Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Tài liệu Luận văn tốt nghiệp “Việc áp dụng UCP 500, ICC trong “Phương thức tín dụng chứng từ” – Thực trạng và biện pháp” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (775.01 KB, 102 trang )


1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
***





KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:

VIỆC ÁP DỤNG UCP 500, ICC 1993 TRONG PHƯƠNG THỨC
TÍN DỤNG CHỨNG TỪ - THỰC TRẠNG VÀ BIỆN PHÁP.





Người thực hiện : Trần Thị Thu Hằng
Lớp : A2 - CN9
Giáo viên hướng dẫn: TS. Phạm Duy Liên



Hà Nội, tháng 5/2003

LỜI MỞ ĐẦU



2

Thế giới ngày nay càng ngày càng có khuynh hướng tiến tới sự hoà nhập,
hội tụ. Dù muốn hay không, sự mở cửa của nền kinh tế đã làm cho trái đất thực
sự trở thành một cộng đồng với đầy đủ ý nghĩa của từ này hơn bao giờ hết.
Trong cộng đồng này, các quốc gia là những thành viên chấp nhận sự lệ thuộc
và ảnh hưởng qua lại lẫn nhau vừ
a công khai vừa vô hình.
Sự ràng buộc lẫn nhau trong cộng đồng bắt đầu từ khía cạnh kinh tế.
Thương mại quốc tế là cầu nối xa xưa nhất giữa các vùng và các nước từ thời cổ
đại. Nếu thương mại đã từng là người dẫn đường cho chiến tranh, thì cũng
chính nó là tác nhân giúp cho thế giới ý thức được thì cần có lẫn nhau vì sự tồn
tại chung. Hàng hoá của mỗi quốc gia dần d
ần được buôn bán trên khắp thế
giới. Mỗi nước đối với cộng đồng thế giới giống như mỗi thành viên trong mỗi
nền kinh tế quốc gia, đều là người bán và cũng là người mua. Do họ vừa là
người bán vừa là người mua, sự tồn tại của nước này cần cho sự tồn tại của các
nước khác và ngược lại. Các nước đều phụ thuộc lẫn nhau, và đều ý thứ
c một
cách tự nhiên rằng mỗi nước không thể phát triển một cách mạnh mẽ và bền
vững nếu dựa trên các quan hệ kinh tế bất bình đẳng, phương hại đến lợi ích của
nhau.
Cho đến ngày nay, hầu hết nhân dân của gần như tất cả các nước trên thế
giới vì tính tất yếu của cuộc sống luôn chỉ quan tâm đến không chỉ tình hình
trong nước mà cả tình hình kinh tế và thương mại c
ủa quốc tế. Bởi vì những
thay đổi ở ngoài biên giới tưởng chừng không có liên quan, nhưng kỳ thực nó sẽ
lan truyền chấn động, ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc đến đời sống của mỗi
người. Nói chung, xuất khẩu và nhập khẩu tác động đến tiềm năng sản xuất,

tổng cầu và thu nhập của mỗi quốc gia.

3
Do vậy, xuất phát từ lợi ích kinh tế, và mỗi cá nhân đều cần quan tâm
nghiên cứu quan hệ kinh tế quốc tế và những tác động của quan hệ này. Đương
nhiên quan hệ quốc tế là bộ phận cầu nối và hạt nhân quan trọng của quan hệ
kinh tế quốc tế. Khi tìm hiểu về thương mại quốc tế, chúng ta buộc phải có
những hiểu biết nhất định về các vấn
đề tiền tệ, tài chính và thanh toán quốc tế.
Đó là lẽ đương nhiên, bởi vì nếu thương mại là cầu nối cho sự liên hệ của cộng
đồng thế giới, thì tiền tệ và thanh toán quốc tế là công cụ để nó thực hiện chức
năng cầu nối này.
Một phương thức thanh toán quốc tế được phổ biến rộng rãi nhất trong
thương mại quốc tế là Phương thức thanh toán tín d
ụng chứng từ. Việc sử dụng
phương thức thanh toán này tuy phức tạp nhưng lại thoả mãn lợi ích của cả hai
bên xuất khẩu và nhập khẩu, thông qua ngân hàng, người nhập khẩu có được sự
bảo đảm cho quyền sở hữu lô hàng nhập khẩu và ngược lại người xuất khaảu có
được sự bảo đảm cho việc nhận đủ số tiền của lô hàng xuất khẩu. Vì kh
ối lượng
thanh toán bằng phương thức tín dụng chứng từ ngày càng rộng lớn, do đó
Phòng Thương mại quốc tế tại Paris – ICC (International Chamber of
Commerce) đã ban hành Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ,
viết tắt là UCP (Uniform Customs and Practice for Documentary Credit) vào
năm 1993 nhằm điều chỉnh các mối quan hệ giữa người nhập khẩu, người xuất
khẩu và các ngân hàng có liên quan trong phương thức thanh toán tín dụng
chứng từ. Bả
n quy tắc này có hiệu lực từ 01/01/1994 sửa đổi từ điều luật ban
hành năm 1983, và thường biết đến là UCP 500.
Để có điều kiện hiểu sâu hơn về Phương thức thanh toán tín dụng chứng

từ cũng như nguồn luật điều chỉnh nó, tôi đã chọn đề tài : “ Việc áp dụng UCP

4
500, ICC trong “Phương thức tín dụng chứng từ” – Thực trạng và biện
pháp”.



Cấu trúc của khoá luận gồm:

Chương I: PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TRONG BUÔN BÁN
QUỐC TẾ HIỆN NAY.
Chương II: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG UCP 500 TRONG THANH
TOÁN QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA.
Chương III: GIẢI PHÁP NHẰM ÁP DỤNG CÓ HIỆU QUẢ HOẠT
ĐỘNG THANH TOÁN Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.













5

CHƯƠNG I

PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN
TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ HIỆN NAY

I> THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN
QUỐC TẾ TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ.

1. THANH TOÁN QUỐC TẾ LÀ GÌ?

- Thanh toán quốc tế là việc thanh toán giữa các nước với nhau về những
khoản tiền nợ lẫn nhau phát sinh từ những quan hệ giao dịch về kinh tế,
tài chính, chính trị, văn hoá Chủ thể trong thanh toán quốc tế có thể là
thể nhân, pháp nhân hoặc chính ph
ủ của các nước.
- Thanh toán quốc tế là chức năng ngân hàng quốc tế của ngân hàng
thương mại. Nó được hình thành và phát triên cơ sở phát triển ngoại
thương của 1 nước và ngân hàng thương mại được nhà nước giao cho độc
quyền làm công tác thanh toán này. Do vậy các giao dịch thanh toán
trong ngoại thương đều phải thông quan ngân hàng. Nghiệp vụ này đã tạo
sự hoà hợp hệ thống ngân hàng Việt nam vào hệ thống ngân hàng thương
mại thế gi
ới, tạo sự an toàn hiệu quả đối với ngân hàng thương mại và
các doanh nghiệp XNK.
- Thanh toán quốc tế đòi hỏi chuyên môn cao. Luật pháp mỗi nước khác
nhau nên trong thương mại đã có những quy định thống nhất, những
thông lệ quốc tế mà các bên tham gia, kể cả ngân hàng đều phải tuân thủ:
UCP 500, IRC 522, Incoterms 2000 do phòng Thương mại Quốc tế
phát hành đều là những quy phạm pháp luật tuỳ chọn, nhưng khi đã chọn
thì buộc phải tuân theo.


6
- Thanh toán quốc tế là việc chi trả bằng tiền liên quan đến các dịch vụ
mua bán hàng hoá hay công ứng lao vụ giữa các tổ chức hay cá nhân
nước này với các tổ chức hay cá nhân nước khác, hay giữa một quốc gia
với tổ chức quốc tế, thông qua quan hệ giữa các ngân hàng của các nước
liên quan. Các quan hệ quốc tế được phân chia thành 2 loại: bao gồm
thanh toán mậu dịch và thanh toán phi mậu dịch.
+ Thanh toán phi mậu dịch
: Là quan hệ thanh toán phát sinh không liên quan
đến hàng hoá cũng như cung ứng lao vụ, nó không mang tính thương mại.
Đó là hững chi phí của các cơ quan ngoại giao, ngoại thương ở nước sở tại,
các chi phí về vận chuyển và đi lại của đoàn khách nhà nước, các tổ chức
của từng cá nhân.
+ Thanh toán mậu dịch:
Khác hoàn toàn với thanh toán phi mậu dịch, thanh
toán mậu dịch phát sinh trên cơ sở trao đổi hàng hoá và các dịch vụ thương
mại, theo giá cả quốc tế. Thông thường trong nghiệp vụ thanh toán mậu dịch
phải có chứng từ hàng hoá kèm theo. Các bên mua bán bị ràng buộc với
nhau bởi hợp đồng thương mại hoặc bằng một hình thức cam kết khác (thư,
điện giao dịch). Mỗi hợp đồng chỉ ra một mối quan hệ nhất
định, nội dung
hợp đồng phải chỉ ra một mối quan hệ nhất định, nội dung hợp đồng phải
quy định rõ cách thức thanh toán dịch vụ thương mại phát sinh.
Về cơ bản, thanh toán quốc tế phát sinh dựa trên cơ sở hoạt động ngoại
thương. Thanh toán là khâu cuối cùng của một quá trình sản xuất và lưu thông
hàng hoá, vì vậy nếu công tác thanh toán quốc tế được tổ chức tốt thì giá trị c
ủa
hàng hoá xuất khẩu mới đưọc thực hiện, góp phần thúc đẩy ngoại thương phát
triển. Thanh toán quốc tế trở thành một yếu tố quan trọng để đánh giá hiệu quả

của hoạt động kinh tế đối ngoại. Quan hệ kinh tế quốc tế ngày càng được mở
rộng. Hàng năm một khối lượng hàng hoá rất lớn được giao lưu trên thị trường

7
thế giới. Cho nên thanh toán quốc tế yêu cầu phải có những phương thức thanh
toán mới cho phù hợp. Do đặc tính thuận lợi của hình thức thanh toán không
dùng tiền mặt, cùng với sự phát triển của hệ thống ngân hàng ở các nước, do đó
thanh toán quốc tế sử dụng thanh toán không dùng tiền mặt (chuyển khoản ) là
chủ yếu.

2.VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN QUỐC TẾ TRONG BUÔN BÁN QUỐC TẾ

a> Thanh toán quốc tế tạ
o môi trường ứng dụng công nghệ ngân hàng:

Hệ thống ngân hàng của mỗi nước dù đã hay đang phát triển đều hết sức
quan tâm đến hoạt động thanh toán quốc tế. Tiêu chí hoạt động thanh toán là
nhanh chóng kịp thời và chính xác. Do đó, các công nghệ tiên tiến của ngành
ngân hàng đều được ứng dụng nhằm thực hiện ngày càng tốt hơn các tiêu chí
nêu trên. Ngân hàng ở các nước đều có mức đầu tư đáng kể vào công nghệ
thông tin và xử
lý dữ liệu.

b> Thanh toán quốc tế mang tính an toàn cao:

Nếu điều kiện về con người và công nghệ được thoả mãn thì thanh toán quốc
tế là một nghiệp vụ thực sự an toàn. Các biện pháp an toàn trong thanh toán
luôn được chú trọng: mã hoá thông tin truyền đi, thiết lập mã điện (test key),
lọc những thông tin gây nhiễu, đối chiếu số liệu tài khoản thôg qua mạng vi
tính đã tọ cho giao dịch thanh toán ngày càng an toàn cho các bên tham gia.


c> Thanh toán quốc t
ế làm tăng tính thanh khoản cho Ngân hàng:

8
Trong quá trình thực hiện các phương thức thanh toán quốc tế cho khách
hàng,ngân hàng yêu cầu khách hàng ký quỹ 1 khoản tiền tỷ lệ với giá trị mà
ngân hàng bảo lãnh sẽ thanh toán. Nguồn tiền này tương đối ổn định và phát
sinh thường xuyên trong việc thực hiện các tín dụng thư nhập khẩu cho
khách hàng. Ngoài ra, tiền khách hàng nộp để giải chấp hàng nhập khẩu do
ngân hàng quản chấp, kỳ hạn thanh toán nước ngoài chưa đến cũng là một
ngu
ồn tạo thanh khoản cho ngân hàng dưới hình thức tiền tập trung chờ
thanh toán.

d> Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại:

Thông qua việc bảo lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho
Ngân hàng nước ngoài , Ngân hàng thực hiện thanh toán quốc tế sẽ có được
những quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nưóc ngoài. Mối quan hệ này
dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ càng
lâu, m
ối quan hệ ngày càng mở rộng. Đây cũng là hiệu quả do thanh toán quốc
tế mang lại.

II. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ CHỦ YẾU TRONG
BUÔN BÁN QUỐC TẾ.

1.PHƯƠNG TIỆN THANH TOÁN QUỐC TẾ.


Phương tiện thanh toán là công cụ mà người ta thực hiện trả tiền cho
nhau trong quá trình buôn bán với nhau. Tiền mặt là phương tiện thanh toán
nhưng trong thanh toán quốc tế nó giữ vai trò thứ yếu. Phương tiện thanh toán

9
chủ yếu dùng trong thanh toán quốc tế là hối phiếu (Bill of exchange, Drafts),
séc (cheque, check), thẻ tín dụng Mỗi công cụ thanh toán đều có công dụng
riêng của nó, thích hợp cho từng đối tượng và loại hình giao dịch thanh toán của
các chủ thể kinh tế.
Phần lớn các công cụ thanh toán có khả năng lưu thông (chuyển nhượng,
mua bán) và được xem như là tiền tệ. Các đặc điểm của loại công cụ có thể
chuyển nhượng là:
- Công cụ
phải được chuyển nhượng bằng cách chuyển giao hay ký hậu và
chuyển giao.
- Quyền sở hữu được chuyển giao cho người đáng tin cậy và người đó
không biết bất kỳ khiếm khuyết naò về quyền sở hữu của người chuyển
nhượng.
- Người đang nắm giữ hợp pháp có thể đứng tên khởi kiện.
- Không cần thông báo việc chuyển nhượng cho các bên có liên quan.
- Quyền sở hữu được chuyển nhượng tự do, không bị ràng buộc bởi các
phần đóng góp hay trái quyền đối ứng giữa các bên tham gia trước đó mà
bên được chuyển nhượng không được thông báo cho biết.
Hối phiếu và séc được chuyển quyền sở hữu bằng cách trao tay giống
như giấy bạc ngân hàng chỉ trong trường hợp chúng có quy định thanh toán cho
người cầm giữ chúng. Trong các trường hợp hối phiếu và séc đượ
c thanh toán
theo lệnh, các công cụ đó yêu cầu phải được ký hậu và chuyển giao quyền sở
hữu.


1.1 - Hối phiếu:

Hối phiếu là một lệnh đòi tiền vô điều kiện do người bán (người xuất
khẩu, người cung ứng dịch vụ ) ký phát đòi tiền người mua (người nhập khẩu,

10
người nhận cung ứng) và yêu cầu người này phải trả một lượng tiền nhất định
tại một địa điểm nhất định trong một thời gian xác định được quy định trong hối
phiếu cho người hưởng lợi.
* Từ đầu thế kỷ 20, do sự phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế đã
thúc đẩy các nước đi đến thi
ết lập một thoả ứơc quốc tế về hối phiếu nhằm
thống nhất những nguyên tắc cơ bản về hối phiếu trong thương mại quốc tế.
* Về phương diện pháp lý trên thế giới cho đến nay, có 3 nguồn điều chỉnh
lưu thông hối phiếu đó là:
- Công ước Giơ-ne-vơ 1930 – 1931 (Geneva Covention of 1930) gồm 2
luật:
+ Luật thống nhất v
ề hối phiếu (Uniform Law for Bill of Exchange
– ULB)
+ Luật thống nhất về séc (Uniform Law for check – ULC)
- Luật hối phiếu của Anh năm 1882 (Bill of Exchange Act of 1882 – BEA)
- Luật thương mại thống nhất của Mỹ năm 1962 (Uniform Commercial
Code of 1962 – UCC)
Ba nguồn luật điều chỉnh lưu thông hối phiếu nói trên có những đặc điểm
rất khác nhau và nhìn chung ULB thuộc công ước Giơnevơ 1930 – 1931 được
quy định chi tiết chặt chẽ hơn BEA-UCC và nó cũng được nhi
ều nước áp dụng.

1.2 – Séc:


Séc là một lệnh vô điều kiện của người chủ tài khoản tiền gửi- ra lệnh
cho ngân hàng trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định để trả cho
người cầm séc, gười có tên trong séc hoặc trả theo lệnh của chính người ấy.
Hiện nay, séc là một phương tiện chi trả được dùng hầu như phổ biến
trong giao lưu thanh toán nội địa của tất cả các nướ
c. Trong thanh toán nội địa

11
nước ta có séc chuyển khoản, séc bảo chi, séc định mức, séc chuyển tiền. Trong
thanh toán quốc tế, séc cũng được sử dụng rộng rãi cho thanh toán tiền hàng,
cung ứng lao động, du lịch và các khoản phí mậu dịch.
- Thực tiễn về sử dụng séc trong kinh tế thị trường.

Các nhà nghiên cứu không đồng ý về nguồn gốc của séc mà chỉ đi đến
một kết luận chung là séc được thông dụng tại nước Anh từ thế kỷ 17 và phát
triển mạnh vào thế kỷ 19. Trong thời kỳ Việt nam là thuộc địa của Pháp, séc
cùng với các luật séc của Pháp đã được những người Pháp mang đến và áp dụng
tại Việt nam, luật séc được ban hành sớm nhất tại Việt nam là Luật 1865 củ
a
Pháp, được ban hành vào tháng 4 năm 1967. Như vậy séc đã có mặt tại Việt
nam từ những năm 60 của thế kỷ 19. Việc sử dụng séc được các Ngân hàng
thương mại Việt nam khuyến khích và quảng bá nên séc ngày càng trở nên
thông dụng ở Miền nam vào thập niên 60 và đầu thập niên 70.

2. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN QUỐC TẾ.

Phương thức thanh toán quốc tế là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả
tiền hàng trong giao dịch mua bán ngoại th
ương giữa người nhập khẩu và người

xuất khẩu. Hiện nay trong quan hệ ngoại thương có rất nhiều phương thức thanh
toán khác nhau như: chuyển tiền, ghi sổ, nhờ thu, tín dụng chứng từ Mỗi
phương thức thanh toán đều có ưu điểm nhược điểm, thể hiện thành mâu thuẫn
quyền lợi giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu. Vì vậy, việc vậ
n dụng
phương thức thanh toán thích hợp phải được các bên bàn bạc thống nhất và ghi
vào hợp đồng mua bán ngoại thương. Mỗi phương thức là một phương pháp
bảo đảm thanh toán; việc chuyển giao “tiền thật sự” hay “chi trả” giữa người
mua và người bán được thực hiện bởi các phương thức đó.

12

Cho dù lựa chọn phương thức nào, đến khi thanh toán thì cũng cần các
ngân hàng can dự vào. Các ngân hàng vận dụng chu trình thanh toán quốc tế sẽ
bảo đảm thực hiện việc chuyển tiền từ người mua đến người bán . Việc chuyển
tiền này có thể được thực hiện theo chỉ thị của người mua, ngân hàng cũng có
thể can dự vào với tư cách là thụ uỷ của nhà xuất khẩu để thu hồ
i tiền nợ bán
hàng hay để trả tiền với danh nghĩa thực hiện theo cam kết trong một tín dụng
chứng từ.
Dưới đây, tôi muốn điểm qua một số phương thức thanh toán quốc tế
hiện hành. Đây là một số phương thức thường được sử dụng tại các ngân hàng
thương mại ở Việt nam cũng như ở các nước trên thế giới.

2.1
- Phương thức ghi sổ (Open account)

Là phương thức thanh toán mà trong đó người xuất khẩu khi xuất khẩu
hàng hoá , cung ứng dịch vụ thì ghi nợ cho người nhập khẩu, theo dõi vào một
cuốn sổ riêng và việc thanh toán các khoản nợ này sẽ được thực hiện vào một

thời kỳ nhất định.

2.2 - Phương thức chuyển tiền (Remittance)


Là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó người nhập khẩu
(người mua, người trả tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình chuyển một số
tiền nhất định cho người hưởng lợi (Beneficiary) theo một địa điểm nhất định
và trong một thời gian nhất định.

13
Về hình thức, việc chuyển tiền của ngân hàng phục vụ người nhập khẩu
có thể tiến hành bằng điện (Telegraphic Transfer) hoặc băng thư (Mail
Transfer)
Có thể mô hình hoá ngiệp vụ này theo sơ đồ:




Phương thức chuyển tiền:













(1): Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó quy định phương
thức thanh toán là chuyển tiền sẽ tiến hành giao hàng cùng bộ chứng từ
giao hàng cho người nhập khẩu.
(2): Người nhập khẩu sau khi nhận hàng một thời gian nhất định quy định
trong hợp đồng sẽ liên hệ với ngân hàng phục vụ mình để nhờ chuyển trả
tiền hàng (dịch vụ
) cho người xuất khẩu.

Ngân hàng phục vụ
người nhập khẩu

Ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu

Người nhập khẩu

Người xuất khẩu
(1)
(5)
(4)
(2) (3)

14
(3): Ngân hàng ghi Nợ tài khoản (hoặc thu tiền) của người nhập khẩu
trong khi kiểm tra tính hợp lệ, hợp pháp của bộ chứng từ nhập khẩu.
(4): Ngân hàng tiến hành chuyển tiền cho ngân hàng phục vụ xuất khẩu
heo chỉ định.
(5): Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu tiến hành báo Có cho người xuất

khẩu.

2.3 - Phương thức thanh toán nhờ thu (Collection of Payment)


Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán mà trong đó
người xuất khẩu sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng thì tiến hành uỷ thác
cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền hàng trên cơ sở hối phiếu do người
xuất khẩu lập. Có hai hình thức nhờ thu là nhờ thu trơn và nhờ thu kèm chứng
từ:

Nhờ thu trơn (Clean Collection): Người xuất khẩu giao hàng và bộ chứng
từ cho người nhập khẩu, sau
đó lập hối phiếu uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ
mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary collection): Người xuất khẩu chỉ
giao hàng cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu cùng bộ chứng từ giao
hàng uỷ quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu. Ngoài ra, tuỳ theo thời
hạn thanh toán còn có nhờ thu chứng từ đổi lấy sự chấp nhận (D/A: Documents
against Acceptance): theo ph
ương thức này, người nhập khẩu khi nhận được hối
phiếu có kỳ hạn do người xuất khẩu lập chỉ cần chấp nhận thanh toán trên hối
phiếu là có thể nhận được bộ chứng từ nhận hàng, việc thanh toán xảy ra sau 1
kỳ hạn ghi trên hối phiếu. Nhờ thu chứng từ đổi lấy sự thanh toán (D/P:

15
Documents against Pyment) thì khó khăn hơn: Người Nhập khẩu phải thanh
toán tiền hàng tại ngân hàng nhờ thu, ngân hàng mới giao chứng từ nhận hàng.
Quy trình này được mô hình hoá như sau:







Phương thức nhờ thu:






















Ngân hàng phục vụ
người nhập khẩu


Ngân hàng phục vụ
người xuất khẩu


Người nhập khẩu


Người xuất khẩu
(1)
(7)
(3)
(5) (4)
(
2
)
(6)

16
(1) Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó quy định phương thức
thanh toán là Nhờ thu, sẽ tiến hành giao hàng cùg bộ chứng từ giao
hàng cho người nhập khẩu.
(2) Người xuất khẩu sau đó chuyển hối phiếu (nếu là nhờ thu trơn) hoặc
bộ chứng từ kèm hối phiếu (nếu là nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân
hàng phục vụ mình uỷ thác để nhờ thu.
(3) Ngân hàng ph
ục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối
phiếu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ
thu.
(4) Ngân hàng người Nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối phiếu kèm

chứng từ) cho người nhập khẩu để đổi lấy tiền hoặc đổi lấy sự chấp
nhận cho ngân hàng của mình.
(5) Ngườ
i Nhập khẩu chuyển trả tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp nhận
cho ngân hàng của mình.
(6) Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hối phiếu đã
chấp nhận cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
(7) Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu báo Có hoặc trả lại hối phiếu cho
người xuất khẩu.
(Trong tr
ường hợp nhờ thu đổi lấy sự chấp nhận, khi đến hạn thanh toán
người nhập khẩu tiến hành các bước (5), (6), (7) lần nữa để tiến hành thanh
toán)
Hiện nay, phương thức thanh toán Nhờ thu được thống nhất theo luật
điều chỉnh URC phiên bản số 522, hiệu lực từ ngày 1.1.1996 trên toàn thế giới.

2.4 - Phương thức thanh toán CAD (Cash Agains Documents)


17
Theo phương thức thanh toán này, người Nhập khẩu buộc phải mở tài
khoản ký quỹ tại một ngân hàng thuộc nước người xuất khẩu. Sau khi được
ngân hàng xác nhận đã có số tiền ký quỹ trên tài khoản, người xuất khẩu xuất
trình bộ chứng từ giao hàng cho người Nhập khẩu. Sau khi xem xét bộ chứng
từ, người nhập khẩu chắc chắn rằng hàng đã được giao và sẽ cấp cho ng
ười xuất
khẩu Thư xác nhận (Letter of Confirmation). Người xuất khẩu mang thư này
xuất trình với ngân hàng nơi người nhập khẩu ký quỹ phong toả. Ngân hàng đối
chiếu với chữ ký đã đăng ký của người nhập khẩu và nếu đúng, sẽ chuyển tiền
phong toả này vào tài khoản của người xuất khẩu để thanh toán tiền hàng.

Phương thức thanh toán này có lợi cho người xuất khẩu vì họ chỉ chu
ẩn
bị hàng xuất sau khi có xác nhận phong toả của ngân hàng. Phương thức này
thường được thực hiện khi người nhập khẩu có văn phòng đại diện tại nước
người xuất khẩu.

2.5 - Phương thức thanh toán Tín dụng chứng từ

Đây là phương thức thanh toán được áp dụng nhiều nhất trong thương
mại quốc tế vì nó đảm bảo lợi ích cho các bên trong thanh toán. Nếu các
phương thức trên , việc thanh toán phụ thuộc vào người mua thì trong phương
thức này người bán bảo đảm nhận đựơc tiền thanh toán đúng thời hạn khi họ
xuất trình bộ chứng từ hoàn hảo theo yêu cầu và ngân hàng lúc này không chỉ
đóng vai trò là trung gian làm dịch vụ mà tham gia hẳn vào quá trình thanh toán
với tư cách là một chủ
thể.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một cam kết của ngân hàng
sẽ trả tiền cho người xuất khẩu theo chỉ dẫn và chịu mọi phí tổn của người nhập
khẩu số tiền đúng trị giá của hàng hoá để giao khi người xuất khẩu đã xuất trình

18
đầy đủ bộ chứng từ cho ngân hàng (Chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn ở phần tiếp
theo).
III. PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.TẦM QUAN TRỌNG- PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA UCP
1.1 Sự ra đời của UCP

Lần đầu tiên Qui tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ (Uniform
Customs and Practice for documentary Credits) gọi tắt là UCP được Phòng
thương mại quốc tế công bố vào năm 1933. Nó là một bộ các Qui tắc được công

nhận rộng rãi điều chỉnh đến việc sử dụng tín dụng chứng từ trong thương mại
Quốc tế.
Trong quãng thời gian từ năm 1933 đến nay, nhiều mặt của hoạt độ
ng buôn
bán quốc tế đã thay đổi sâu sắc, nhưng qui tắc và thực hành thống nhất tín dụng
chứng từ vẫn là một văn bản đầy sức sống của buôn bán quốc tế. Trải qua quá
trình áp dụng, UCP đã được sửa đổi vào các năm 1951, 1962, 1974, 1983 và
1993 nhằm hoàn thiện hơn nữa việc áp dụng UCP để điều chỉnh các mối quan
hệ trong phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, đồ
ng thời bảo vệ quyền lợi
của các bên liên quan.

1.2 Ý nghĩa, tầm quan trọng


Tại sao Qui tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ lại trở thành và
vẫn còn cần thiết đến thế qua một thời gian dài như vậy, một thời gian mà chắc
chắn kéo dài đến thế kỷ 21.
Đó chính vì hai lý do:


19
Lý do thứ nhất
: thực tiễn buôn bán quốc tế tiếp tục đòi hỏi phải dùng tín
dụng chứng từ và do đó đòi hỏi phải có một tập hợp các qui phạm được quốc tế
thừa nhận để điều chỉnh việc sử dụng tín dụng chứng từ.
Cũng như những năm trước đây, người bán vẫn ngần ngại khi chuyển giao
hàng hoá của họ tr
ước khi nhận được tiền, trong khi người mua lại muốn nắm
được hàng hoá trước khi trả tiền. Nhưng rất khó mà làm cho việc trả tiền trùng

với việc giao hàng thực tế, do đó người ta thường thoả thuận với nhau một biện
pháp thoả hiệp - trả tiền “ giao hàng tượng trưng” tức là giao chứng từ di
chuyển quyền sở hữu hay quyền kiểm soát hàng hoá.
Vì vậy sự tín nhiệm trở thành quan trọ
ng và các ngân hàng được yêu cầu
tham dự bằng cách cam kết có điều kiện với người bán là sẽ trả tiền khi xuất
trình các chứng từ và khi thực hiện đúng các điều kiện do người mua qui định.
Đó là nguyên nhân vì sao vẫn thường xuyên cần đến tín dụng chứng từ.

Lý do thứ hai:
Qui tắc và thực hành thống nhất tín dụng chứng từ rất may
mắn là một văn bản sống được Uỷ ban Ngân hàng của Phòng Thương mại Quốc
tế thường xuyên sửa đổi từ ngày văn bản ra đời.
1.3 Phạm vi áp dụng - Tính chất pháp lý của UCP


Văn bản pháp lý quốc tế thông dụng của chứng từ là “ Qui tắc và thực hành
thống nhất về tín dụng chứng từ - UCP “ của Phòng Thương mại Quốc tế. Bản
qui tắc này mang tính chất pháp lý quốc tế tuỳ ý không mang tính chất bắt buộc,
có nghĩa là khi áp dụng nó các bên đương sự phải thoả thuận ghi vào L/C. Và
khi bản qui tắc này đã được thoả thuận ghi vào L/C trong phương thức thanh
toán tín dụng chứ
ng từ, nó được coi như là điều luật chủ yếu để điều chỉnh các

20
mối quan hệ giữa người nhập khẩu, người xuất khẩu, các ngân hàng và các bên
liên quan trong phương thức thanh toán này.
Các điều khoản của UCP sẽ cung cấp cho các ngân hàng, các luật gia, các
người nhập khẩu, các người xuất khẩu, các hãng vận tải sự giúp đỡ thực hành
và trợ lực có liên quan đến thương mại quốc tế.


1.4 Những nội dung chủ yếu của UCP

- Những qui định chung và định nghĩa
- Hình thức thông báo tín dụng
- Nghĩa vụ và trách nhiệm
- Các chứng từ
- Các điều qui định khác
- Tín dụng chuyển nhượng
- Chuyển nhượng thu tiền được
2. PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ - ÁP DỤNG UCP 500
Trước đây, thư tín dụng( Letter of Credit) hay gọi là L/C là một bức thư
do một người g
ưỉ cho một hay nhiều người khác yêu cầu những người này ứng
tiền cho người thứ 3 được ghi trong thư một số tiền nhất định và cam kết sẽ
hoàn trả số tiền đó cho người đã ứng ra. L/C được trao cho khách hàng, tức là
người yêu cầu mở L/C đồng thời cũng là người hưởng lợi L/C. Mục đích của
L/C là nhằm chuyển tiền từ nơi người yêu cầu mở
L/C đến nơi người đó sẽ sử
dụng. Điển hình nhất là L/C du lịch (Traveller’s Letter of Credit).

21
Thương mại quốc tế phát triển, các phương thức thanh toán lần lượt được
thử nghiệm, cải tiến nhằm đảm bảo tốt nhất cho quyền lợi của cả nhà xuất khẩu
lẫn nhập khẩu. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ đã ra đời và nhanh
chóng được sử dụng rộng rãi trên thế giới.

2.1 Ý nghĩa của phương thức tín dụ
ng chứng từ.


Khi hàng hoá được mua hay bán ra nước ngoài thì những giao dịch này
có thể trở lên phức tạp, rắc rối vì một số những lý do sau: thời gian giao hàng,
rủi ro trên đường đi, thói quen, quy tắc điều khiển việc xuất nhập khẩu và thực
tế thì người bán hàng và người mua ở các nước khác nhau. Hơn nữa có thể cả
hai bên chưa bao giờ gặp nhau vì vậy chưa thể làm quen với tình trạng kinh
doanh của mỗi bên. Vậy đ
òi hỏi phải có một phương thức thanh toán bảo vệ lợi
ích cho các bên tham gia vào giao dịch này. Người mua phải biết khi nào phải
thanh toán, thanh toán cho ai và có nhận được hàng hoá đúng theo yêu cầu
không. Còn lợi ích của người bán là nhận khoản tiền thanh toán cho hàng hoá
của mình một cách nhanh nhất. Để thoả mãn lợi ích của cả hai bên, một phương
thức được sử dụng rộng rãi trên thế giới trong hệ thống ngân hàng là phương
thức tín dụng chứng từ
. Với phương thức này người xuất khẩu phải gửi đến
ngân hàng bộ chứng từ yêu cầu thanh toán, nếu phù hợp người xuất khẩu sẽ
nhận được tiền hàng. Những yêu cầu trong tín dụng chứng từ phải được ghi
trong hợp đồng mua bán.
Nó có 3 chức năng:


22
+ Chức năng thanh toán: là việc dùng chứng từ làm cơ sở thanh toán
giữa hai bên.
+ Chức năng bảo đảm: là sự cam kết trừu tượng, ngân hàng mở đảm bảo
thanh toán cho người xuất khẩu trong trường hợp nhà nhập khẩu không có khả
năng thanh toán cho nhà xuất khẩu.
+ Chức năng tín dụng: là dùng tín nhiệm để vay hoặc ký quỹ một khoản
tín dụng trong thời hạn giữa
đôi bên.


2.2 - Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ:


a) Người xin mở L/C (Applicant): là người mua, người nhập khẩu hàng hoá,
người viết đơn yêu cầu mở L/C đối với ngân hàng.
b) Ngân hàng mở thư tín dụng (Issuing bank) hay còn gọi là ngân hàng phát
hành: là ngân hàng tại đó L/C được mở.
c) Ngân hàng thông báo thư tín dụng (Advising bank): ngân hàng này
thường nằm ở nước người hưởng lợi. Nó là ngân hàng do ngân hàng phát
hành yêu cầu thông báo hộ tới người thụ hưởng về tất cả những điề
u khoản
và điều kiện của thư tín dụng.
Chức năng chính của ngân hàng thông báo là chứng tỏ với người hưởng
lợi rằng khoản tín dụng này được xác thực khi mà bản thân nó được ngân hàng
phát hành xác định là đúng. Hầu hết các ngân hàng phát hành đều tự chọn lấy
ngân hàng thông báo có thể vì ngân hàng này có chi nhánh tại nước người thụ
hưởng hoặc có mối quan hệ qua lại (có tài khoản tại ngân hàng đó) với một
ngân hàng
đại lý ở nước người hưởng thụ. Nhưng cũng không loại trừ trường

23
hợp người mua (người xin mở L/C) tự chọn lấy ngân hàng thông báo theo yêu
cầu của người thụ hưởng mà qua ngân hàng đó khoản tín dụng sẽ được thông
báo.

Điều 7 UCP 500 quy định trách nhiệm cho ngân hàng thông báo như sau:
“Một tín dụng có thể được thông báo không có thể xác minh được tính
chân thật bề ngoài của Tín dụng mà mình phải thông báo, thì ngân hàng không
được chậm trễ phải thông báo cho ngân hàng mà các chỉ thị đã nhận từ ngân
hàng đó biết rằng nó không có khả

năng xác minh được tính chân thật bề ngoài
của Tín dụng và tuy nhiên nếu nó đồng ý thông báo Tín dụng thì phải thông báo
cho Người hưởng lợi rằng nó không thể xác minh được tính chân thật bề ngoài
của Tín dụng “
d) Ngân hàng xác nhận (Confirming Bank):
Là ngân hàng đứng ra xác nhận cho ngân hàng mở L/C theo yêu cầu của
nó. Ngân hàng xác nhận thường là một ngân hàng lớn, có uy tín trên thị trường
tín dụng và tài chính quốc tế. Ngân hàng mở L/C phải yêu cầu một ngân hàng
khác xác nhận cho mình sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng mở L/C. Muốn xác
nhận , ngân hàng mở L/C phải trả thủ tục phí rất cao (Confirming charges) và
đôi khi còn phải đặt trước một khoản tiền (cash over); mức đặt tiền trước có thẻ
là 100% trị giá L/C. Thông thường các ngân hàng chỉ xác nhận cho L/C không
huỷ ngang.
2.3- Thư Tín dụng L/C là một công cụ quan trọng của phương thức Tín dụng
chứng từ:

24
 L/C là văn bản pháp lý trong đó Ngân hàng mở cam kết trả tiền co
người xuất khẩu nếu họ xuất trình được một bộ thanh toán phù hợp
với nội dung của L/C.
 L/C có tính chất quan trọng, đó là nó hình thành trên cơ sở của Hợp
đồng mua bán, tức là phải căn cứ vào Hợp đồng mua bán để người
nhập khẩu làm đơn yêu cầu mở L/C và sau khi mở rồi L/C lại hoàn
toàn độ
c lập với Hợp đồng mua bán, có nghĩa là khi thanh toán Ngân
hàng mở L/C chỉ căn cứ vào L/C.
Những nội dung chủ yếu của một L/C bao gồm những điều khoản sau
đây:
a. Số hiệu, địa điểm và ngày mở L/C:
Tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu riêng của nó. Tác dụng của số

hiệu là để trao đổi thư từ, điện tín có liên quan đến việ
c thực hiện thư tín dụng.
- Địa điểm mở L/C
: là nơi mà Ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho
người xuất khẩu. Địa điểm này có ý nghĩa trong việc chọn luật áp dụng khi xẩy
ra ranh chấp nếu có xung đột pháp luật về L/C đó.
- Ngày mở L/C
: là ngày bắt đầu phát sinh sự cam kết của Ngân hàng mở L/C
với người xuất khẩu, là ngày Ngân hàng mở L/C chính thức chấp nhận đơn xin
mở L/C của người nhập khẩu, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và
cuối cùng là căn cứ của người xuất khẩu kiểm tra xem người nhập khẩu thực
hiện việc mở L/C có đúng hạn quy định trong hợp đồng hay không.
b. Tên, đị
a chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ:
- Ngân hàng mở L/C ( Issuing Bank)

25
- Người xin mở L/C ( Applicant)
- Người thụ hưởng L/C ( Beneficiary)
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng ( Advising Bank)
- Ngân hàng xác nhận ( Confirming bank)
- Ngân hàng trả tiền ( Negotiating bank or Paying Bank)
c. Số tiền của thư tín dụng:
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số, vừa được ghi bằng chữ và thường
thống nhất với nhau, Không thể chấp nhận một thư tín dụng có số tiền ghi bằng
số và bằng chữ mâu thuẫn chau.
Tên đơn vị
tiền tệ phải ghi rõ ràng, vì cùng một tên gọi là đôla Hồng Kông
(HKD), đô la Úc ( AUC), đô la Canada ( CAD) Không nên ghi số tiền dưới

dạng một số tuyệt đối. Cách ghi tốt nhất là ghi một số giới hạn mà người xuất
khẩu có thể đạt được dù hàng giao có tính chất nguyên cái hay rời ( ví dụ:
một số tiền không quá là X )
Điều 39 UCP 500 quy định:
a. Những từ "vào khoảng", "ước chừng", "độ chừng" hoặc những t
ừ tương
tự được dùng để nói về số tiền của Tín dụng hoặc số lượng hoặc giá đơn vị ghi
trong Tín dụng phải được hiểu là cho phép một sự xê dịch hơn kém không quá
10% so với số tiền hoặc số lượng hoặc đơn giá mà những từ ấy nói đến.
b. Trừ khi một Tín dụng quy định không được giao hàng nhiều hay ít hơn số
lượng hàng quy định, thì một dung sai 5% hoặc h
ơn kém có thể được chấp nhận
miễn là lúc nào số tiền của các lần thanh toán không được vượt quá số tiền của
Tín dụng. Dung sai này không được áp dụng khi Tín dụng quy định số lượng
tính bằng một đơn vị bao kiện hoặc một số đơn vị chiếc.

×