Cục dự trữ Liên bang Mỹ FED đã áp dụng biện pháp cắt giảm lãi suất và
cắt giảm thuế với nỗ lực kiềm chế sự suy thoái của nền kinh tế. Song sự kiện
ngày 11/9 đã làm cho nền kinh tế Mỹ chao đảo và ả
nh hưởng không nhỏ tới

nền kinh tế thế giới. Tốc độ tăng trưởng GDP của Mỹ quý III năm 2001 là -
1,3% và tăng trưởng cả năm 2001 chỉ đạt 1,2%. Nhiều ý kiến cho rằng, sự
kiện này sẽ là đòn chí tử đối với nền kinh tế Mỹ khiến nó không thể phục hồi.
Nhưng một lần nữa, chính phủ Mỹ đã có những biện pháp kịp thời
điều chỉnh
chính sách kinh tế, ban hành một loạt những chính sách tài chính tiền tệ, đặc
biệt là 11 lần liên tục cắt giảm lãi suất của FED nhằm kích thích đầu tư đã
khiến cho kinh tế lấy lại được thăng bằng. Nhờ vậy, bước vào năm 2002 kinh
tế Mỹ đã có những dấu hiệu phục hồi: thị trường bất động sản trở lại nhộn
nh
ịp, các tập đoàn công nghiệp ký được một khối lượng lớn các hợp đồng, giá
năng lượng, hàng hoá giảm đã kích thích sức mua của người dân. Trong quý I
năm 2002, nền kinh tế Mỹ đã tăng trưởng với tốc độ cao 5,6%, sang quý II tốc
độ tăng trưởng chậm lại chỉ còn 1,1% và cả năm đạt 2,4% với thu nhập quốc
dân là 10.446,2 tỷ USD. Nói chung, nền kinh tế đã có tăng trưởng song vẫn
còn ở
mức thấp và có nhiều yếu tố không thuận như thị trương chứng khoán
suy yếu, tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao, đặc biệt là các vụ bê bối về kế toán, kiểm
toán của các tập đoàn lớn của Mỹ như Enron, WorldCom.
Trong những tháng đầu năm 2003, theo số liệu thống kê kinh tế vừa
được Bộ Tài chính Mỹ công bố, kinh tế Mỹ 6 tháng đầu năm vẫn nằm trong
tình tr
ạng trì trệ. GDP quý I chỉ tăng 1,4% và triển vọng quý II cũng chỉ ở
mức tương tự, tức là thấp hơn nhiều so với mức dự đoán từ đầu năm. Nền
kinh tế thiểu phát, chỉ số lạm phát thấp: tháng 1: 0,3%, tháng 4: - 0,3%, tháng
5: 0%, đầu tư cho kinh doanh quý I giảm - 4,4%, thấp hơn mức quý IV năm
2002 (2,3%). Xuất khẩu giảm 1,3% và nhập khẩu giảm – 6,2% đã làm cho

7
cán cân thương mại quý I/ 2003 thâm hụt 121,6 tỷ USD. Theo dự báo, chiều

hướng này chưa có gì thay đổi trong những quý còn lại của năm 2003. Trong
khi đó, mức thâm hụt ngân sách tăng nhanh. Riêng trong 8 tháng đầu năm tài
chính (bắt đầu từ 1/10/2002), mức thâm hụt ngân sách đạt 292 tỷ USD và dự
tính cả năm 2003 ít nhất là 400 tỷ USD. Nợ trong nước đạt mức kỷ lục 3900
tỷ USD. Đáng chú ý là, mặc dù kế hoạch cắt giảm thuế cả gói c
ủa Tổng thống
Bush đã được thông qua nhưng tỷ lệ thất nghiệp không ngừng tăng, từ 5,7%
tháng 1 đến 6,4% tháng 6/2003, là mức cao nhất trong vòng 9 năm qua. Cũng
theo số liệu thống kê vừa công bố, kể từ năm 2000 đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào Mỹ giảm 90%
1
. Năm 2001, FDI vào Mỹ là 144 tỷ USD thì năm 2002 chỉ
còn 30 tỷ USD. Nguyên nhân của sự giảm sút đầu tư là do: thứ nhất, tốc độ
tăng trưởng kinh tế thế giới giảm sút trong ba năm qua đã làm cho FDI toàn
cầu giảm, với hệ quả là FDI vào Mỹ cũng giảm mạnh; thứ hai, triển vọng
không sáng sủa của kinh tế Mỹ, đe doạ khủng bố, thâm hụt ngân sách Mỹ đã
tác động không ít đế
n lòng tin của các nhà đầu tư nước ngoài; thứ ba là do giá
trị đồng Đô la cao trong 2 năm 2001, 2002 đã làm tăng giá cổ phần tại Mỹ.
Nền kinh tế khổng lồ của Mỹ chiếm khoảng 1/3 GDP toàn cầu và
khoảng 1/2 mức tăng trưởng nhập khẩu của thế giới, có giá trị FDI lớn nhất nhì
thế giới, đồng USD là đồng tiền mạnh được nhiều nước trên thế giới dùng làm
phươ
ng tiện tích trữ và là phương tiện thanh toán quốc tế, công nghệ Mỹ đứng
hàng đầu thế giới. Với sức mạnh đó, tầm ảnh hưởng của nền kinh tế Mỹ đối với
kinh tế thế giới là không nhỏ và một khi nó bị suy giảm thì không thể không tác
động đến sự phát triển kinh tế của nhiều nước và khu vực trên thế giới.
Như vậy, sự suy giảm kinh tế
Mỹ đương nhiên sẽ vừa trực tiếp vừa
gián tiếp tác động đến nền kinh tế Việt Nam, mà chủ yếu là ở hai lĩnh vực

thương mại và đầu tư. Tuy nhiên, mức độ ảnh hưởng là không lớn. Mặc dù
vậy chúng ta vẫn cần lưu ý nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực, khai thác tận

1
Nguồn: Bộ thương mại (trang web)

8
dụng những ảnh hưởng tích cực để ổn định và phát triển kinh tế đất nước.
II. Đặc điểm chung của thị trường Mỹ
1. Lịch sử địa lý kinh tế
Mỹ là một quốc gia trẻ với lịch sử ra đời cách đây khoảng 500 năm. Năm
1492, Christopher Columbus phát hiện ra Châu Mỹ. Năm 1607, người Anh
bắt đầu đặt chân lên Châu Mỹ và lập nên hệ thố
ng thuộc địa ở hầu hết lãnh
thổ Bắc Mỹ. Những người nhập cư thời đó phần lớn là những người trốn tránh
cuộc đàn áp chính trị trong nước, người đi tìm tự do thực hành tôn giáo hoặc
những người đi tìm kiếm vận may mà họ không được hưởng ở quê nhà. Sau
người Anh là người Hà Lan, Đức, Pháp, TâyBan Nha, Bồ Đào Nha… chiếm
giữ các vùng còn lại. Năm 1775, cuộ
c đấu tranh giành độc lập nổ ra. Ngày
4/7/1776, các nhà cách mạng công bố “Tuyên ngôn độc lập”, tách khỏi đế
quốc Anh, thành lập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ gồm 13 bang. Năm 1783, Anh
ký Hiệp định Versailles thừa nhận nền độc lập của Mỹ. Hiến pháp Liên bang
đầu tiên được thông qua ngày 7/9/1787 và có hiệu lực từ 4/3/1789. George
Washington được bầu làm Tổng thống đầu tiên của Mỹ.
Từ đó đến nay, trải qua trên 500 năm, nước Mỹ đ
ã không ngừng củng cố
nền độc lập, phát triển kinh tế. Đồng thời cũng không ngừng bành trướng lãnh
thổ và mở rộng tầm ảnh hưởng của mình trong khu vực cũng như trên thế
giới. Hiện nay, Mỹ gồm tất cả 50 bang và 5 khu hành chính trực thuộc. Diện

tích hiện nay của Mỹ là 9.629.091 km
2
, rộng thứ tư trên thế giới (sau Liên
bang Nga, Canada và Trung Quốc). Trong 50 bang, bộ phận chính là 48 bang
liền dải nằm ở trung tâm lục địa Bắc Mỹ, có diện tích 7,8 triệu km
2
, phía Bắc
giáp Canada, phía Nam giáp Mexico, phía đông giáp Đại Tây Dương và phía
Tây giáp Thái Bình Dương. Bộ phận thứ hai là bang Alaska, nằm ở phía Tây
Bắc lục địa Bắc Mỹ, có diện tích 1,5 triệu km
2
. Bộ phận thứ ba là quần đảo
Hawaii, nằm trong Thái Bình Dương, có diện tích trên 16000 km
2
, là trạm
dừng chân từ Tây Bắc Mỹ sang các nước Đông Á. So với Việt Nam, Mỹ nằm

9
tận phía bên kia bán cầu, lệch từ 12 đến 15 múi giờ.
Là một đất nước – lục địa rộng lớn (bề ngang trên 4000 km, dài gần 2500
km), Mỹ có tất cả các loại địa hình khí hậu. Với địa hình khí hậu đa dạng như
vậy cho phép Mỹ phát triển các sản phẩm nông lâm ngư nghiệp phong phú
trên quy mô lớn.
Nước Mỹ cũng rất giàu tài nguyên thiên nhiên. Nhiều loại khoáng sản
có trữ lượng lớn. Mỹ
là một trong những nước đứng đầu thế giới về khai thác
khoáng sản, đặc biệt là dầu và than đá (800 triệu tấn/năm). Đây là những yếu
tố rất thuận lợi cho sự phát triển kinh tế Mỹ, nhất là trong những năm đầu của
giai đoạn công nghiệp hoá.
Trước 1865, Mỹ vẫn là quốc gia sản xuất và xuất khẩu nông sản là chủ

yếu, nhưng sau đ
ó Mỹ bắt đầu vươn lên trở thành một nước công nghiệp phát
triển, đuổi kịp và vượt Anh, Pháp, Đức trở thành cường quốc số một thế giới
cho đến tận ngày nay.
Nền kinh tế Mỹ hiện nay có những đặc điểm nổi bật sau:
* Là một nền kinh tế lớn nhất thế giới:
Với dân số xấp xỉ 300 triệu người, trong đó 76% số
ở thành thị, Mỹ là
thị trường tiêu thụ bậc nhất thế giới hiện nay. Giá trị tổng sản phẩm quốc dân
của Mỹ năm 2002 đạt 10.446,2 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người năm
2000 là hơn 36200 USD/ người/ năm, thuộc bộ phận những nước có thu nhập
bình quân đầu người cao nhất thế giới.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của Mỹ luôn chiếm tỷ trọ
ng lớn trong tổng kim
ngạch buôn bán toàn cầu. Năm 2002, kim ngạch nhập khẩu của Mỹ lên tới
1392,1 tỷ USD, cao hơn lượng nhập khẩu của cả EU cộng lại. Như vậy, tính
trung bình mỗi ngày Mỹ chi khoảng 3,8 tỷ USD cho việc nhập khẩu.
Bảng 2: Những thông tin cơ bản nhất về nền kinh tế Mỹ

- Tốc độ tăng trưởng GDP : năm 2002 : 2,4% (giai đoạn từ 1992 tớ
i 2002

10
trung bình tốc độ tăng trưởng GDP là 3,5%/ năm)
- Tổng thu nhập quốc dân năm 2002 : 10.446,2 tỷ USD
- Tỷ lệ % các ngành chủ chốt trong nền kinh tế: nông nghiệp: 2%, công
nghiệp:18%, dịch vụ: 80%
- Tỷ lệ lạm phát: 2,4%
- Ngân sách năm 2002: Tổng thu: 1875,6 tỷ USD
Tổng chi: 2075,5 tỷ USD

- Kim ngạch xuất khẩu : 794,11 tỷ USD
- Kim ngạch nhập khẩu : 1392,1 tỷ USD
- Thâm hụ
t thương mại: -418,04 tỷ USD
- Bạn hàng chính: Canada: 22,4%, Mexico: 13%, Nhật: 7,9%, Trung quốc,
- Mặt hàng xuất khẩu chủ lực: thiết bị đầu tư, ôtô, sản phẩm công nghiệp
- Mặt hàng nhập khẩu chính: dầu thô, ôtô, hàng tiêu dùng
- Các ngành công nghiệp quan trọng nhất : dầu, thép, ô tô, máy bay, thông
tin, hoá chất
- Các sản phẩm nông nghiệp: lúa mì, ngô, đậu nành, rau, bông, thịt bò, thịt lợn
- Các sản phẩm chế tạo: hoá chất, thiết bị
vận tải, thực phẩm, máy móc
công nghiệp, thiết bị điện, vật liệu in ấn
- Lực lượng lao động :141,8 triệu chiếm 66,5% dân số
- Tổng giá trị đầu tư nước ngoài: năm 2000: 314 tỷ USD; 2001: 144 tỷ
USD; 2002: 30 tỷ USD
Nguồn: Vụ Châu Mỹ, Bộ Ngoại giao
* Kinh tế Mỹ là một nền kinh tế tư nhân:
Kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng áp đảo so với kinh tế chính phủ trong cơ
cấu GDP của Mỹ. Hiện nay tỷ trọng này là khoảng 90% so với khu vực kinh
tế chính phủ là khoảng 10%. Tỷ trọng này tăng đều qua các năm, năm 1998 so
với năm 1993 tăng 2%. Sự áp đảo của khu vực kinh tế tư
nhân được coi là
nhân tố chính tạo nên tính năng động, dễ thích nghi với các biến động, luôn

11
sáng tạo đổi mới. Chính phủ Mỹ quản lý nền kinh tế tư nhân bằng thuế và các
quy định pháp luật chặt chẽ như: luật chống độc quyền, bảo vệ người tiêu
dùng, bảo vệ môi trường… trên quan điểm “ càng ít can thiệp càng tốt”, tạo
điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển và chỉ điều tiết khi cần hạn chế những

tác động tiêu cự
c của thành phần kinh tế này đến sự thịnh vượng chung của
nền kinh tế
* Nền kinh tế tự do cạnh tranh:
Theo báo cáo của Diễn đàn kinh tế thế giới về tính cạnh tranh của các
nền kinh tế thì mức độ cạnh tranh giữa các công ty của Mỹ là cao nhất. Sở dĩ
nền kinh tế Mỹ có mức độ cạnh tranh cao như vậy là vì: thứ nhất, thành phần
kinh tế tư nhân chi
ếm vị trí áp đảo trong cơ cấu kinh tế; thứ hai, Mỹ là một
thị trường mở nên sự cạnh tranh không chỉ trong phạm vi quốc gia mà mở
rộng trên phạm vi quốc tế; thứ ba, chủ nghĩa cá nhân và tính thực dụng của
người Mỹ đã khiến cho xã hội Mỹ trở thành một “ xã hội chỉ tin vào người
thắng”, điều đó buộc con người ta chỉ có thể phát triển bằ
ng cách hơn người
khác và làm cho cuộc cạnh tranh rất “hung hãn” và “ nhẫn tâm”; thứ tư là nhờ
ở sự thi hành hiệu quả các quy định pháp luật về chống độc quyền (Mỹ cũng
đứng số một thế giới trong lĩnh vực chống độc quyền theo báo cáo trên)
* Nền kinh tế dịch vụ:
Có thể gọi như vậy là bởi giá trị dịch vụ chiếm đến 3/4 GDP và 80%
lực lượng lao động M
ỹ và tỷ trọng này không ngừng tăng qua các năm.
Chiếm tỷ trọng lớn nhất và tăng nhanh nhất là các dịch vụ vận tải (hàng
không, vận chuyển hàng hoá bằng đường bộ, dịch vụ kho hàng), thương mại,
tài chính, bảo hiểm và bất động sản, dịch vụ tư vấn quản lý và pháp luật kinh
doanh, y tế, giáo dục. Song song với mức tăng của tỷ trọng dịch vụ là mức
gi
ảm tương đối của các ngành khác, đặc biệt là các ngành sản xuất trực tiếp từ
vật liệu tự nhiên như nông lâm thuỷ sản, khai khoáng. Là một nước đứng đầu
thế giới về sản xuất nông nghiệp và khai thác khoáng sản, song tỷ trọng các


12
ngành này trong GDP Mỹ vô cùng nhỏ bé. Giá trị sản lượng 3 ngành nông
lâm ngư nghiệp chỉ chiếm khoảng 1-2% GDP. Điều này nói lên quy mô to lớn
của nền kinh tế Mỹ cũng như cho thấy tính hiệu quả thấp về mặt giá trị gia
tăng mà các ngành trên tạo ra so với lĩnh vực sản xuất chế tạo và dịch vụ.
Từng một thời gian dài chiếm vị trí chủ đạo về giá trị cũng nh
ư vai trò
trong nền kinh tế Mỹ, song từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay, trước
sự phát triển nhanh chóng của ngành dịch vụ, tỷ trọng của ngành sản xuất chế
tạo cũng ngày càng giảm. Mỹ chủ yếu chế tạo máy móc công nghiệp, phương
tiện vận tải, hay nói chung là các hàng lâu bền. Giá trị sản lượng của các mặt
hàng không lâu bền như thực phẩm, may mặc… chiếm tỷ tr
ọng nhỏ hơn và
giảm nhiều qua các năm.
* Nền kinh tế hiện đại, năng suất cao:
Trong khoảng 100 năm qua, Mỹ luôn đi đầu thế giới trong việc nghiên cứu
và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất để nâng cao năng suất
lao động. Tiến bộ khoa học thực sự là nhân tố chính thúc đẩy nền kinh tế Mỹ
tăng trưởng mạnh mẽ
ở mức cao. Trước đây, ngành công nghiệp xây dựng và
sản xuất ô tô là trụ cột thúc đẩy nền kinh tế Mỹ phát triển. Hiện nay, công
nghệ thông tin đóng góp khoảng 25%-30% trong tăng trưởng kinh tế. Bên
cạnh đó công nghệ thông tin còn ảnh hưởng đến tất cả các ngành nghề khác.
Công nghệ thông tin có thể nâng cao năng suất lao động của ngành nghề chế
tạo, giảm chi phí, giảm lượng hàng hoá tồn đọng, thúc đẩy thương mạ
i điện tử
phát triển. Động lực của nền kinh tế mới của Mỹ không chỉ là nguồn vật chất
khổng lồ mà chủ yếu là do những tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra. Năm
1996, đầu tư của Mỹ cho thiết bị xử lý thông tin và các thiết bị liên quan như
máy tính điện tử lên tới 206 tỷ USD, gấp 1,6 lần so với đầu tư cho các thiết b


công nghiệp khác. Đầu tư cho công nghệ thông tin chiếm tới 35,7 % tổng đầu
tư vốn cố định của các doanh nghiệp, đầu tư cho công nghệ máy tính của Mỹ
chiếm tới 40% tổng đầu tư trong lĩnh vực này của toàn thế giới. Từ năm 1993,

13
khoảng 45% tăng trưởng của ngành công nghiệp Mỹ có sự đóng góp của máy
tính và chất bán dẫn. Như vậy, một trong những nhân tố then chốt của nền
kinh tế mới của Mỹ là những tiến bộ liên tục và nhanh chóng của khoa học
công nghệ. Khoa học công nghệ đã làm tăng năng lực sản xuất, nâng cao hiệu
suất và làm giảm lượng lao động trên một đơn vị sản ph
ẩm.
* Ngoại thương đóng vai trò ngày càng to lớn trong nền kinh tế Mỹ
Điều này thể hiện ở tỷ trọng của kim ngạch XNK trong GDP của Mỹ.
Năm 1970, tỷ trọng này là 13%, đến năm 1990 đã là 30%. Năm 2002, kim
ngạch XNK của Mỹ là 2186,21 tỷ USD, chiếm 20,93% GDP (kim ngạch XNK
giảm do ảnh hưởng của suy giảm kinh tế ) song vẫn đứng đầu thế giới. Khác
với Nhật Bản, một nước nghèo tài nguyên thiên nhiên, ngo
ại thương do đó là
yếu tố sống còn của nền kinh tế, Mỹ có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, song Mỹ đã sớm dựa vào ngoại thương để phát huy lợi thế so sánh, điều
chỉnh cơ cấu kinh tế và tăng trưởng không ngừng. Nhờ ngoại thương, Mỹ đã
thực hiện được mô hình “đàn sếu bay”: không sản xuất các mặt hàng đòi hỏi
lao động giản đơn như: d
ệt may, lương thực thực phẩm, giày dép, máy móc
thiết bị cơ bản, tivi … mà chuyển giao cho các nước kém phát triển hơn và
nhập khẩu trở lại các mặt hàng này để tiêu dùng. Thay vào đó Mỹ tập trung sản
xuất và xuất khẩu những mặt hàng có hàm lượng khoa học công nghệ cao, lợi
nhuận lớn như: ngành chế tạo hàng không, điện tử, tin học, nguyên tử, vũ trụ,
hoá chất… Trong cơ cấu xuất kh

ẩu các mặt hàng chế tạo và hàng công nghệ
cao chiếm tỷ trọng từ 80 đến 90% tổng giá trị xuất khẩu. Ví dụ như năm 1999
xuất khẩu mặt hàng chế tạo và công nghệ cao đạt tới trên 800 tỷ USD.
* Một số đặc điểm khác:
Mỹ là quốc gia mà thu nhập bình quân đầu người cao nhất thế giới,
song chênh lệch thu nhập của người dân cũng rất lớn. Theo thống kê 20% dân
số
giàu nhất nước Mỹ chiếm hơn 1/2 thu nhập sau thuế của cả nước, và một
nửa số thu nhập đó lại thuộc về 1% số người giàu nhất. Mức chênh lệch giữa

14
20% dân số giàu nhất và 20% nghèo nhất của Mỹ là 9 lần, so với Đức là 6 lần
và Nhật là 4 lần. Tỷ lệ người nghèo trong những thập niên gần đây đã giảm
đáng kể nhờ tăng trưởng kinh tế và những nỗ lực giảm nghèo của Chính phủ.
Tuy nhiên, tỷ lệ người sống dưới mức nghèo khổ ở Mỹ vẫn còn tới khoảng
10%. Phần lớn số ngườ
i nghèo thuộc thành phần những người mới nhập cư,
các dân tộc thiểu số. Sự chênh lệch mức thu nhập và sự đa dạng về văn hoá đã
dẫn đến một thị trường tiêu dùng Mỹ hết sức phong phú và đa dạng về nhu
cầu, thị hiếu.
Tóm lại, nền kinh tế Mỹ là một nền kinh tế lớn, tự do, hiện đại. Để đáp
ứng nhu c
ầu của một nền kinh tế như thế, Mỹ đã và sẽ tiếp tục phải nhập khẩu
một số lượng lớn nguyên liệu từ nước ngoài để phục vụ cho guồng máy sản
xuất khổng lồ của nó, cũng như nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng để phục vụ
các tầng lớp dân cư có nhu cầu đa dạng, song sản xuất trong nước do chuyên
môn hoá tậ
p trung vào các ngành mới hiện đại, thu lợi nhuận cao mà đã
không chú trọng tới.
2. Hệ thống chính trị pháp luật

* Thể chế chính trị:
Mỹ là một nước được tổ chức theo chế độ cộng hoà dân chủ tư sản tổng
thống. Hệ thống chính trị của Mỹ thực hiện chế độ “tam quyền phân lập”.
Trong đó quyền lập pháp được trao cho Quốc hội, quy
ền hành pháp được trao
cho Tổng thống Mỹ, quyền tư pháp được trao cho Tối cáo pháp viện. Mỗi cơ
quan này thi hành quyền lực một cách độc lập trong cơ chế kiểm soát và
khống chế lẫn nhau.
Cơ quan lập pháp:
Điều I khoản 1 Hiến pháp Mỹ nêu rõ: “Mọi quyền lập pháp sẽ trao cho
Quốc hội Hợp chủng quốc Mỹ”. Quốc hội gồm hai viện: Thượng nghị viện và
Hạ
nghị viện. Thượng viện gồm 100 nghị sĩ, chia đều cho mỗi bang hai người.
Quy định này có lợi cho những bang dân số ít và không có lợi cho những bang

15
nhiều dân. Nhiệm kỳ thượng nghị sĩ là 6 năm và cứ 2 năm một lần thượng viện
bầu cử lại 1/3 số đại biểu. Thượng nghị sĩ phải là người có tuổi không ít hơn 30
và phải là công dân của Hợp chủng quốc Mỹ được 9 năm. Phó Tổng thống Mỹ
sẽ là chủ tịch Thượng nghị viện nhưng thực tế thủ lĩ
nh của phe đa số trong
Thượng nghị viện sẽ điều hành công việc thường ngày.
Hạ nghị viện gồm 435 nghị sĩ với nhiệm kỳ hai năm một lần. Viện
được bầu theo phổ thông đầu phiếu trực tiếp. Số nghị sĩ hạ nghị viện được
phân cho các bang theo tỷ lệ dân số nhưng tối thiểu mỗi bang cũng có một
nghị s
ĩ dù số dân rất nhỏ. Theo Hiến pháp, số lượng nghị sĩ hạ viện được xác
định 10 năm một lần dựa trên kết quả điều tra dân số liên bang. Hạ nghị sĩ
phải là người có tuổi đời không ít hơn 25 và phải là công dân của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ ít nhất 7 năm.

Chức năng chủ yếu của Quốc hội Mỹ là lập pháp, giám sát việc thi
hành pháp luậ
t của các cơ quan chính quyền, biểu quyết các dự luật và thông
qua ngân sách, quyết định tham gia vào các vòng đàm phán mới, phê chuẩn
các thoả thuận sau các vòng đàm phán mới.
Tất cả các dự án luật đã được Hạ nghị viện và Thượng nghị viện thông
qua, trước khi ban hành thành một đạo luật sẽ được đệ trình lên Tổng thống
Mỹ.
Cơ quan hành pháp:
Điều II khoản 1 Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ quy
định: “Quyền
hành pháp thuộc về Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”. Tổng thống do
dân bầu ra theo cách bầu cử gián tiếp với chế độ cử tri đoàn, nhiệm kỳ 4 năm.
Một người không được làm tổng thống tối đa hai nhiệm kỳ. Tổng thống Mỹ là
người có quyền lực rất lớn, kiêm nhiệm cả hai vai trò: Nguyên thủ Quốc gia
và là người đứng đầu Chính ph
ủ. Cùng với Tổng thống và Phó tổng thống, bộ
máy hành pháp Mỹ có 15 bộ và 60 uỷ ban độc lập. Tổng thống là người ký
ban bố các sắc luật và Hiến pháp cho phép tổng thống quyền phủ quyết dự

16
luật được Quốc hội thông qua.
Cơ quan tư pháp:
Điều III khoản 1 Hiến pháp Hợp chủng quốc Hoa Kỳ quy định:
“Quyền tư pháp của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ thuộc về Toà án Tối cao và các
Toà án cấp dưới”. Tối cao pháp viện là cơ quan đứng đầu một hệ thống toà án
trên khắp liên bang, gồm Toà án Liên bang, toà án của từng tiểu bang và toà
án quận, huyện. Chánh án và các thẩm phán Toà án Tối cao do Tổng thống bổ

nhiệm và được thượng viện thông qua với nhiệm kỳ suốt đời. Những người

này chỉ từ nhiệm khi họ muốn hoặc bị buộc tội. Toà án tối cao liên bang có
quyền vô hiệu hoá bất cứ luật lệ liên bang hoặc bang nào mà toà án xét thấy
là trái với Hiến pháp.
Hiện nay ngành toà án gồm: Toà án tối cao; 13 toà án phúc thẩm; 94
toà án các quận và hai toà án xét xử đặc biệt.
Quốc hội có quyền thành lập, bãi bỏ các toà án liên bang và số lượng
th
ẩm phán trong hệ thống xét xử liên bang nhưng không được phép bãi bỏ
Toà án tối cao.
Các bang có hệ thống chính quyền bang. Đứng đầu ngành hành pháp
bang là thống đốc bang, do cử tri bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 2 hoặc 4 năm tuỳ
theo các bang. Quốc hội bang gồm hai viện như liên bang và có quyền làm
luật áp dụng trong bang song không được trái với Hiến pháp và luật liên bang.
Về các đảng phái: Mỹ áp dụng chế độ đa đảng song hệ thống chính trị

Mỹ chủ yếu do hai Đảng Dân chủ và Cộng hoà thay nhau chi phối và kiểm
soát từ năm 1852.
Nói chung hệ thống chính trị ở Mỹ giữ vai trò to lớn và quyết định đối
với kinh tế và thị trường ở Mỹ, mặc dù có sự tranh luận và khác biệt về vai trò
can thiệp của Nhà nước đối với thị trường.
* Hệ thống pháp luật Mỹ
Mỹ là một liên bang trong đó mỗi bang có mộ
t phạm vi quyền lực rất

17
lớn, có pháp luật riêng. Vì thế, nhìn về tổng thể, hệ thống pháp luật Mỹ hết
sức phức tạp. Song nói chung hệ thống pháp luật Mỹ có những đặc điểm chủ
yếu sau:
Hệ thống pháp luật Mỹ là hệ thống Common Law. Đặc điểm của
Common Law là luật bất thành văn và chủ yếu dựa vào tiền lệ xét xử.

Common Law chủ yếu bao gồm các nguyên tắ
c pháp lý hàm chứa trong các
phán quyết của toà án. Common Law có ưu điểm là giúp cho các vị thẩm
phán giải thích và áp dụng pháp luật một cách khách quan, trên cơ sở các
phán quyết của các vị thẩm phán trong các vụ án tương tự trước đó. Điều này
làm cho phán quyết của các vị thẩm phán có tính công bằng thuyết phục hơn.
Thứ hai là hệ thống pháp luật Mỹ được chia làm hai ngành là công
pháp và tư pháp. Luật công được hệ thống hoá và ban hành dưới dạng văn b
ản
gồm có: luật hiến pháp, luật nhà nước, luật hình sự và những văn bản quy
định về chính sách đối ngoại, chính sách xuất nhập khẩu. Còn tư pháp tồn tại
dưới hình thức án lệ. Luật tư bao gồm luật dân sự, luật thương mại…
Thứ ba, Mỹ sử dụng pháp luật như là công cụ sắc bén nhất để bảo vệ,
duy trì và củng cố chế độ chính trị
cũng như vị thế của Mỹ trên thế giới. Vì
vậy pháp luật Mỹ thể hiện rất rõ nét yếu tố chính trị trong nội dung cũng như
trong tên gọi của văn bản luật.
3. Xã hội Mỹ
Đúng như cái tên “Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”, xã hội Mỹ hết sức đa
dạng về thành phần chủng tộc, ngôn ngữ , tôn giáo cũng như lối s
ống.
Những người sống trên đất Mỹ hiện có nguồn gốc từ khắp nơi trên thế
giới. Đông nhất là người da trắng từ Châu Âu, chiếm 83,5% dân số Mỹ. Thứ
hai là người da đen từ Châu Phi chiếm 12,4 % dân số. Người Châu Á ở Mỹ
cũng khá đông và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây theo làn
sóng nhập cư. Thống kê hiện nay cho thấy người gốc Châu Á chiếm khoảng
3,3% dân số Mỹ. Trong số đó nhiều nhất là người Trung Quốc, số lượng

18
người Việt Nam ở Mỹ là khoảng trên 1,5 triệu người ( Đây là một nhân tố

thuận lợi cho việc thúc đẩy quan hệ buôn bán hai nước Việt –Mỹ thông qua
nhu cầu tiêu dùng của Việt kiều đối với các sản phẩm Việt Nam, hay đóng vai
trò trung gian phân phối của họ tại Mỹ hoặc như những người đầu tư vào Việt
Nam để xuất khẩu trở lại thị trường M
ỹ). Cuối cùng, số lượng ít nhất là người
Mỹ bản xứ (thổ dân da đỏ) chiếm 0,8% dân số.
Về ngôn ngữ, tiếng Anh là quốc ngữ, song theo thống kê cũng có tới
trên 32 triệu người dân Mỹ từ 5 tuổi trở lên nói tiếng khác ngoài tiếng Anh ở
nhà, trong đó nhiều nhất là tiếng Tây Ban Nha.
Tôn giáo cũng theo sự đa dạng của các dân tộc mà rất phong phú. Bên
cạnh đạo Cơ đốc và đạo Tin lành, còn có Phật giáo, Ấ
n Độ giáo, Do thái giáo,
đạo Hồi, nghĩa là tất cả các đạo lớn trên thế giới. Các giá trị tinh thần khác
của mỗi dân tộc, trong đó có thói quen tiêu dùng và ăn uống cũng rất đặc
trưng. Hàng năm, Mỹ phải nhập khẩu một lượng lớn thực phẩm từ các nơi
trên thế giới để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của các dân tộc thiểu số này.
Ngoài ra, xã hội Mỹ còn được phân chia theo các tầng l
ớp xã hội. Mỗi
tầng lớp xã hội lại có những đặc trưng riêng về giá trị, phong cách, lối sống,
và từ đó tạo nên các thói quen tiêu dùng khác nhau. Bảng sau đây mô tả sau
giai tầng xã hội cơ bản của Mỹ và các đặc trưng của mỗi giai tầng trong lĩnh
vực tiêu dùng.
Bảng 3: Những đặc trưng của sáu giai tầng xã hội cơ bản ở Mỹ
Giai tầng xã hội Những đặ
c trưng của các giai tầng
Giai tầng
thượng lưu
lớp trên
(khoảng 1%)
Tinh hoa của xã hội, xuất thân từ những gia đình có tên tuổi,

sống bằng của cải thừa kế. Đóng góp tiền cho những mục
đích từ thiện, có nhiều nhà gửi con ở các trường tư thục,
không quen phô trương sự giàu sang của mình, là nhóm
chuẩn cho các giai tầng khác.
Thị trường những đồ trang sức đắt tiền, đồ cổ, nhà cửa, d
ịch
vụ nghỉ ngơi và du lịch

19
Giai tầng
thượng lưu
lớp dưới
( khoảng 2%)
Những người làm nghề tự do hay các doanh nhân có thu
nhập cao nhờ tài năng đặc biệt của mình. Tích cực tham gia
công tác xã hội và nghĩa vụ công dân; khao khát được thừa
nhận địa vị xã hội của mình, và chi tiêu có tính chất phô
trương. Cố gắng tìm cách gia nhập vào giai tầng thượng lưu
lớp trên
Thị trường những ngôi nhà đắt tiền, thuyền buồm, xe hơi
Giai tầng
trung lưu
lớp trên
( 12%)
Những người đạt được công danh trong các nghề tự do, các
nhà quản trị, các doanh nhân. Thể hiện sự quan tâm đến vấn
đề học vấn, đời sống tinh thần, văn hoá và nghĩa vụ công
dân.
Thị trường nhà ở đẹp , đồ đạc quần áo và đồ dùng gia dụng
tốt

Giai tầng
trung lưu
lớp dưới
(30%)
Viên chức, các nhà kinh doanh nhỏ, “ công nhân quý tộc”
(đội ngũ kỹ thuật trung cấp của các nhà máy) quan tâm đến
việc tôn trọng chuẩn mực và quy tắc văn hoá, tạo cho mình
một dáng vẻ đáng tôn trọng.
Thị trường những hàng hoá kiểu “hãy tự làm lấy”, đồ dùng
gia đình, quần áo theo kiểu mẫu nghiêm chỉnh
Giai tầng
hạ lưu
lớp trên
(35%)
Những viên chức nhỏ, công nhân lành nghề và nửa lành
nghề. Quan tâm đến những vấn đề phân rõ vai trò giới tính,
củng cố địa vị của mình trong xã hội
Thị trường hàng thể thao, bia, đồ dùng gia đình.
Giai tầng hạ lưu
lớp dưới (20%)
Công nhân không lành nghề, những người sống bằng trợ
cấp.
Thị trường thực phẩm , tivi, ôtô đã dùng rồi
Khi các nhà xuất khẩu chuẩn bị bán một loại hàng hoá nào đó vào thị
trường Mỹ, việc tìm hiểu rõ đối tượng khách hàng mục tiêu của mình thuộc
giai tầng nào, các đặc trưng tiêu dùng của giai tầng ấy sẽ rất hữu ích để ra các
quyết định quảng cáo tiếp cận phù hợp .

20
Quy mô gia đình Mỹ ngày càng có xu hướng thu nhỏ. Không nói tới

các gia đình lớn nhiều thế hệ, các gia đình hạt nhân 2 thế hệ chỉ chiếm khoảng
1/4 số gia đình, số còn lại là các gia đình không có con cái hoặc có con nhưng
chỉ có bố hoặc mẹ. Theo thống kê có đến 30% trẻ em Mỹ hiện nay được sinh
ra trong các gia đình chỉ có bố hoặc mẹ. Nói tóm lại, quy mô gia đình nhỏ
hơn, vai trò của vợ chồng trong gia đ
ình thay đổi là những xu hướng chung
của gia đình Mỹ hiện nay.
4. Lối sống Mỹ
Hiểu được các đặc trưng trong thế giới quan của đa số người Mỹ, họ thích
hay ghét gì, họ coi trọng cái gì trong cuộc sống, đối với các nhà kinh doanh là
một điều có ích. Vì suy cho cùng, các quyết định tiêu dùng cũng một phần
quan trọng là sự phản ánh của thế giới quan (phần kia là yếu tố tài chính, kinh
tế
, trình độ học vấn,…). Người sản xuất hiểu được thế giới quan đó sẽ biết
chọn bán các sản phẩm và có cách tiếp thị phù hợp. Hơn nữa, khi phải đàm
phán với các đối tác Mỹ, hiểu được người Mỹ cần gì, thích gì sẽ giúp tránh
được nhiều điều hiểu lầm đáng tiếc.
Theo nhận xét của những người nước ngoài thì người Mỹ là những
ng
ười “chịu chơi” và mua sắm không tiếc tiền, thậm chí nhiều khi vượt cả thu
nhập thực tế. Nhưng có hai thứ mà người Mỹ tiết kiệm, đó là lao động và thời
gian. Để hiểu được điều này, chúng ta phải quay trở lại lịch sử hình thành
nước Mỹ cách đây 500 năm. Nước Mỹ ngày nay được hình thành từ những
người di cư từ Châu Âu sang. Họ thuộc đủ loại thành phầ
n, người sang Châu
Mỹ để tìm vàng, người đi chốn tránh pháp luật, người đi tìm tự do tôn giáo
hoặc người đi để tìm kiếm vận may mà họ không được hưởng từ quê nhà. Đa
phần họ đều nghèo, trong tay không có mấy tài sản nhưng đều có niềm tin
chung : nước Mỹ rộng lớn nhiều tài nguyên, nếu họ biết cần cù lao động thì
tất được đổi đời. Chính vì niềm tin ấy mà họ dám bỏ xứ

sở ra đi để đến với
vùng đất này. Họ bắt đầu từ đôi bàn tay trắng, lại phải chống chọi với những

21
khắc nghiệt của thiên nhiên hoang dã, song họ không nản lòng. Tài sản quí
giá nhất của người Mỹ lúc đó là lao động, nên họ hiểu rất rõ giá trị của lao
động và luôn có ý thức sao cho lao động bỏ ra mang lại hiệu quả cao nhất. Đó
là nguồn gốc của các phát minh, cải tiến trong sản xuất, các phương pháp tổ
chức lao động khoa học, những yếu tố giúp nước Mỹ tiến xa và nhanh, từ một
thuộc
địa của Anh trở thành một quốc gia đứng đầu thế giới. Đặc điêm này
cũng lý giải cho tính thực dụng của người Mỹ. Đây là một nét rất đặc trưng
của người Mỹ và được phản ánh trong rất nhiều mặt như: trong cách tiêu
dùng, trong cách lao động, trong buôn bán, trong đàm phán, …
Lao động là thứ rất được tôn vinh trong xã hội Mỹ. Khác với Châu Âu,
những người được coi trọng nhất trong xã hội không phải là các nhà quý t
ộc
xuất thân trong nhung lụa mà là những con người từ nghèo khó, nhờ lao động
và tài năng mà trở thành các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học hay các tỷ phú. Ở
Mỹ đã lao động thì không phân biệt sang hèn. Dù có phải làm công việc phục
vụ trong các quán ăn thì người Mỹ cũng không tỏ ra coi thường mà coi đó là
dịp rèn luyện bản thân.
Sống trong xã hội mà cạnh tranh luôn diễn ra một cách căng thẳng và
khốc liệt trên mọi lĩnh vực, trong đó thời gian cũng là y
ếu tố giúp vượt lên
trên đối thủ, người Mỹ dần hình thành nên ý thức tiết kiệm thời gian với
những biểu hiện đặc trưng. “ Thời gian là tiền bạc” (Time is money) là câu
nói ăn sâu trong tiềm thức mỗi cá nhân người Mỹ. Ý thức tiết kiệm thời gian
thể hiện ngày trong tác phong làm việc hàng ngày khẩn trương nhanh nhẹn,
trong cách ra quyết định chóng vánh, trong cách đàm phán luôn đi thẳng vào

vấn đề, tránh vòng vo tam quốc. Do quý thời gian nên người Mỹ
rất coi trọng
sự đúng giờ trong các cuộc hẹn. Đến hẹn muộn dù chỉ 5 phút mà không có lý
do chính đáng hay không báo trước có thể làm cho người Mỹ rất bực tức, gây
ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ.
Người Mỹ nhìn chung rất có ý thức tôn trọng pháp luật. Vai trò của

22
pháp luật được đề cao trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống hàng ngày
của người Mỹ. Mọi quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với chính
quyền, công ty này với công ty khác nếu có trục trặc đều có thể được đưa ra
xem xét phán xử tại toà án. Vì vậy ở Mỹ có rất nhiều toà án và luật sư. Nếu ở
Tây Âu, nhu cầu bảo hiểm là thiết yếu đối với dân chúng thì ở Mỹ, ngoài việc
mua bảo hiể
m còn có việc thuê luật sư vì trong tâm lý, người ta luôn bị ám
ảnh có thể bị kiện bất cứ lúc nào và nếu không có người biện hộ tin cậy thì có
thể bị thua thiệt bất ngờ vì những lý do không lường trước được.
Về mặt tính cách, người Mỹ được đánh giá là cởi mở, thẳng thắn, dễ
hiểu và bộc trực. Phần đông những người Mỹ tỏ ra thân thiện ngày từ lần gặ
p
gỡ đầu tiên. Người Mỹ đề cao giá trị giao tiếp xã hội vì theo họ, chưa nói đến
lợi ích của việc mở mang kiến thức hay tạo các mối quan hệ cho công ăn việc
làm, một cuộc giao tiếp thân mật và vui vẻ cũng sẽ giúp tạo cảm giác thư thái
tâm hồn, giảm bớt những căng thẳng mệt nhọc của công việc.
Khác với người Nhật hay người Phương Đ
ông nói chung, người Mỹ
không ngại thẳng thắn nói “ không” trước những đề nghị mà họ thấy không
thích hoặc không thực hiện được. Đối với họ, có là có và không là không. Và
khi họ đã nhận lời làm một công việc gì thì họ thường cố gắng làm đến nơi
đến chốn, tức là họ biết giữ lời hứa. Người Mỹ cũng không dễ bị tự ái trước

những lời phê bình chỉ trích hay nh
ững quan điểm đối lập. Một khi bức tức
điều gì họ có thể tuôn hàng tràng những câu nói bất mãn, nhưng những người
xung quanh cũng hiểu anh ta đang muốn giải toả những ức chế trong lòng.
Nói chung quyền tự do ngôn luận được tuân thủ khá tốt ở Mỹ.
5. Thị hiếu tiêu dùng của người Mỹ
Chịu ảnh hưởng của các yếu tố xã hội, văn hoá, lố
i sống, mức sống, thị
hiếu tiêu dùng của người mỹ rất đa dạng. Thậm chí khi bán hàng cho mỗi
vùng mỗi bang trên đất Mỹ người ta có thể phải sử dụng những chiến lược
Marketing hoàn toàn khác nhau. Yêu cầu của người tiêu dùng đối với phẩm

23
cấp hàng hoá cũng có nhiều loại, từ phẩm cấp thấp đến phẩm cấp trung bình
và phẩm cấp cao (các hàng hoá Việt Nam xuất sang Mỹ chủ yếu hướng vào
các đối tượng có nhu cầu hàng phẩm cấp trung bình và thấp).
Đối với các hàng hoá thuộc phẩm cấp trung bình và thấp, thị hiếu của
người Mỹ nhìn chung chuộng những hàng có mẫu mã đơn giản, không cần
cầu kỳ, miễn là mới lạ, ti
ện dụng, giá rẻ. Do đó, những mặt hàng tiêu dùng
của Trung Quốc có cấu trúc đơn sơ nhưng giá thành thấp đã bán rất chạy ở
Mỹ. Ngược lại, một số hàng thủ công mỹ nghệ của Việt Nam xuất sang Mỹ
trước đây do công kềnh, trạm chổ tinh vi nhưng giá thành cao nên rất khó bán
ở Mỹ. Người tiêu dùng Mỹ cũng là những người ưa sự độc đáo, mới lạ. H
ọ có
thể rất tự hào vì nhà mình có những chiếc bát ăn hay lọ hoa với hoa văn
không ai có, dù nó rất đơn giản và không phải là hàng đắt tiền. Yếu tố giá
thành sản phẩm cũng rất quan trọng. Nhất là các mặt hàng có giá thấp một
cách đặc biệt so với các mặt hàng cùng loại thì ngoài yếu tố kinh tế nó còn
kích thích sự tò mò của người tiêu dùng Mỹ.

6. Chính sách kinh tế
Những năm 1990, chiến tranh lạnh kết thúc đã m
ở ra một môi trường
mới cho sự phát triển kinh tế thế giới. Kinh tế trở thành trọng điểm trong các
quan hệ quốc tế. Nguy cơ của cuộc chiến tranh hạt nhân bị đẩy lùi, song cuộc
chạy đua về kinh tế trở thành những thách thức lớn nhất đối với an ninh mỗi
quốc gia. Điều đó đòi hỏi mỗi quốc gia kể cả Mỹ nế
u không muốn tự loại
mình khỏi vòng đua thì phải tập trung ưu tiên phát triển kinh tế. Nhận thức
sâu sắc điều đó, Chính phủ Mỹ đã đặt mục tiêu phát triển kinh tế làm ưu tiên
hàng đầu trong các chính sách của mình và xem “ sức mạnh kinh tế” là cơ sở
cho “an ninh quốc gia” của mình. Các nhà hoạch định chiến lược của Mỹ xác
định rằng: “ mục tiêu trung tâm của chiến lược an nình quốc gia của chúng ta
là thúc đẩ
y phồn vinh cho người dân Mỹ nhờ nỗ lực cả trong nước và ngoài
nước. Các lợi ích kinh tế và an ninh của chúng ta không thể tách rời. Phồn

24
vinh trong nước còn phụ thuộc vào việc chúng ta tích cực tham gia ở ngoài
nước. Sức mạnh của ngoại giao, khả năng duy trì một quân đội hơn hẳn, sức
hấp dẫn của các giá trị của chúng ta ở nước ngoài, tất cả những điều này phần
nào phụ thuộc vào sức mạnh kinh tế của chúng ta”. Với những quan điểm rất
rõ ràng trên, chính sách kinh tế của Mỹ đã được
điều chỉnh theo định hướng
sau: Tập trung phát triển mạnh mẽ các ngành công nghiệp có hàm lượng cao
khoa học công nghệ hơn hẳn các nước phát triển khác; Tập trung phát triển
các công ty lớn, tiến hành sản xuất vừa tập trung vừa phân tán khắp nơi trên
thế giới thông qua hệ thống các công ty xuyên quốc gia của mình; Tạo môi
trường kinh doanh cho hoạt động kinh tế thông qua việc: mở cửa các thị
trường có tính bảo hộ cao trên thế giớ

i nhằm thâm nhập thị trường nước
ngoài. Nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Mỹ trên thị trường thế
giới.
Hướng điều chỉnh nói trên phản ánh sự can thiệp của nhà nước nhằm
giải quyết nhiều vấn đề phức tạp của nền kinh tế. Dẫn tới tạo ra một cơ chế
điều chỉnh gồm hai loại biện pháp khác nhau: một loại thúc
đẩy tự do hoá
kinh tế nhằm phục vụ cho hoạt động mở rộng thị trường ở nước ngoài, loại
khác nhằm bảo hộ mậu dịch một cách khéo léo để bảo vệ nhiều ngành kinh
doanh trong nước.
Dưới thời Tổng thống Bill Clinton, chính sách kinh tế chủ yếu nhằm
thúc đẩy đầu tư cho tương lai, tăng cường thực lực kinh tế của Mỹ và địa vị
củ
a Mỹ trong cuộc cạnh tranh trên thế giới, đặc biệt nhấn mạnh việc phát triển
khoa học công nghệ cao. Nội dung cụ thể của nó được thể hiện qua 4 chương
trình kinh tế:
- Giảm bớt thâm hụt ngân sách chủ yếu bằng các biện pháp: tiết kiệm chi
ngân sách bao gồm giảm chi tiêu về bảo trợ xã hội, quốc phòng, tăng
cường sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế, tă
ng đầu tư cho cơ sở hạ
tầng và khu vực tư nhân, tăng thuế, cải cách bộ máy của chính phủ.

×