…………..o0o…………..
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
Khả năng , lợi ích và lộ trình của
việc ra đời một đồng tiền chung cho
các nước ASEAN
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 1 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới đã được chứng kiến một sự kiện kinh tế kỳ diệu trong thập kỷ vùa
qua, một sự kiện chưa từng có trong lịch sử tiền tệ thế giới, một sự kiện đã được
Tổng thống Pháp Jacques Chirac gọi là "sự cải cách lớn nhất và quan trọng nhất
về kinh tế và tài chính trong vòng 50 năm qua". Đó là sự ra đời của Liên minh
tiền tệ châu Âu EMU và
đồng tiền chung châu Âu EURO. Khác với các liên
minh tiền tệ trước đây hình thành trên cơ sở một mối quan hệ chính trị nào đó,
Liên minh tiền tệ châu Âu liên kết 12 quốc gia độc lập có chủ quyền với một
mục tiêu chung là biến châu Âu trở thành khu vực thịnh vượng và ổn định nhất
trên thế giới.
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các nước châu Âu đã cho các
nước Đông Nam á niềm tin vào triển vọng hình thành một đồ
ng tiền chung cho
khu vực. Trên thực tế, khả năng hình thành một liên minh tiền tệ ở Đông Nam á
đã được một số nhà kinh tế học bắt tay nghiên cứu từ năm 1994. Nhưng phải đến
sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á năm 1997, đề tài này mới trở thành
mối quan tâm thực sự đối với các nhà lãnh đạo cũng như các nhà kinh tế học ở
Đông Nam á. ASEAN hy vọng đồng tiền chung sẽ
thúc đẩy nền kinh tế khu vực
tăng trưởng ổn định, bền vững, giảm bớt nguy cơ khủng hoảng và giúp ASEAN
khẳng định được vị trí của mình trên các diễn đàn kinh tế thế giới.
Xuất phát từ thực trạng phát triển kinh tế của khu vực ASEAN hiện nay,
những đòi hỏi của quá trình hội nhập và hợp tác ngày một sâu rộng trên toàn thế
giới, tôi xin chọn đề tài "Khả
năng , lợi ích và lộ trình của việc ra đời một đồng
tiền chung cho các nước ASEAN " làm đề tài khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đây cũng là đề tài đang được các nước trong khu vực cũng như trên thế giới
quan tâm và đi sâu nghiên cứu.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 2 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
Với khoá luận này, tôi xin trình bày về cơ sở lý luận ra đời một đồng tiền
chung, quá trình hình thành liên minh tiền tệ châu Âu, từ đó rút ra những bài học
kinh nghiệm cho ASEAN nói riêng cũng như bất kỳ một khu vực nào mong
muốn hình thành một liên minh tiền tệ nói chung và những vấn đề của Việt nam
trong tiến trình hội nhập hướng tới hình thành một đồng tiền chung. Từ những
phân tích đó, cùng với đánh giá tình hình thực tế ở
Đông Nam á hiện nay, có thể
đi đến kết luận rằng một liên minh tiền tệ tương tự như liên minh tiền tệ châu Âu
sẽ ra đời ở ASEAN trong tương lai không xa. Bố cục cụ thể của khoá luận gồm
ba chương như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận ra đời một đồng tiền chung .
Chương II: Khả năng , lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền
chung ASEAN.
Ch
ương III:Giải pháp nhằm hình thành những điều kiện cơ bản cho một
đồng Tiền chung ASEAN và các vấn đề của Việt nam .
Do trình độ còn hạn chế, khóa luận không khỏi có những sai sót và bất cập.
Tôi rất mong nhận được sự đóng góp phê bình từ phía thầy cô và các bạn. Cuối
cùng, tôi xin nói lời cảm ơn chân thành tới PGS. TS. Nguyễn Phúc Khanh, người
đã tận tình hướng dẫn và có những ý kiến , đóng góp quý báu giúp đỡ tôi thực
hiệ
n khóa luận này.
Nam định , ngày 01 tháng 5 năm 2003 .
Sinh viên : Bùi Quốc Thái .
TC K18-A1.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 3 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHO VIỆC RA ĐỜI MỘT
ĐỒNG TIỀN CHUNG ASEAN
I.1 Liên minh tiền tệ và đồng tiền chung - Một hình thức cao nhất của
liên kết kinh tế Quốc tế.
Nhân loại đã bước sang những năm đầu của thế kỷ 21. Các quốc gia, dân
tộc đang chuẩn bị hành trang cho một kỷ nguyên mới mà một trong các đặc
trưng cơ bản là xu hướng hợp tác, liên kết giữa các Quốc gia để giải quyết các
vấn đề kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội và môi trường mang tính chất toàn cầu.
Ngày nay trong quá trình phát triển của mình, các quốc gia trên thế giới đang
từng bước tạ
o lập nên các mối quan hệ song phương và đa phương nhằm từng
bước tham gia vào các liên kết kinh tế quốc tế với nhiều mức độ khác nhau, đem
lại lợi ích thiết thực cho mỗi bên. Chính các liên kết kinh tế quốc tế là biểu hiện
của xu hướng toàn cầu hoá khu vực hoá đang diễn ra hết sức sôi động trong
những năm gần đây.
Khái niệm:
Liên kết kinh tế quôc tế hay còn gọi là nh
ất thể hoá kinh tế quốc tế là một
hình thức trong đó diễn ra quá trình xã hội hoá có tính chất quốc tế đối với quá
trình tái sản xuất giữa các chủ thể Kinh tế quốc tế.
Liên kết kinh tế quốc tế chính là sự thành lập một tổ hợp Kinh tế quốc tế
của các nước thành viên nhằm tăng cường phối hợp và điều chỉnh lợi ích giữa
các bên tham gia, giảm b
ớt sự khác biệt về điều kiện phát triển giữa các bên và
thúc đẩy Quan hệ kinh tế quốc tế phát triển cả bề rộng và chiều sâu. Quá trình
Liên kết kinh tế quốc tế đưa tới việc hình thành một thực thể kinh tế mới ở cấp
độ cao hơn với các mối Quan hệ kinh tế quốc tế phức tạp và đa dạng.
Các bên tham gia các liên kết kinh tế quốc tế có th
ể là các Quốc gia hoặc
các tổ chức doanh nghiệp thuộc các nước khác nhau.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 4 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
Như vậy liên kết Kinh tế quốc tế là một qúa trình khách quan bởi nó là kết
quả của quá trình vận động mang tính quy luật, xuất phát từ yêu cầu phát triển
lực lượng sản xuất và quốc tế hoá đời sống kinh tế do tác động của cách mạng
Khoa học kỹ thuật. Mặt khác, liên kết Kinh tế quốc tế cũng là một quá trình chủ
quan bởi nó là kết quả của những hoạt động c
ủa các quốc gia trong việc phối hợp
nền kinh tế của các quốc gia đó, làm cho các nền kinh tế thích ứng với nhau, dần
dần hình thành một chỉnh thể kinh tế có cơ cấu tối ưu, có năng suất lao động cao.
Liên kết Kinh tế quốc tế hay nhất thể hoá Kinh tế quốc tế là một khái niệm
được tranh luận tương đối nhiều, ý kiến chia rẽ tương đối lớn trên các diễn
đàn
kinh tế thế giới, trong những năm gần đây. Nhìn từ mặt hàm nghĩa thì từ liên kết
Kinh tế quốc tế (Integration) là bắt nguồn từ chữ Latinh Intergratio, ý của nó là
chỉ việc liên hiệp hoặc hoà nhập các bộ phận khác nhau lại thành một chỉnh thể.
Về nghĩa rộng thì nhất thể hoá kinh tế thế giới có hai tầng bậc lớn là vi mô và vĩ
mô. Về mặt vi mô thì buổi đầu s
ớm nhất chỉ là giữa các doanh nghiệp với nhau
thông qua các hình thức độc quyền như Cácten, Tờ rớt, ... để kết hợp lại thành
một thể liên hiệp kinh tế mới. Về mặt vĩ mô là chỉ sự liên hiệp kinh tế giữa các
nước và khu vực khác nhau trong cùng một Châu lục hoặc giữa các Châu lục
thông qua ký kết các điều ước hay Hiệp định, lập ra các chuẩn tác hoạt động
chung để thực hi
ện các mục đích kinh tế và chính trị, thậm chí thông qua việc
nhượng bớt chủ quyền cục bộ của quốc gia, xây dựng các tổ chức “siêu quốc
gia” để thực hiện sự liên hiệp kinh tế.
1.1 Liên kết kinh tế quốc tế là kết quả tất yếu của quá trình Quốc tế hoá đời
sống kinh tế
Trong quá trình phát triển gần một trăm năm qua, kinh tế thế giới có những
quy luật đặc thù và dần dần xuất hiện một xu thế có tính chất toàn thể. Đó chính
là xu thế quốc tế hoá đời sống kinh tế. Quốc tế hoá đời sống kinh tế chính là sự
dựa vào nhau để cùng tồn tại, sự xâm nhập vào nhau ngày càng sâu của kinh tế
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 5 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
các nước trên thế giới. Trong thế kỷ XX, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế
giới không ngừng được tăng lên và phạm vi ngày càng mở rộng, nội dung ngày
càng sâu sắc.
Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế dẫn đến việc hình thành các liên kết
kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan do những nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất: Quốc tế hoá về các mặt vốn, kỹ thuật, thị tr
ường tiêu thụ sản
phẩm làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia. Năng lực đơn độc
trong việc điều chỉnh và khống chế kinh tế của các nước ngày càng suy giảm.
Việc giải quyết các vấn đề kinh tế và đặt ra chính sách kinh tế của các nước ngày
càng phụ thuộc chặt chẽ vào sự hợp tác, liên kết giữa các quốc gia.
Thứ hai: Quốc tế hoá về
mặt sản xuất đã làm cho các hoạt động kinh tế
giữa các nước đan xen vào nhau, không thể phát triển một cách đơn độc và tách
rời nhau. Để điều hoà một cách tổng thể quá trình quốc tế hoá sản xuất và tạo ra
tiếng nói chung trong quá trình phát triển kinh tế và định hướng sản xuất, các
nước hình thành nên các liên kết kinh tế dưới các cấp độ khác nhau.
Thứ ba: Xu thế tập đoàn hoá khu vực tạo đi
ều kiện thúc đẩy sự hợp tác
giữa các nước ngày càng sâu sắc. Tập đoàn hoá khu vực cho phép giải quyết
những vấn đề kinh tế, thương mại có liên quan đến lợi ích của các nước ở quy
mô quốc tế. Chính quá trình đó đã góp phần thúc đẩy liên kết chặt chẽ hơn giữa
các quốc gia.
Thứ tư: Quốc tế hoá một cách cao độ lực lượng sản xuất dẫn đế
n phân công
lao động quốc tế diễn ra ngày càng sâu sắc, các nước tiến hành chuyên môn hóa
nhằm đạt tới quy mô tối ưu cho từng ngành sản xuất. Các quốc gia sẽ tập trung
vào một số ngành và sản phẩm nhất định mà họ có lợi thế rồi trao đổi với các
nước khác. Ngày nay, các nước không chỉ trao đổi sản phẩm đã hoàn thiện với
nhau mà thậm chí còn trao đổi từng bộ phận sản phẩm. Bởi vậ
y mới có tình trạng
một loại hàng hoá có thể được sản xuất ở nhiều nước khác nhau, mỗi nơi một bộ
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 6 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
phận theo khả năng chuyên môn hoá của từng nước. Chẳng hạn để sản xuất ra
chiếc máy bay Boeing có tới 650 công ty trên thế giới tham gia và được đặt ở
hơn 30 nước. Ôtô Ford cũng vậy có tới 165 công ty ở hơn 20 nước tham gia sản
xuất ...Tính thống nhất của nền kinh tế thế giới làm cho toàn bộ quá trình sản
xuất như một dây chuyền “dây chuyền quốc tế” cả về phạm vi và quy mô. Chính
vì vậ
y các liên kết kinh tế quốc tế ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu liên kết với nhau
để cùng phát triển của tất cả các quốc gia trên thế giới.
1.2 Các hình thức của Liên kết kinh tế quốc tế
Có 2 hình thức :
- Liên kết lớn (Macro Intergration)
-Liên kết nhỏ (Micro Intergration)
Duới đây chỉ đề cập đến hình thức liên kết lớn :
Liên kết lớn là hình thức của liên kết kinh tế quốc tế mà ch
ủ thể tham gia là
các Nhà nước, các quốc gia trong đó các chính phủ ký với nhau các Hiệp định để
tạo nên khuôn khổ chung cho sự phối hợp và điều chỉnh quan hệ kinh tế quốc tế
giữa các Nhà nước.
Dựa vào nội dung liên kết và mức độ hội nhập, liên kết lớn có những hình
thức chủ yếu sau:
Khu vực mậu dịch tự do (Free trade Area - FTA)
Khu vực mậu dịch tự do là liên minh quốc t
ế giữa hai hay nhiều nước nhằm
mục đích tự do hoá việc buôn bán về một hoặc một số nhóm mặt hàng nào đó.
Khu vực mậu dịch tự do sẽ hình thành một thị trường thống nhất nhưng mỗi
thành viên vẫn thi hành chính sách ngoại thương độc lập đối với các nước ngoài
liên minh. Trên thế giới hiện nay hình thành rất nhiều khu vực mậu dịch tự do
như: Khu vực mậu d
ịch tự do Châu Âu - EFTA, khu vực tự do Bắc Mỹ -
NAFTA, khu vực mậu dịch tự do - AFTA của các nước ASEAN v.v..
Mục đích của khu vực mậu dịch tự do là nhằm:
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 7 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
- Khuyến khích phát triển thương mại trong nội bộ khối, thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế.
- Thu hút vốn đầu tư từ các nước bên ngoài khối cũng như trong nội bộ
khối.
Liên minh thuế quan (Custom Union)
Đây là một liên minh quốc tế với nội dung bãi miễn thuế quan và những
hạn chế về mậu dịch khác giữa các nước thành viên. Tuy nhiên, liên minh thuế
quan có điểm khác với khu vực mậu dịch t
ự do là các nước thành viên còn có
một biểu thuế quan chung áp dụng với các nước ngoài khối.
Thị trường chung (Common Market)
Thị trường chung là một liên minh quốc tế áp dụng các biện pháp tương tự
như liên minh thuế quan trong việc trao đổi thương mại nhưng nó đi xa thêm một
bước là cho phép di chuyển ở cả tư bản và lao động tự do giữa các nước thành
viên với nhau và từ đó tạo điều kiện cho sự
hình thành thị trường thống nhất theo
nghĩa rộng.
Cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC) từ năm 1992 theo loại hình này.
Liên minh kinh tế (Economic Union)
Liên minh kinh tế là hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước
thành viên thực hiện thống nhất và hài hoá các chính sách kinh tế - tài chính -
tiền tệ giữa các nước thành viên. Giữa các nước cho phép tự do di chuyển hàng
hoá, dịch vụ, sức lao động và tư bản.
Khối đồng minh Benelux là một liên minh kinh tế giữa ba n
ước Bỉ, Hà Lan,
Luxembua kể từ năm 1960, liên minh Châu Âu - EU từ năm 1994 cũng được coi
là một liên minh kinh tế .
Liên minh tiền tệ (Monetary Union)
Đây là hình thức phát triển cao của liên kết kinh tế quốc tế trong đó các
nước thành viên phải phối hợp chính sách tiền tệ với nhau và cùng thực hiện một
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 8 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
chính sách tiền tệ thống nhất trong toàn khối. Trong liên minh tiền tệ, người ta
thực hiện thống nhất các giao dịch tiền tệ giữa các thành viên, thống nhất về
đồng tiền dự trữ và phát hành đồng tiền tập thể cho các nước trong liên minh.
VD: Đồng tiền chung Châu Âu - Euro giữa 12 nước thành viên.
Ngoài ra dưới khía cạnh địa lý, liên kết lớn có thể có các hình thức sau:
- Liên kết khu vực: là hình thức liên kết giữa các quốc gia trong cùng một
khu vực đị
a lý, chẳng hạn: ASEAN - liên kết 10 nước khu vực Đông Nam á, EU
- 15 nước EU, NAFTA - 3 nước Bắc Mỹ, MERCOSUR - 6 nước Nam Mỹ
I.2 Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu"- cơ sở lý luận hình thành liên
minh tiền tệ.
Lý thuyết "Khu vực tiền tệ tối ưu" ra đời vào đầu những năm 1960 và cho
đến nay đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Nghiên cứu đầu tiên mang
tính tiên phong về lĩnh vực này do các nhà kinh tế Mỹ R.Mundell (1961) và
R.Mc Kinnon (1963) (cùng Ingram 1962) đưa ra, trong đó nêu lên những đặc
tính cơ bản nhất để xác định một "Khu vực tiền tệ tối ưu". Những nghiên cứu sau
này của các nhà kinh tế khác như Grubel (1970), Corden (1972), Ishiyama
(1975) và Tower và Willet (1976) đã chuyển sang tập trung đánh giá chi phí và
lợi ích c
ủa việc tham gia một khu vực tiền tệ. Nhìn chung, lý thuyết này giải
quyết các vấn đề như lựa chọn một cơ chế tỷ giá cho một nước như thế nào, vai
trò của điều chỉnh tỷ giá khi xảy ra sự mất cân bằng cán cân thanh toán là gì và
đặc biệt quan trọng, lý thuyết này đã đặt nền móng cho lý thuyết hội nhập về tiền
tệ, là cơ sở cho sự hình thành Liên minh tiền tệ châu Âu c
ũng như sự ra đời của
các liên minh tiền tệ khác trên thế giới trong tương lai.
2.1 Khái niệm:
Trước hết, để hiểu được khái niệm "Khu vực tiền tệ tối ưu", chúng ta cần
tìm hiểu khái niệm khu vực tiền tệ. Một khu vực tiền tệ là một khu vực trong đó
tỷ giá hối đoái là cố định hoặc tồn tại một đồng tiền chung. Như vậy, m
ỗi nước
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 9 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
có một đồng tiền riêng của mình đều là một khu vực tiền tệ. Vấn đề mà
R.Mundell và R.Mc Kinnon đặt ra là liệu nước đó có phải là một khu vực tiền tệ
tối ưu hay không, hay nói cách khác, liệu nước này có những đặc điểm cho phép
nó sử dụng một cách tối ưu đồng tiền của mình hay không. Nếu câu trả lời là
không thì thứ nhất, từng vùng của nước đó có phát triển tốt hơn n
ếu sử dụng
đồng tiền riêng của vùng hay không. Và thứ hai, liệu nước đó có lợi hơn khi
tham gia vào một khu vực tiền tệ lớn hơn thay vì sử dụng đồng tiền riêng của
nước mình hay không. Để trả lời hai câu hỏi này, Mundell và Kinnon đã phát
triển thành lý thuyết trong đó nêu lên khái niệm và các tiêu chuẩn của một khu
vực tiền tệ tối ưu.
Một khu vực tiền tệ tối ưu là một khu v
ực "tối ưu" về mặt địa lý trong đó
phương tiện thanh toán là một đồng tiền chung hoặc là một số đồng tiền mà giá
trị trao đổi của chúng được neo cố định với nhau với khả năng chuyển đổi vô hạn
cho cả các giao dịch vãng lai và các giao dịch về vốn, nhưng tỷ giá hối đoái của
chúng lại biến động một cách hài hoà với các nước khác trên thế giới.
1
"Tối ưu"
được xác định về mặt mục tiêu kinh tế vĩ mô là duy trì cân bằng cả bên trong và
bên ngoài. Cân bằng bên trong đạt được tại điểm thoả hiệp tối ưu giữa lạm phát
và thất nghiệp và cân bằng bên ngoài là sự duy trì trạng thái cán cân thanh toán
cân bằng.
2.2 Các đặc điểm của một khu vực tiền tệ tối ưu
a.Sự linh hoạt về giá cả và tiền lương:
Giả sử m
ột khu vực gồm nhiều vùng hoặc nhiều nước. Nếu giá cả và tiền
lương thực tế đủ linh hoạt trên cả khu vực này để đối phó với những thay đổi của
cầu và cung, thì các vùng trong khu vực đó nên được gắn với nhau bằng chế độ
tỷ giá cố định. Sự linh hoạt tuyệt đối của giá cả và tiền lương sẽ làm cho thị
trường luôn cân bằng và tạo đ
iều kiện cho sự điều chỉnh thực tế diễn ra ngay lập
1
The New Palgrave Dictionary of Money and Finance, tập III, trang 78
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 10 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
tức khi có những rối loạn ảnh hưởng đến tình hình thanh toán trong khu vực mà
không gây ra tình trạng thất nghiệp.
Việc liên kết các vùng trong khu vực bằng chế độ tỷ giá cố định là có lợi
cho toàn bộ khu vực vì điều này thúc đẩy tính hữu dụng của tiền tệ nhờ giảm bớt
chi phí giao dịch, loại bỏ rủi ro tỷ giá, tiết kiệm chi phí phòng ngừa rủi ro tiền tệ,
hạ thấp giá cả
do giá cả trong toàn bộ khu vực trở nên dễ so sánh hơn. Sự cân
bằng được duy trì bằng việc thả nổi tập thể các đồng tiền của khu vực so với các
đồng tiền ngoài khu vực cũng như bằng sự linh hoạt của giá cả. Khi giá cả và
tiền lương không linh hoạt thì sự điều chỉnh về vị trí cân bằng có thể gây ra thất
nghiệp ở một vùng và/hoặc lạm phát ở
một vùng khác.
b. Sự hội nhập thị trường tài chính
Nghiên cứu của Ingram (1962) đã nói lên rằng một khu vực tiền tệ thành
công phải hội nhập chặt chẽ trong lĩnh vực tài chính, nghĩa là dỡ bỏ mọi rào cản
đối với việc luân chuyển vốn. Khi xảy ra một sự rối loạn làm thâm hụt cán cân
thanh toán thì các dòng vốn sẽ là một vùng đệm, làm cho yêu cầu điều chỉnh
thực tế giả
m đi hay thậm chí là việc điều chỉnh sẽ không cần thiết nữa. Nhờ các
dòng vốn, quá trình điều chỉnh thực tế có thể được tiến hành trong một thời gian
dài hơn. Chi phí của việc điều chỉnh cũng sẽ thấp hơn nếu có được sự linh hoạt
của giá cả-tiền lương và sự tự do di chuyển các yếu tố bên trong. Do đó, sự hội
nh
ập thị trường tài chính làm giảm nhu cầu thay đổi điều kiện thương mại giữa
các vùng khi có sự biến động của tỷ giá hối đoái, ít nhất là trong ngắn hạn.
c. Sự hội nhập thị trường các yếu tố
Theo Mundell (1961), một khu vực tiền tệ tối ưu được xác định bởi sự tự do
di chuyển các yếu tố bên trong (cả giữa các khu vực và giữa các ngành) và sự tự
do di chuyển các yếu tố bên ngoài. Ví dụ, nếu giá hàng xuất khẩu ở một vùng
giảm, thì để duy trì khả năng cạnh tranh với các vùng khác trong khu vực, cần
điều chỉnh tỷ giá, chi phí sản xuất hoặc giá cả. Trong điều kiện tỷ giá cố định và
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 11 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
giá cả không linh hoạt thì chỉ có thể giảm chi phí sản xuất, trong đó giảm chi phí
sản xuất bằng cách giảm chi phí tiền lương là dễ thực hiện nhất, với điều kiện
sức lao động được tự do di chuyển. Trên thực tế, khi giá hàng xuất khẩu giảm
dẫn đến thu nhập của doanh nghiệp giảm, chủ doanh nghiệp phải cắt giảm tiền
lương hay cắt giảm s
ố lao động và lao động buộc phải rời bỏ vùng bị suy thoái
để tìm kiếm việc làm mới hoặc tiền lương cao hơn ở các vùng khác.
Như vậy, sự tự do di chuyển các yếu tố của sản xuất (đặc biệt là lao động)
sẽ làm giảm nhẹ áp lực thay đổi giá cả thực tế của các yếu tố để đối phó với các
cú sốc về cung và cầu. Do đó nhu cầu
điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm điều chỉnh
giá cả thực tế của các yếu tố cũng được giảm nhẹ. Theo nghĩa này, sự tự do di
chuyển các yếu tố phần nào đóng vai trò là một sự thay thế cho tính linh hoạt của
giá cả-tiền lương. Do thường thấp trong ngắn hạn nên sự tự do di chuyển các yếu
tố giúp giải quyết sự mấ
t cân bằng cán cân thanh toán thường xuyên trong dài
hạn tốt hơn là giải quyết sự mất cân đối cán cân thanh toán tạm thời.
Như vậy, sự hội nhập thị trường các yếu tố sẽ tạo điều kiện để các nước
không phải điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm duy trì tình hình cán cân thanh toán
ổn định giữa các vùng trong khu vực.
d. Sự hội nhập thị trường hàng hoá
Một khu vực tiề
n tệ thành công phải có "độ mở" bên trong cao, có nghĩa là
phải buôn bán rộng rãi trong nội bộ khu vực. "Độ mở của một nền kinh tế được
đo bằng tỷ lệ giữa trung bình cộng của xuất khẩu và nhập khẩu chia cho tổng sản
lượng của nền kinh tế đó".
Thoả thuận tiền tệ tối ưu của một nền kinh tế tương đối đóng cử
a với bên
ngoài và mở cửa với bên trong sẽ là neo đồng tiền của mình vào một cơ chế tỷ
giá của khu vực để ổn định giá cả bên trong và áp dụng một chế độ tỷ giá linh
hoạt với bên ngoài để cân bằng bên ngoài. Trong trường hợp này, việc áp dụng
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 12 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
chính sách tỷ giá thả nổi hay tham gia vào một khu vực tiền tệ quá lớn đều không
có lợi.
e. Sự phối hợp chính sách kinh tế vĩ mô và hội nhập về mặt chính trị
Như vậy, sự hoạt động hiệu quả của một khu vực tiền tệ phụ thuộc vào sự
tin tưởng tuyệt đối vào tính ổn định của tỷ giá hối đoái và khả năng chuyển đổi
vô hạn của các đồng tiền các nước thành viên trong nội bộ khu vực đó. Điều này
đòi hỏi các ngân hàng trung ương các nước thành viên phải phối hợp chặt chẽ
với nhau và thậm chí còn phải thiết lập một ngân hàng trung ương siêu quốc gia
để đảm bảo sự phối hợp đó.
Cùng với sự phối hợp các chính sách tiền tệ, các nước thành viên cũng cần
phải phối hợp chính sách tài khoá và chính sách thuế. Nguyên nhân là do mộ
t cú
sốc xảy ra cho toàn khu vực hoàn toàn có thể tác động với mức độ khác nhau đến
các nước khác nhau. Khi đó, việc di chuyển nguồn lực tài chính từ vùng ít bị ảnh
hưởng sang vùng bị ảnh hưởng nặng nề sẽ có tác dụng làm giảm nhẹ gánh nặng
điều chỉnh thực tế hoặc thậm chí còn giải quyết được cú sốc đó. Hệ thống thuế
của khu vực tiền tệ c
ũng phải có sự đồng bộ để tránh các tác động tiêu cực của
các hoạt động acbit tiến hành để lợi dụng sự chênh lệch về mức thuế.
Kinh nghiệm của EMS cho thấy rằng sự cam kết về mặt chính trị có thể là
một động lực tốt cho sự phối hợp trong lĩnh vực tiền tệ cũng như trong các chính
sách tài khoá và chính sách thuế.
I.3 Liên minh tiền tệ châu Âu - Một ví dụ điển hình cho liên minh tiền
tệ và đồng tiền chung.
3.1 Báo cáo Werner và kế hoạch Delors
Các đề xuất nhằm hội nhập châu Âu trong lĩnh vực tiền tệ đã được đưa ra từ
cuối những năm 1950. Sau đó, tháng 10/1962, Uỷ ban Châu Âu đã đệ trình lên
Hội đồng bộ trưởng một loạt các đề nghị về việc thực hiện các chính sách kinh tế
và tiền tệ trong nội bộ cộng đồng, chuẩn bị cho việc thành lập một liên minh
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 13 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
kinh tế và tiền tệ sau này. Năm 1964, Hội dồng các thống đốc các Ngân hàng
trung ương các nước thành viên được thành lập, cùng với uỷ ban ngân sách và uỷ
ban chính sách kinh tế. Tháng 2/1968, Uỷ ban châu Âu đề xuất ý kiến rằng các
nước thành viên nên tự cam kết chỉ điều chỉnh tỷ giá hối đoái khi có sự đồng ý
của các bên và xem xét loại bỏ biên độ dao động xung quanh các tỷ giá song
phương đã ấn định. Năm sau, vào ngày 12/2/1969, một bản báo cáo với tên g
ọi
"Báo cáo Barre" đã yêu cầu các nước phối hợp chính sách kinh tế để đảm bảo đạt
được các mục tiêu trung hạn đã thoả thuận. Hội đồng châu Âu đồng tình với
nhiều điểm nêu trong "Báo cáo Barre" và tiếp đó, đã yêu cầu các nước thành viên
phải tham vấn tất cả các bên liên quan khác mỗi khi thay đổi chính sách kinh tế
của mình, nhất là các chính sách có ảnh hưởng lớn đến các nước thành viên
khác.
Tại Hội nghị thượng đỉ
nh tại Hague ngày 1/12/1969, sáu nước thành viên
EEC đã chấp thuận về mặt nguyên tắc các giai đoạn để hình thành một liên minh
kinh tế và tiền tệ. Theo lịch trình thì điểm xuất phát sẽ là tháng 1 năm 1971 và
kết thúc vào cuối năm 1980. Sau cuộc họp, một Uỷ ban cấp cao được thành lập
để nghiên cứu các biện pháp để hình thành một liên minh tiền tệ châu Âu vào
năm 1980 và ông Pierre Werner được cử làm chủ tịch. Theo các nhà phân tích,
đây là sự trả lời mạnh m
ẽ đầu tiên của châu Âu trước những biến động trong hệ
thống tiền tệ quốc tế Bretton Woods trong đó đồng đôla là đồng tiền chủ đạo.
Theo tinh thần của bản báo cáo Barre, các ngân hàng trung ương đã thiết
lập một quỹ hỗ trợ cán cân thanh toán trong đó các thành viên có thể vay tối đa
là 1 tỷ USD trong thời hạn ba tháng nhưng thời hạn có thể kéo dài thành 6 tháng.
Bản báo cáo Werner đưa ra tháng 10 năm 1970 đề xuất một ti
ến trình 3 giai đoạn
đi đến một liên minh tiền tệ hoàn chỉnh trong thời gian một thập kỷ. Liên minh
tiền tệ này khi hoàn tất sẽ có những đặc điểm sau:
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 14 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
-Tạo lập được một đồng tiền chung của Cộng đồng (hoặc nếu không là một
hệ thống tỷ giá hối đoái cố định không thể điều chỉnh, biên độ dao động bằng 0
và khả năng chuyển đổi vô hạn giữa các đồng tiền của Cộng đồng);
-Tự do hoá hoàn toàn các dòng di chuyển vốn;
-Hình thành một hệ thống ngân hàng trung ương, tổ chức theo kiểu của H
ệ
thống Dự trữ Liên bang;
-Thành lập một "trung tâm quyết định chính sách kinh tế" chịu trách nhiệm
tập trung cho Cộng đồng trước Quốc hội châu Âu.
Kết quả chính của bản báo cáo Werner là sự ra đời của cơ chế "Con rắn tiền
tệ" vào năm 1972, và như chúng ta đã thấy ở phần trên, cơ chế này gặp phải một
số vấn đề và đã phải chấm dứt sự
hoạt động vào năm 1978. Một trong những
nguyên nhân cơ bản khiến cho liên minh tiền tệ không trở thành hiện thực vào
năm 1980 như dự kiến là do điều kiện khách quan không thuận lợi và do các
nước châu Âu đã quá lạc quan tin tưởng vào sự thành công của nó. Năm 1971,
Hệ thống Bretton Woods sụp đổ, đồng đôla được thả nổi, tiếp theo đó vào các
năm 1973-1974, cuộc khủng hoảng dầu lửa lần thứ
nhất nổ ra đã gây ra một giai
đoạn rối loạn trong lĩnh vực tiền tệ. Các nước giờ đây được giải phóng khỏi chế
độ tỷ giá cố định nên được tự do áp dụng các biện pháp khác nhau để đối phó với
việc giá dầu mỏ tăng. Ví dụ trong khi Anh và Italia áp dụng chính sách mở rộng
tiền tệ để phòng ngừa suy thoái kinh tế thì các nước khác như Đức lại sử dụng
chính sách thiểu phát để tránh nguy cơ lạm phát. Các chính sách khác nhau đó
làm cho tỷ lệ lạm phát giữa các nước là rất khác nhau, do đó mọi hy vọng về khả
năng duy trì một chế độ tỷ giá cố định lâu dài đều bị tiêu tan ngay sau đó. Trong
khoảng thời gian từ 1971-1975 chỉ số giá tiêu dùng của Pháp tăng 51%, Đức
tăng 34,7% và Anh tăng tới 82,5%. Kế hoạch xây dựng một liên minh tiền tệ do
nhóm của Werner đưa ra tỏ ra là một dự
án đi trước thời đại và do đó đã bị gác
lại.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 15 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
Mức độ nỗ lực hội nhập tiền tệ châu Âu dao động cùng với chu kỳ biến
động của đồng đôla: lên cao nhất khi đồng đôla suy yếu, như vào các giai đoạn
đầu và cuối các thập kỷ 1960, 1970. Sau Báo cáo Werner, nỗ lực tiếp theo nhằm
ổn định tình hình tiền tệ châu Âu là hình thành Hệ thống tiền tệ châu Âu theo
sáng kiến riêng của Thủ tướng Đức Helmut Schidt, và Tổng thống Pháp thời bấy
giờ - Valery Giscard d'Estaing, v
ới sự hỗ trợ của một người thứ ba, ông Roy
Jenkins, chủ tịch Hội đồng châu Âu lúc bấy giờ. Những ngày đầu của EMS hoạt
động với những thành công và thất bại không rõ ràng, và ngay từ đầu EMS đã
không được coi là phương tiện để đi đến EMU. Vào giữa những năm 1980, Tây
Âu ở vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế dài nhất của mình kể từ năm 1945. Cộng
đồng châu Âu, như tên g
ọi của nó lúc bấy giờ, đã bước ra khỏi thời kỳ đình trệ
về chính trị. Thủ tướng Helmut Kohl ở Đức, Tổng thống Francois Mitterand ở
Pháp và Thủ tướng Margaret Thatcher ở Anh, tất cả đều đang rất ổn định về
quyền lực và sẵn sàng bắt tay vào thực hiện một sáng kiến lớn ở châu Âu.
Trên thực tế, EMS đã phục hồi được phần nào sự
ổn định tỷ giá ở châu Âu.
Mức độ dao động trong khoảng thời gian từ năm 1986 đến năm 1989 chỉ bằng
1/4 mức dao dộng của thời gian 1975-1979. Tháng 6/1988, tại cuộc họp Hội
đồng châu Âu tại Hannover, lúc này do ông Jacque Delors làm chủ tịch, các
nguyên thủ quốc gia EEC đã xác định mục tiêu lâu dài của Liên minh Kinh tế -
Tiền tệ châu Âu. Hội nghị cũng quyết định thành lập một uỷ ban gồm các chuyên
gia và tất cả thố
ng đốc các ngân hàng trung ương dưới sự chủ trì của Jacques
Delors để nghiên cứu vấn đề châu Âu và đưa ra những đề xuất chiến lược để đạt
được EMU.
Kết quả của các công trình nghiên cứu là bản báo cáo với tên gọi Kế hoạch
Delors, được công bố vào năm 1989. Cũng giống như báo cáo của Werner, kế
hoạch Delors đề xuất một chương trình ba giai đoạn nhằm đi đến EMU. Tuy
nhiên, mặc dù kế
tục một số mục đích và quan điểm của báo cáo Werner, kế
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 16 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
hoạch Delors cũng có nhiều điểm khác biệt. Các ý kiến liên quan đến vấn đề
thống nhất tiền tệ được phát triển xa hơn nữa. Tuy nhiên, trong khi báo cáo
Werner nêu ra những giới hạn về thời gian thì kế hoạch Delors lại không đề cập
đến vấn đề khuôn khổ thời gian để đạt được EMU. Lý do là các nước thành viên
cho rằng sự hình thành đồng tiền chung sẽ được thực hiện với các tốc độ ti
ến
triển khác nhau giữa các nước. Trong khi Pháp, Tây Ban Nha và Italy muốn
chương trình tiến triển nhanh hơn nữa thì Đức, Anh và Luychxămbua lại đề nghị
xem xét kỹ lại các chính sách.
Quan điểm của Anh cho rằng thống nhất tiền tệ có thể được thực hiện
không cần phải thành lập ngay ngân hàng trung ương châu Âu và đồng tiền
chung châu Âu. Trong khi đó, lý thuyết và một phần thực tế, cũng như ý kiến của
các nước EC khác lại kh
ẳng định rằng EMU đòi hỏi một chính sách tiền tệ
chung, một đồng tiền chung chứ không chỉ là một hệ thống tỷ giá hối đoái lâu
dài, và một ngân hàng trung ương của EU để điều hành chính sách tiền tệ và lãi
suất hơn là chỉ có sự hợp tác chặt chẽ giữa các ngân hàng trung ương các nước
với nhau. Kế hoạch Delors còn nhấn mạnh về sự cần thiết phải hội nhậ
p không
chỉ trong chính sách tiền tệ mà còn trong chính sách tài khoá. Tự do hoá hoàn
toàn thị trường vốn và liên kết thị trường tài chính cũng được xem là cần thiết.
Trong kế hoạch xây dựng một thị trường chung của mình, Delors còn đi xa
thêm một bước so với Werner là vạch ra những lợi ích và chi phí của việc hình
thành EMU. Ông chỉ rõ rằng thị trường châu Âu sẽ không mang lại nhiều lợi ích
cho các nước thành viên nếu tiếp tục tồn tại những yếu tố
bất định do tỷ giá biến
động và chi phí chuyển đổi giữa các đồng tiền tiếp tục cao như lúc bấy giờ.
Do không đề ra lịch trình thời gian cụ thể nên phải tới cuộc họp của Hội
đồng châu Âu tại Madrid tháng 6/1989, EC mới ấn định được thời điểm bắt đầu
giai đoạn 1 của kế hoạch Delors là ngày 1/7/1990. Tiếp đó, tháng 12/1991 Hiệp
ước Masstricht được ký kết trên tinh thần k
ế hoạch Delors, cụ thể hoá hơn nữa
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 17 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
việc thiết lập đồng tiền chung châu Âu. Sau khi được Quốc hội tất cả các nước
thành viên EC thông qua, hiệp ước trở nên có hiệu lực bắt buộc thi hành vào
11/1993.
3.2 Thực tiễn quá trình hình thành đồng tiền chung châu Âu Euro
3.2.1 Giai đoạn 1 (1990-1993) và hiệp ước Masstricht
Giai đoạn 1 của EMU bắt đầu từ 1/7/1990 và kết thúc ngày 31/12/1993.
Giai đoạn này phải hoàn tất toàn bộ các công việc chuẩn bị trước khi Hiệp ước
Masstricht có hiệu lực. Cụ
thể, các rào cản còn lại đối với sự di chuyển vốn tự do
giữa các nước trong Cộng đồng châu Âu và giữa Cộng đồng và các nước thứ ba
phải đã được dỡ bỏ. Các nước bắt đầu chú trọng vào tiến trình hội nhập kinh tế,
bước đầu áp dụng các chương trình hội nhập nhiều năm với những mục tiêu cụ
thể cho các biến số về lạm phát và ngân sách. Các ch
ương trình này chịu sự đánh
giá của Hội đồng các Bộ trưởng Kinh tế và Tài chính (ECOFIN) có mục tiêu là
nhằm đảm bảo duy trì lạm phát thấp, tài chính nhà nước vững mạnh và ổn định
tỷ giá hối đoái giữa các nước thành viên - theo đúng yêu cầu của Hiệp ước
Masstricht, nhằm chuẩn bị cho việc phát hành đồng Euro làm đồng tiền chung
của Cộng đồng.
Hiệp ước Masstricht là sự sửa đổi bổ sung củ
a Hiệp ước Rome (1957) về
cải cách trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nó tạo các điều kiện pháp lý cần thiết
để hình thành các tổ chức nhằm thúc đẩy quá trình hình thành EMU, ví dụ cho
phép hình hành NHTW châu Âu (ECB). Hiệp ước cũng quy định những điều
kiện cụ thể để một quốc gia được coi là đủ tư cách gia nhập EMU. Để gia nhập
EMU, các nước phải:
-Đạt được mức độ ổn định cao về
giá cả, thể hiện ở tỷ lệ lạm phát (trong 12
tháng trước đó) không quá 1,5% so với tỷ lệ lạm phát của 3 nước thành viên có
tỷ lệ lạm phát thấp nhất.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 18 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
-Duy trì tình hình tài chính của chính phủ ổn định, thể hiện ở ngân sách
chính phủ không có thâm hụt quá lớn, thâm hụt không quá 3% GDP trong điều
kiện bình thường, và tỷ lệ nợ chính phủ trên GDP không vượt quá 60%. Hiệp
ước cho phép một sự linh hoạt nhất định khi đánh giá tiêu chí này, ở chỗ nó có
tính đến những tiến bộ trước đây trong việc giảm thâm hụt ngân sách và/hoặc các
yếu tố bất ngờ, đặc biệt gây ra sự thâm hụt
đó.
-Tuân thủ biên độ dao động bình thường mà cơ chế tỷ giá hối đoái của EMS
cho phép trong ít nhất hai năm, cụ thể là trong giai đoạn đó, một nước thành viên
không được chủ ý phá giá đồng tiền của mình so với tỷ giá trung tâm với một
đồng tiền của một nước khác.
-Duy trì tỷ lệ lãi suất dài hạn sao cho trung bình của thời kỳ mười hai tháng
trước đó không quá 2% so với mức trung bình của ba nước thành viên có giá c
ả
ổn định nhất khu vực.
3.2.2 Giai đoạn 2 (1994-1999)
Giai đoạn 2 của EMU bắt đầu ngày 1/1/1994 và kéo dài đến ngày
31/12/1998. Giai đoạn này nhằm tiếp tục chuẩn bị cho các nước thành viên áp
dụng đồng tiền chung. Sự thay đổi chính về mặt thể chế của giai đoạn này là việc
thành lập Viện Tiền tệ châu Âu (EMI). Viện này là tiền thân của Ngân hàng
Trung ương châu Âu (ECB) sau này và nhiệm vụ chính của nó là cụ thể hoá các
khuôn kh
ổ pháp lý, thực hiện các công việc tổ chức và hậu cần cần thiết khác để
ECB thực hiện nhiệm vụ của mình kể từ đầu giai đoạn 3. Viện này cũng chịu
trách nhiệm củng cố sự phối hợp các chính sách tiền tệ trước khi hình thành
EMU và có thể tư vấn cho các ngân hàng các quốc gia thành viên về mặt này.
Ngày 2/5/1998, Hội đồng họp với sự tham gia của các nguyên thủ quốc gia,
bỏ phi
ếu quyết định việc thành viên nào sẽ áp dụng đồng Euro bắt đầu từ giai
đoạn 3. Quyết định này dựa trên sự đề đạt của ECOFIN trên cơ sở những đánh
giá độc lập của Uỷ ban châu Âu và Viện tiền tệ châu Âu về tình hình các nước
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 19 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
thành viên ERM đáp ứng các tiêu chuẩn hội nhập của Hiệp ước Masstricht và
các nghị định thư kèm theo. Sau khi có quyết định của Hội đồng châu Âu, ECB
chính thức được thành lập và bắt đầu chuẩn bị cho việc hoạch định và thi hành
một chính sách tiền tệ chung kể từ ngày 1/1/1999.
3.2.3 Giai đoạn 3: Đồng Euro đi vào lưu thông
Giai đoạn 3 của EMU bắt đầu ngày 1/1/1999. Từ đầu giai đoạn này, đồng
Euro trở thành
đồng tiền theo đúng nghĩa của nó và tỷ lệ chuyển đổi các đồng
tiền quốc gia của các nước thành viên áp dụng đồng Euro được ấn định không
thay đổi. Các đồng tiền quốc gia ban đầu sẽ lưu hành song song với đồng Euro.
Đồng Euro sẽ thay thế đồng ECU với tỷ lệ 1:1.
Việc đồng ECU thay thế các đồng bản tệ sẽ được tiến hành dần dần trong
giai đoạn này và chỉ
chính thức thay thế hoàn toàn các đồng tiền quốc gia tham
gia liên minh vào năm 2002. Kể từ giai đoạn này, NHTW châu Âu cũng bắt đầu
thi hành một chính sách tiền tệ chung cho các nước thành viên. Nhằm đảm bảo
kỷ luật tài chính để tạo điều kiện cho chính sách tiền tệ chung, Hiệp ước ổn định
và phát triển cũng đã bắt đầu có hiệu lực. Một cơ chế tỷ giá mới - gọi là cơ chế t
ỷ
giá 2, ERM2 - gắn đồng tiền các nước chưa đủ điều kiện gia nhập với đồng Euro
cũng sẽ đi vào hoạt động từ đầu giai đoạn này. Cơ chế mới nhằm thúc đẩy sự hội
nhập của các nước chưa đủ điều kiện với các điều kiện kinh tế vĩ mô của khu vực
đồng Euro, đồng thời giúp đảm b
ảo sự ổn định của tỷ giá trong Liên minh Châu
Âu nói chung.
Vào ngày 1/1/2002, tiền giấy và tiền xu Euro chính tức được đưa vào lưu
thông và tiền giấy và tiền xu nội tệ bắt đầu rút lui khỏi lưu thông. Ngày
28/1/2002, Hà Lan là nước đầu tiên hoàn thành việc thay thế toàn bộ đồng tiền
quốc gia cũ bằng đồng tiền chung. Ailen và Pháp cũng kết thúc giai đoạn tồn tại
song song của hai đồng tiền vào ngày 9/2 và 17/2/2002. Với 9 nước còn lại, thời
k
ỳ này đồng loạt chính thức kết thúc vào ngày 28/2.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 20 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
I.4 Điều kiện cần thiết để hình thành một liên minh tiền tệ - Bài học rút
ra từ thực tiễn của liên minh tiền tệ châu Âu.
4.1 Hình thành một thị trường thống nhất về hàng hoá, vốn và sức lao động
Nhìn lại lịch sử phát triển của Liên minh tiền tệ châu Âu, chúng ta thấy rằng
Liên minh châu Âu đã tuần tự trải qua các giai đoạn phát triển từ thấp đến cao
trước khi đạt tới trình độ của một liên minh kinh tế và tiền tệ. Đó là: khu vực
thương mại tự do, liên minh thuế quan, thị trường chung, giai đoạn hài hoà và
phố
i hợp chính sách kinh tế và cuối cùng là một liên minh kinh tế hoàn chỉnh với
một số chính sách kinh tế được hoạch định ở cấp độ khu vực. Hoàn thành ba giai
đoạn đầu chính là đã hình thành được một thị trường thống nhất về hàng hoá,
vốn và sức lao động.
Với châu Âu, có thể nói rằng hai giai đoạn đầu đã được hoàn tất tương đối
nhanh chóng và dễ dàng. Tính đến ngày 1/7/1968, tức là chỉ 10 năm rưỡi sau khi
thành lập Cộng đồng châu Âu, tất cả các hàng rào thuế quan và về số lượng đối
với hàng hoá và dịch vụ xuất và nhập khẩu đã được dỡ bỏ và Cộng đồng đã xây
dựng được một biểu thuế chung với các nước bên ngoài. Tuy nhiên, Liên minh
thuế quan vẫn chưa phải là điều kiện đủ để đảm bảo sự di chuyển tự do của hàng
hoá và dịch vụ giữa các n
ước trong Cộng đồng. Trên thực tế, mặc dù các hàng
rào thuế quan đã được dỡ bỏ nhưng vẫn còn vô số các rào cản thương mại khác
tồn tại dưới hình thức các tiêu chuẩn về y tế, vệ sinh, an toàn, kỹ thuật khác. Các
hàng rào phi thuế quan này thậm chí còn là một trở lực lớn hơn đối với thương
mại. Vì nếu như chỉ có các hàng rào thuế quan, các nhà xuất nhập khẩu có thể
sẵn sàng nộp thu
ế, nhưng khi tồn tại một hàng rào kỹ thuật, các nhà xuất nhập
khẩu không có cách gì khác hơn là thích nghi quy trình sản xuất của mình cho
phù hợp với tiêu chuẩn của từng quốc gia hoặc chấp nhận hàng hoá của mình
không thể thâm nhập thị trường nước đó.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 21 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
Tuy nhiên, việc tháo dỡ các rào cản phi thuế quan lại là một công việc khó
khăn và phức tạp, do mỗi nước đều có nhu cầu sử dụng các biện pháp này nhằm
bảo hộ các ngành sản xuất trong nước, bảo vệ người lao động trong nước hay có
thể là bảo vệ sức khoẻ người tiêu dùng và môi trường sinh thái. Do đó, dỡ bỏ các
hàng rào này đòi hỏi phải phối hợp nhiều chính sách và luật lệ chứ không chỉ
đơn giản là cắt giảm thuế như trường hợp các hàng rào thuế quan. Các nước
thành viên Cộng đồng châu Âu đã phải mất hơn một thập kỷ kể từ khi thiết lập
thành công liên minh thuế quan, vất vả xoá bỏ các hàng rào cản kỹ thuật đối với
thương mại mà không thu được mấy thành công. Phải đến giữa những năm 1980,
Cộng đồng châu Âu mới đạt được những tiến bộ
quan trọng trong lĩnh vực này,
dựa trên những khuôn khổ pháp lý và thể chế vững chắc như ký kết các Hiệp
định đa phương, thành lập Uỷ ban châu Âu, thành lập cơ quan hành pháp ở cấp
độ khu vực như Toà án tối cao châu Âu, cơ quan lập pháp như Hội đồng Bộ
trưởng. Giai đoạn "thị trường chung" được coi là chính thức hoàn thành ngày
31/12/1992, ngày hoàn tất chương trình thị trường chung do Uỷ ban châu Âu đưa
ra. Tuy nhiên, kể cả cho tới ngày hôm nay, v
ẫn còn nhiều lĩnh vực như dịch vụ
tài chính, năng lượng, viễn thông... cần được tiếp tục cải cách để thị trường của
Liên minh châu Âu thực sự là một thị trường chung.
Nghiên cứu sự biến động của tỷ giá hối đoái ở châu Âu giai đoạn từ 1960
đến cuối năm 1992, thời điểm được coi là hoàn thành giai đoạn thị trường chung,
chúng ta sẽ thấ
y rằng những giai đoạn mà quá trình hội nhập của châu Âu tiến
triển thuận lợi thường đi kèm với sự ổn định của tỷ giá hối đoái. Đó là thời kỳ tỷ
giá ổn định theo Hệ thống Bretton Woods (thập kỷ 60) và Hệ thống tiền tệ châu
Âu (từ 1979 trở đi). Giai đoạn những năm 1970 là thời gian tỷ giá biến động
mạnh do Hệ th
ống Bretton Woods khủng hoảng, đồng thời cũng là thời kỳ mà
các nỗ lực nhằm thúc đẩy sự ra đời của thị trường chung gặp nhiều khó khăn.
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 22 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
Trên phương diện lý thuyết, các nghiên cứu mới đây đã chứng minh rằng sự
biến động của tỷ giá hối đoái và sự hội nhập về thương mại có một mối quan hệ
qua lại. Tỷ giá ổn định là điều kiện cần thiết để thực hiện chính sách kinh tế mở.
Đồng thời, một nước theo đuổi chính sách kinh tế mở cửa nhất thi
ết cũng mong
muốn duy trì tỷ giá hối đoái ổn định. Điều này cũng đúng với một khu vực tiền
tệ tối ưu. Một nhóm nước dù chưa phải là một khu vực tiền tệ tối ưu nhưng nếu
áp dụng một đồng tiền chung thì sau đó cũng dần dần thoả mãn các tiêu chí của
một khu vực tiền tệ tối ưu như hộ
i nhập thương mại, tài chính chặt chẽ hơn, chu
kỳ kinh tế khớp nhau hơn.
Tóm lại, kinh nghiệm của châu Âu về hình thành thị trường chung cho thấy
một bài học quan trọng. Đó là nếu muốn áp dụng một đồng tiền chung, các nước
ASEAN phải đặt ra những mục tiêu và chương trình cụ thể tiến tới thiết lập một
thị trường chung chứ không chỉ thể dừng lại ở
tháo dỡ các hàng rào thuế quan.
Và muốn vậy, các nước ASEAN cũng cần phải chú ý hơn nữa đến việc ổn định
tỷ giá hối đoái. Sao nhãng bất cứ nội dung nào trong hai nội dung trên (thiết lập
thị trường chung và ổn định tỷ giá) đều cản trở việc thực hiện nội dung còn lại,
và tóm lại là cản trở việc thực hiện mục tiêu về một đồng tiền chung.
4.2 Đ
iều chỉnh kinh tế của các nước thành viên để hội nhập theo các tiêu chí
thống nhất
Hiệp ước Masstricht năm 1991 đã đề ra thời gian biểu chi tiết và những điều
kiện để các nước tham gia vào giai đoạn cuối của quá trình hội nhập tiền tệ châu
Âu. Trên thực tế, việc các nước ERM điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô nhằm
thực hiện các tiêu chí của Hiệp ước Masstricht đ
ã làm tăng sự ổn định của môi
trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái ở châu Âu từ sau năm 1993. Để đủ điều kiện
tham gia khu vực đồng tiền chung, các nước thành viên phải đạt được tỷ lệ lạm
phát và lãi suất (trên thực tế là thước đo mức lạm phát dự kiến) lần lượt không
vượt quá 2% và 1,5% so với mức trung bình của ba nước thành viên có tỷ lệ lạm
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 23 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
phát thấp nhất. Hai tiêu chí này chủ yếu nhằm mục đích hạn chế sự biến động
của tỷ giá thực tế khi tỷ giá danh nghĩa đã được ấn định. Thêm vào đó, các nước
này còn phải duy trì được tỷ giá ổn định trong biên độ cho phép của ERM mà
không đơn phương điều chỉnh tỷ giá trung tâm trong ít nhất hai năm trước khi
gia nhập khu vực đồng tiền chung. Điều này sẽ buộc các n
ước thành viên tương
lai khi hoạch định chính sách tiền tệ phải cân nhắc đến lợi ích của cả khối chứ
không chỉ là lợi ích của nước mình.
Ngoài ra, có hai tiêu chí về mức thâm hụt ngân sách không quá 3% GDP và
tỷ lệ nợ/GDP không quá 60% hay chí ít cũng đang giảm xuống mức này với một
tốc độ thoả đáng. Mục đích của hai tiêu chí này là để tránh sự mất cân đối của
một nước thành viên ảnh hưởng tiêu cự
c đến một nước thành viên khác thông
qua áp lực thực hiện chính sách tiền tệ lỏng quá mức hay thậm chí là cho vay để
cứu nguy cho chính phủ nước đó. Các nước Liên minh châu Âu đặc biệt coi
trọng sự ổn định về mặt tài khoá. Hiệp ước ổn định và phát triển của Liên minh
thậm chí còn đề ra điều khoản phạt đối với nước nào để cho mức thâm hụt tài
chính quá 3%.
Hiệp ước Masstricht một phần nh
ằm mục đích tạo ra một cơ chế loại bỏ
những nước thành viên mà khi đã tham gia liên minh tiền tệ có thể không muốn
áp dụng một chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, và khi đó sẽ làm ảnh hưởng
tiêu cực đến các nước thành viên khác trong liên minh. Mục đích cuối cùng là để
hạn chế sự biến động của tỷ giá hối đoái thực tế giữa các nước thành viên EMU
và tránh khả năng m
ột số nước thi hành chính sách tài khoá lỏng, dẫn đến áp lực
lạm phát trong toàn bộ liên minh. Rộng hơn nữa, các tiêu chí này còn nhằm tạo
ra một môi trường ổn định giá cả và dần dần chuyển các chính sách kinh tế vĩ
mô từ phục vụ lợi ích của từng nước sang phục vụ lợi ích của cả liên minh.
Như vậy, điều chỉnh kinh tế để hội nhập là một tiền đề quan trọ
ng để tránh
sự bất ổn định về kinh tế vĩ mô do những thay đổi trong khả năng cạnh tranh và
Khả năng, lợi ích và lộ trình cho việc ra đời một đồng tiền chung cho các nước
ASEAN
Bùi Quốc Thái - 24 - Đại học Ngoại Thương
TC K18-A1
chính sách tiền tệ gây ra, và do đó, là một yêu cầu quan trọng trong giai đoạn
chuẩn bị cho sự ra đời của một đồng tiền chung. Nhưng liệu ASEAN có thể áp
dụng chính sách như EU đã làm hay không?
Về vấn đề này, cần ghi nhớ rằng: Thứ nhất, một mặt tình hình châu Âu
những năm 1990 và tình hình ASEAN ngày nay có nhiều điểm khác nhau. ở
châu Âu, quá trình điều chỉnh kinh tế để hội nhập theo Hiệp ước Masstricht
thành công là do s
ự ra đời của đồng tiền chung là một điều hoàn toàn chắc chắn
và các nước thành viên có một mục tiêu rõ ràng là tham gia vào khu vực đồng
tiền chung đó. Mặt khác, sự hội nhập này trên thực tế đã diễn ra và đạt được
những kết quả đáng kể từ lâu trước khi lịch trình cụ thể đi đến EMU được công
bố.
Nói chung, kinh nghiệm của các nước châu Âu cho thấy rằng chính sách tài
khoá và tiền tệ
nhằm mục đích ổn định kinh tế vĩ mô là một tiền đề để ổn định tỷ
giá hối đoái. Và chính sách tiền tệ chung và/hoặc các thoả thuận tỷ giá hối đoái
chỉ có thể thành công nếu các chính sách này được tiến hành kết hợp với một
chính sách nhằm điều chỉnh kinh tế vĩ mô để hội nhập.
4.3 Thiết lập một cơ chế liên kết t
ỷ giá
Nhìn lại quá trình phát triển của cơ chế liên kết tỷ giá ở châu Âu, chúng ta
có thể thấy cơ chế này đã trải qua ba giai đoạn lớn như sau:
Giai đoạn một bắt đầu từ khi thành lập Cộng đồng vào năm 1957 cho đến
khi thiết lập Hệ thống tiền tệ châu Âu năm 1979. Sự phối hợp trên lĩnh vực tỷ giá
hối đoái ở giai đoạn này nhìn chung còn l
ỏng lẻo, kể cả trong khuôn khổ Hệ
thống Bretton Woods cũng như cơ chế "Con rắn tiền tệ" của các nước châu Âu.
Trên thực tế, các nước đều đã nhận thấy nhu cầu phối hợp trong lĩnh vực tỷ giá
hối đoái cũng như chính sách tài chính và tiền tệ và đã thành lập một số uỷ ban
nhằm mục đích thúc đẩy các hoạt động này như Hội đồ
ng các Bộ trưởng Tài
chính, Uỷ ban châu Âu, Hội đồng các thống đốc NHTW của Cộng đồng... Tuy