Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tài liệu Tiểu luận “ Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và các giải pháp ” ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.15 KB, 25 trang )


TIỂU LUẬN
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp
và nông thôn ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay - thực trạng và các giải pháp
Giáo viên hướng dẫn :
Họ tên sinh viên :


1
MỤC LỤC
I. Lời mở đầu 1
II. Nội dung 2
A. Một số vấn đề lý luận cơ bản về công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp và nông thôn 2
1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn 2
2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
5
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
nứơc ta 7
B. Thực trạng và định hướng giải pháp 10
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước ta
hiện nay 10
2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp
hoá nông thôn 15
a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn
15
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay 16
Kết luận 21
2


I. LỜI MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá nông nghiệp và nông thôn là quá trình vô cùng
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, nhất là
những nước đang phát triển như nước ta hiện nay. Một đất nước bị
chiến tranh tàn phá, có cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu vì vậy mục tiêu
chính được Đảng và Nhà nước đề ra và thực hiện cho bằng được đó là
phải công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Muốn vậy trước hết phải
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bởi 80% người
dân Việt Nam sống bằng nông nghiệp. Trong giai đoạn hiện nay chúng
ta phải ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn
lực con người bởi nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng chủ
chốt trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn. Con người sáng tạo ra máy móc quản lý và sử dụng hợp lý máy
móc hiện đại để phục vụ và làm cho cuộc sống con người thoải mái
hơn, thoả mãn các nhu cầu tự nhiên của con người. Ngoài ra phải thúc
đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng
vùng gắn với thị trường để sản xuất hàng hoá quy mô lớn với chất
lượng và hiệu quả cao. Dần dần xoá bỏ mô hình sản xuất nhỏ lẻ vừa tốn
kém vừa không hiệu quả thay thế vào đó là những mô hình sản xuất phù
hợp hơn mang lại năng suất cao hơn. Bên cạnh phát triển khoa học cũng
phải chú ý bảo vệ môi trường phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên
tai từ đó phát triển nông nghiệp nông thôn bền vững, đưa nền kinh tế
của đất nước phát triển đi lên sánh vai cùng các nước trên thế giới.
Từng bước đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp phát triển trong
khu vực trên thế giới.
3
II. NỘI DUNG
A. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CÔNG NGHIỆP, HOÁ
HIỆN ĐẠI HOÁ NÔNG NGHIỆP VÀ NÔNG THÔN
1. Thế nào là công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn

Công nghiệp hoá hiện đại hoá và nông thôn được thế giới định
nghĩa theo nhiều cách khác nhau đó chính là một quá trình lâu dài cần
được tiến hành theo cách tuần tự không thể nóng vội, không thể tuỳ
tiện. Quá trình này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân mà
phục vụ các mục tiêu kinh tế xã hội của nông thông cũng như của cả
nước. Nhưng đối với một nước khoa học công nghệ, kinh tế Nhà nước
giữ vait rò chủ đạo thì Đảng và Nhà nước Việt Nam đã xác định: công
nghiệp hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao
động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động
cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa
trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo
ra năng suất lao động xã hội cao. Khái niệm công nghiệp hoá này được
Đảng ta xác định rộng hơn những quan niệm trước đó bao hàm cả về
hoạt động sản xuất kinh doanh, cả về dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội,
được sử dụng bằng các phương tiện và các phương pháp tiên tiến hiện
đại cùng với kỹ thuật và công nghệ cao. Như vậy công nghiệp hoá mới
teo tư tưởng mới không bó hẹp trong phạm vi trình độ các lực lượng
sản xuất đơn thuần kỹ thuật đơn thuần để chuyển lao động thủ công
thành lao động cơ khí như quan niệm trước đây.
Theo tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII và Hội nghị Trung ương lần thứ VII công nghiệp hoá nông thôn là
4
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với việc đổi mới căn bản về
công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn, tạo nền tảng cho việc phát triển
nhanh, bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh tế ở nông thôn,
góp phần phát triển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao.
Công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn là quá trình
phức tạp không đơn giản, vì vậy Đảng và Nhà nước phải đưa ra những
chiến lược bước đi cụ thể và hiệu quả. Bước đầu tiên của quá trình công

nghiệp hoá, hiện đại hoá là phải đưa phương pháp sản xuất công
nghiệp, máy móc thiết bị vào sử dụng trong nông nghiệp và sản xuất ở
nông thôn để thay thế lao động thủ công. Nông thôn Việt Nam luôn
mang nặng tính thủ công trong sản xuất nông nghiệp vì vậy để thay đổi
tập quán, cách làm của nông dân là bước đi vô cùng khó, phải thực hiện
theo từng bước đi từ từ chậm chạp. Đưa dần phương pháp sản xuất bằng
máy móc để con người dần tiếp nhận phương pháp sản xuất này.Không
thể đột ngột thay thế phương pháp sản xuất thủ công bằng phương pháp
máy móc ngay được như thế sẽ gây ra sự lúng túng của người sử dụng
cũng như người hướng dẫn sử dụng. Người cần sử dụng máy móc lại
không biết cách sử dụng hoặc lúng túng trong cách sử dụng vì vậy gây
nên sự lãng phí máy móc thiết bị. Sau khi đưa máy móc thiết bị vào sử
dụng cũng cần phải có phương pháp quản lý hiện đại tương ứng với các
loại công nghệ và thiết bị. Máy móc khoa học là những thành tựu sáng
tạo của con người, chúng không tự bảo quản, không chống lại sự hao
mòn vì vậy phải có bàn tay con người bảo quản cho nó. Ngoài ra quản
lý, sử dụng máy móc sao cho hợp lý tiết kiệm tiền của, tránh lãng phí
cũng cần phải học, phải có phương pháp khoa học hiện đại. Đó là cả
một quá trình đào tạo chính quy và có quy mô. Nhưng khi có máy móc
hiện đại, trang thiết bị được quản lý tốt mà cơ sở vật chất nghèo không
5
phù hợp thì cũng không có hiệu quả. Vì vậy phải tạo ra hệ thống cơ sở
hạ tầng thích hợp với việc đưa máy móc thiết bị mới vào nông thôn.
Như vậy, công nghiệp hoá nông thôn không có nghĩa là chỉ phát
triển công nghiệp ở nông thôn mà bao gồm cả việc phát triển toàn bộ
các hoạt động, các lực lượng sản xuất dịch vụ và đời sống văn hoá tinh
thần ở nông thôn và cả nước nói chung.
Công nghiệp hoá nông nghiệp là một bộ phận của công nghiệp
hoá nông thôn. Nội dung chủ yếu là đưa máy móc thiết bị, ứng dụng các
phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp, các phương pháp và hình thức

tổ chức kiểu công nghiệp và các lĩnh vực của sản xuất nông nghiệp.
Công nghiệp hoá nông thôn còn bao hàm cả việc tạo ra sự gắn bó chặt
chẽ giữa sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác
triệt để lợi thế của nông nghiệp, nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm
của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho
chúng.
Hiện đại hoá là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học, kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải thiện tổ
chức sản xuất và hoàn thiện đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản
xuất trình độ ngày càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh, tiến bộ.
Hiện đại hoá nông thôn không chỉ bao gồm công nghiệp hoá, nâng cao
trình độ kỹ thuật - công nghệ và tổ chức trong các lĩnh vực khác của
sản xuất vật chất ở nông thôn mà con bao gồm cả việc không ngừng
nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng
xã hội hệ thống giáo dục đào tạo y tế, các dịch vụ phục vụ đời sống
khác ở nông thôn.Về bản chất, hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn
diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hoá hoàn toàn không có nghĩa là
xoá bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ cũng không có
6
nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào
nông thôn ngay một lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện từng bước
nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và
quản lý sản xuất nông nghiệp lên ngang tầm với trình độ thế giới.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá có liên quan mật thiết
với nhau, chúng tương tác với nhau, sự khácnhau giữa chúng chỉ mang
tính tương đối, vì chúng có nội dung đan xen vào nhau, bổ sung cho
nhau để mục đích cuối cùng là đưa kinh tế nông thôn phát triển đi lên
ngang tầm với thế giới.
2. Tại sao phải tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn

Nước ta đi từ xã hội phong keíen phát triển đi thẳng lên chế độ xã
hội chủ nghĩa mà không qua chế độ tư bản chủ nghĩa vì vậy cơ sở vật
chất còn nghèo nàn lạc hậu, phương thức quản lý lỏng lẻo yếu kém.
Nhiệm vụ quan trọng nhất bức thiết được đặt ra là phải xây dựng cơ sở
vật chất, kỹ thuật của xã hội chủ nghĩa trong đó có công nghiệp và nông
nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Muốn thực hiện
thành công nhiệm vụ quan trọng nói trên nhất thiết phải tiến hành công
nghiệp hoá tức là chuyển nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền
kinh tế công nghiệp.
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng cộng sản Việt Nam đã đề ra
đường lối công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời gian
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá ở nước ta trước hết là
quá trình thực hiện mục tiêu xây dựng nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Đó
là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm
cải tiến một xã hội nông nghiệp thành một xã hội công nghiệp gắn với
việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện
7
đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội với xuất phát điểm là nền nông nghiệp
lạc hậu, bình quân ruộng đất thấp, 80% dân cư có mức thu nhập thấp,
nghèo đói, sức mua hạn chế nếu không muốn nói là không thể mua nối
hàng hoá cho tiêu dùng.Một đất nước sống dựa chủ yếu vào nông
nghiệp lạchậu, canh tác trên ruộng đất nghèo nàn, cơ sở vật chất thô sơ,
tự chế tạo là chính. Đời sống phụ thuộc nhiều vào tự nhiên, lại bị chiến
tranh và xã hội phong kiến tàn phá, Đảng và Nhà nước như bước lên từ
con số không. Vì vậy nhất thiết phải tiến hành công nghiệp hoá để tạo
ra những điều kiện vật chất kỹ thuật cần thiết, thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nhằm huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực.
Để không ngừng tăng năng suất lao động làm cho nền kinh tế tăng
trưởng nhanh, nâng cao đời sống vật chất và văn hoá cho nhân dân,

thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường
sinh thái.
Nhân tố trung tâm của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa chính là
người lao động. Con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá con người sáng tạo ra máy móc, bảo
quản máy móc, con người luôn muốn nâng cao trình độ của mình hay là
nâng cao chất lượng của lực lượng sản xuất. Nhưng để biến đổi về chất
lực lượng sản xuất là một điều vô cùng khó khăn mà không dễ gì thực
hiẹn được, nhưng quá trình công nghiệp hoá lại tạo ra cơ sở vật chất để
làm biến đổi căn bản lực lượng sản xuất, nâng cao vai trò của lực lượng
sản xuất nhờ đó cũng làm nâng cao vai trò của người lao động.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công chính là khối liên minh
vững chắc giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ tri
thức. Nhưng khối liên minh này cần phải được củng cố và phát triển đi
8
lên chứ không thể chỉ là khối ô hợp. Nền kinh tế tăng trưởng và phát
triển là nhờ thành tựu công nghiệp hoá mang lại, là cơ sở kinh tế để
càng gia cố vững chắc thêm khối liên minh. Ngoài ra quá trình công
nghiệp hoá đã góp phần tăng cường quyền lực, sức mạnh và hiệu quả
của bộ máy quản lý kinh tế của Nhà nước.
Quá trình công nghiệp hoá tạo điều kiện vật chất để xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ vững mạnh trên cơ sở đó mà thực hiện tốt sự
phân công và hợp tác quốc tế. Sự công nghiệp hoá đất nước thúc đẩy
quá trình phân công lao động xã hội phát triển, thúc đẩy quá trình quy
hoạch vùng lãnh thổ hợp lý theo hướng chuyên canh tập trung làm cho
quan hệ kinh tế giữa các vùng các miền trở lên thống nhất cao hơn.
Công nghiệp hoá không những có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng phát triển cao mà còn tạo tiền đề vật chất để xây dựng, phát
triển và hiện đại hoá nền quốc phòng an ninh. Sự nghiệp quốc phòng và
an ninh gắn liền với sự nghiệp phát triển văn hoá, kinh tế, xã hội.

Thành tựu công nghiệp hoá tạo ra tiền đề kinh tế cho sự phát triển đồng
bộ về kinh tế - chính trị, văn hoá xã hội, quốc phòng và an ninh. Thành
công của sự nghiệp công nghiệp hoá nền kinh tế quốc dân là nhân tố
quyết định sự thắng lợi của con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng và
nhân dân ta đã lựa chọn. Chính vì vậy mà công nghiệp hoá kinh tế được
coi là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội.
3. Nội dung chủ yếu của công nghiệp hoá nông nghiệp nông
thôn nước ta
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, gắn
với công nghiệp chế biến và thị trường, thực tiễn cơ khí hoá, điện khí
9
hoá, thuỷ lợi hoá, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ trước hết
là nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng hiệuq ủa, sức cạnh
tranh của nông sản hàng hoá trên thị trường. Ngoài ra công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp cũng chính là phát triển lực lượng sản xuất,
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.Trên cơ sở thực hiện cơ khí
hoá nền sản xuất xã hội và áp dụng những thành tựu khoa học công
nghệ hiện đại.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trước hết là quá trình cải
biến lao động thủ công lạchậu thành lao động sử dụng máy móc tức là
phải cơ khí hoá nền kinh tế quốc dân. Nền nông nghiệp với kỹ thuật thủ
công, lao động chân tay thì không thể gọi là nền nông nghiệp phát triển
được, nhất là nền nông nghiệp đó lại phải gánh trên vai cả một nền kinh
tế. Nông nghiệp lạc hậu làm cho đời sống của nhân dân nghèo đói bởi
kinh tế Việt Nam sống dựa chủ yếu vào nông nghiệp, 80% dân cư làm
nông nghiệp đã khiến cho đất nước càng ngày càng thụt lùi không phát
triển. Bởi vậy Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra mục tiêu là phải chuyển
đổi căn bản từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp

đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp hoá. Nhưng cách mạng
công nghiệp không chỉ là chuyển đổi cơ cấu thủ công sang cơ khí mà
phải gắn liền với điện khí hoá và tự động hoá sản xuất từng nước và
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Ngoài ra thị trường cũng là một
yếu tố vô cùng quan trọng trong lĩnh vực tiêu thụ hàng hoá nông sản
phẩm. Vì vậy phải thúc đẩy hình thành và mở rộng các loại thị trường
bao gồm thị trường sản phẩm, ngoài ra còn phải có các loại thị trường
như thị trường vốn, lao động, công nghệ.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng nhanh tỷ trọng giá trị
sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ
10
trọng sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp. Xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi
trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp, xây dựng nền dân chủ công bằng, văn minh, không ngừng nâng
cao đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn. Đất nước ta
phần lớn là lao động trong nông nghiệp cơ cấu khu vực I quá lớn trong
khi đó khu vực II lại quá nhỏ bé. Lao động trong nông nghiệp dư thừa
thường không biết làm gì dẫn đến lãng phí tài nguyên con người. Vì
vậy mục tiêu chính quan trọng nhất là phải thu hẹp lực lượng sản xuất
trong nông nghiệp bằng cách đưa máy móc thiết bị vào thay thế một số
vị trí lao động của con người. Máy móc hiện đại làm tốn ít nhân lực
hơn, con người lao động cũng được giám bắt khối lượng công việc từ
đó tăng nhanh lực lượng lao động của các ngành công nghiệp và dịch
vụ.
Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, quy hoạch phát triển
nông thôn bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp cũng là nội dung chính của công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Nếu chỉ biết đưa máy móc thiết bị

hiện đại vào trong sản xuất nông nghiệp thì sẽ làm hỏng, lãng phí máy
móc khi cơ sở hạ tầng không phù hợp. Vì vậy song song với cải tiến
máy móc thiết bị là xây dựng cơ sở vật chất đầy đủ và hiện đại.Nhưng
phát triển nông thôn không chỉ là sự phát triển đại trà tất cả các vùng,
miền mà phải chọn ra từng khu vực trọng điểm. Những khu vực trọng
điểm phải phù hợp với từng ngành như nông, lâm, thuỷ sản từ đó có
những chiến lược phát triển những ưu điểm từng vùng để những ưu
điểm đó phát huy phát triển các ngành nghề. Các ngành nghề được ưu
tiên phát triển nhất là các ngành nghề thủ công gia truyền nhưng vấn đề
môi trường cũng lại được đặt ra cấp thiết. Một ví dụ đơn giản là làng
11
gồm Bát Tràng, là một làng nghề cổ truyền lâu đời, sản phẩm hàng hoá
được bán rộng rãi nhưng vài năm trước khi chưa áp dụng phương pháp
nung bằng gas mà nung gốm bằng than gây nên ô nhiễm cho cả một
vùng rộng lớn.Nếu biện pháp nung gốm bằng gas không kịp thời ra đời
thì cả làng nghề sẽ bị ô nhiễm bởi khói than và bụi gây nên căn bệnh về
phổi. Bởi vậy phát triển nông thôn bảo vệ làng nghề cũng phải song
hành với bảo vệ môi trường sinh thái. Có như thế mới vậy dụng được
một nền dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống
vật chất và văn hoá của nhân dân ở nông thôn.
B. THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG GIẢI PHÁP
1. Thực trạng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn nước
ta hiện nay
Đối mặt với thực trạng nông nghiệp nước ta hiện nay, Đảng và
Nhà nước ta đã nhận ra một số mặt yếu kém, một số thực trạng vẫn tồn
tại song hành cùng với sự phát triển của nông thôn. Hiện nay sản xuất
nông nghiệp ở nước ta phổ biến còn trong tình trạng phân tán, đơn lẻ,
thiếu sự phối hợp nên chất lượng sản phẩm không đồng nhất, thu gom
và vận chuyển khó khăn giá thành cao. Trong cùng một sản phẩm luôn
có sự cạnh tranh, sự tranh chấp về lợi ích giữa người sản xuất, thu gom

với người chế biến, tiêu thụ và người chịu thiệt cuối cùng lại chính là
người nông dân. Đó cũng chính là sự bất cập trong nền kinh tế thị
trường hiện nay.
Cho đến nay trình độ công nghiệp nông thôn còn ở trạng thái
manh nha, yếu ớt, kinh tế nông thôn còn ở trạng thái manh nha, yếu ớt,
kinh tế nông thôn còn nặng tính thuần nông. Những khảo sát của những
thập kỷ gần đây, ở nhiều vùng của đất nước cho thấy cơ cấu lao động
12
trong nông nghiệp hầu như không thay đổi. Ngoài ra do cơ chế quản lý
tập trung quan liêu bao cấp kéo dài làm cho không ít người lao động đã
quen với tâm lý ỷ lại, trông chờ thiếu nhạy bén khi phải đối mặt với
việc làm và thu nhập khi chuyển sang kinh tế thị trường.
Về phương diện quản lý tổng thể nền kinh tế, các chính sách công
nghiệp hoá hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan
hệ giữa nông thôn và thành thị. Trong nhiều thập kỷ, chiến lược ưu tiên
phát triển công nghiệp nặng trên thực tế chưa có tác động tích cực cho
việc tăng cường mối liên kết giữa thành thị và nông thôn. Trong những
giải pháp tiến hành, chưa đặt đúng vai trò ngành nghề và công nghiệp
nông thôn như một khâu trung gian để qua đó thực hiện chuyển giao
công nghệ, một mặt công nghiệp tác động vào nông nghiệp, mặt khác
các hoạt động nông nghiệp hoặc mang tính nông nghiệp có thể chuyển
dần sang công nghiệp. Có thể nói đây chính là khuyết tật cơ cấu cả về
phương diện ngành lẫn lãnh thổ, là khâu ách tắc của quá trình công
nghiệp hoá. Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân hạn chế khiến sau
nhiều thập kỷ tiến hành công nghiệp hoá đến nay về cơ bản Việt Nam
vẫn còn là một nước nông nghiệp mang tính tự cung tự cấp. Nếu thời
gian tới thiếu những thể chế và giải pháp thiết thực thúc đẩy công
nghiệp hoá nông thôn phát triển, thì tăng trưởng kinh tế nông thôn và
kinh tế Việt Nam nói chung sẽ khó có sự phát triển bền vững.
Nghiên cứu nhiều vùng cụ thể ở nhiều vùng cũng cho thấy, công

nghiệp nông thôn ở Việt Nam có trình độ công nghệ và dịch vụ thấp
hơn rất nhiều so với thành phố.Trên thực tế công nghiệp được xây dựng
ở nông thôn hiện nay chủ yếu dùng công nghệ cũ được thải loại từ các
vùng đô thị mang vào.
13
Là một bộ phận của kinh tế nông thôn, hoạt động của công nghiệp
nông thôn chịu tác động của sản xuất nông nghiệp mang tính chu kỳ,
việc cung cấp nguyên liệu và sử dụng lao động trong năm có sự biến
động khá lớn. Số lượng làm việc trong các cơ sở công nghiệp nông thôn
phụ thuộc vào thời vụ, nếu vào vụ mùa hoặc đi cấy, đi gặt lực lượng lao
động giảm mạnh rõ rệt. Người nông dân luôn coi công việc chính của
mình là làm ruộng vì vậy khó có thể bảo họ đi làm khi công việc làm
ruộng chưa làm xong. Cũng tương tự như vậy nguyên liệu cung ứng cho
các cơ sở chế biến liên quan chặt chẽ với thời kỳ thu hoạch cây trồng
lương thực thực phẩm chỉ tồn tại theo từng mùa của nó, vì vậy các cơ
sở chế biến nông sản phẩm cũng phải hoạt động tương tự như vậy. Nhà
máy, công nhân phải làm việc hết công suất khi vụ thu hoạch tới gần,
còn lại phải làm việc cầm chừng khi qua mùa thu hoạch. Do vậy không
ít hộ gia đình côn nghiệp nông thôn phải dành toàn bộ thời gian của lao
động gia đình cho hoạt động nông nghiệp trong lúc thời vụ khẩn
trương.
Do thiếu vốn đầu tư sản xuất mà khả năng của người nông dân
cũng có hạn do không được đào tạo một cách chính quy và cơ bản nên ở
hầu hết các địa bàn nông thôn các quá trình sản xuất và chế biến đều
trải qua nhiều công đoạn nhỏ và phân tán. Sản xuất theo quy mô nhỏ,
đơn sơ, thủ công là chính thì các hộ gia đình khó có điều kiện có được
công nghệ tinh chế tốt nhất bởi vậy chất lượng sản phẩm mới trở nên
thấp kém, không đủ tiêu chuẩn phân phối trong nước hoặc xuất khẩu ra
nước ngoài. Ngoài ra nếu sản phẩm được mang ra xuất khẩu cũng chỉ
được bán với giá rẻ mạt, chính vì vậy các doanh nghiệp Việt Nam mới

thường xuyên bị kiện bán phá giá.
Để sản xuất kinh doanh có hiệu quả chất lượng nhưng nó cũng chỉ
là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của các doanh
14
nghiệp, ngoài ra còn một yếu tố vô cùng quan trọng nữa đó là giá thành
sản phẩm. Giá thành của một sản phẩm còn được coi là yếu tố cơ bản
nhất trong cạnh tranh giữa các công ty với nhau. Các doanh nghiệp khi
muốn tăng lợi nhuận kinh doanh, tăng khối lượng sản phẩm bán ra
nhưng khách hàng lại cực kỳ khó tính. Họ luôn muốn mua được những
hàng hoá rẻ nhất, chất lượng thì tốt nhất, vì vậy phá giá thành là đánh
đúng tâm lý của người tiêu dùng. Nhưng không phải cứ giảm thật mạnh
giá mà không quan tâm tới lợi nhuận của doanh nghiệp. Giảm giá quá
thấp thì chỉ bán được sản phẩm nhiều thì doanh nghiệp cũng không thể
có lãi. Đối với các doanh nghiệp ở nông tôn thì cách giảm giá duy nhất
chỉ có thể là cải tiến trong lĩnh vực sản xuất. Phân định rõ và kết hợp
hài hoà các tầng lớp công nghệ trong tổ chức sản xuất sẽ tạo thuận lợi
để xác định quy mô vùng nguyên liệu gắn liền với việc sơ chế và kinh
tế tập trung. Như vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm một lượng chi phí dùng
cho vận chuyển hao mòn máy móc ngoài ra còn tạo được việc làm cho
số lao động nông thôn, đồng thời với nâng cao chất lượng và hạ giá
thành nông sản.
Một trong những tình trạng chung của công nghiệp nước ta hay
nói cách khác là những nước đang phát triển đó là mới bước đầu đi vào
quá trình phát triển đất nước phát triển nền kinh tế nên quá trình phát
triển đó còn mang nặng tính tự phát, phân tán tuỳ tiện với quy mô thì
nhỏ bé. Vì vậy càng làm cho quá trình công nghiệp hoá nông thôn trở
nên khó khăn hơn. Do dân trí của con người nông thôn thấp, không
được đào tạo cụ thể để có những hiểu biết nhất định nên hậu quả tất yếu
là càng phát triển mạnh công nghiệp nông thôn thì mức độ ô nhiễm môi
trường càng trở nên trầm trọng. Chất thải công nghiệp không được xử

lý được thải bừa bãi ra môi trường, sông ngòi gây nên ô nhiễm ngày
một trở nên trầm trọng hơn. Hoá chất không được xử lý đổ thẳng ra
15
ngoài lỗi chủ yếu là do ý thức của con người quá kém. Tự họ tự chọn
cho mình một cuộc sống đầy bệnh tật nghèo đói. Lúc nào cũng đối mặt
với nguy cơ nhiễm các bệnh hiểm nghèo, càng ngày sự ô nhiễm càng
trở nên trầm trọng vượt quá tầm kiểm soát của con người. Nhưng đứng
trước thảm hoạ sinh học như vậy con người lại thản nhiên cho qua, tiếp
tục những hành động phá huỷ môi trường mà không chút do dự hay
phàn nàn. Tín hiệu SOS báo động đang rung lên cảnh báo những con
người đang hàng ngày phá huỷ môi trường tự nhiên.
Mặt khác Nhà nước cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng trong
quá trình công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn nhưng do chưa được
sự quan tâm giúp đỡ có hiệu quả vì vậy mà nông thôn vẫn chưa tiếp cận
được với trình độ phát triển của thành thị. Chính phủ luôn kêu gọi các
vùng tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, đầu tư vào xây dựng cơ
sở vật chất cho quá trình công nghiệp hoá. Những chính sách khuyến
khích mà các vùng đưa ra cũng không thu hút được tiềm năng đầu tư ở
bên ngoài. Ngoài ra một số vùng còn mất trật tự an ninh an toàn cho
người lao động cho công nhân vì vậy sẽ gây tâm lý lo ngại cho những
nhà đầu tư muốn đầu tư vào phát triển công nghiệp. Có rất nhiều nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân cư, vì vậy làm sao để huy động được nguồn vốn
đó là cả quá trình lâu dài tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.
Khi các nhà đầu tư trở nên tin tưởng thì họ sẵn sàng đầu tư nguồn
vốn của mình khi đó vừa phát triển được công nghiệp của vùng đó lại
vừa tạo điều kiện việc làm cho lao động dư thừa rỗi trong vùng.
Trong những thập kỷ gần đây Việt Nam đã có những bước đi
quan trọng đưa nền kinh tế phát triển đi lên.Nhưng song hành cùng với
đó là những khó khăn, những sai lầm cần phải khắc phục. Vấn đề trọng
16

tâm là phải có một chính sách phù hợp để đưa đất nước phát triển đi lên
sánh tầm cùng với các nước trên thế giới.
Một số thành tựu to lớn của các nước trong khu vực đã cho Việt
Nam rất nhiều kinh nghiệm quý báu phục vụ đắc lực cho nền kinh tế
Việt Nam. Như Trung Quốc là một ví dụ điển hình bởi Trung Quốc là
quốc gia đất rộng, người đông nhưng họ lại có những thành tựu to lớn
về nông nghiệp trong thời kỳ cải cách. Đó là sự phát triển của công
nghiệp thành thị và công nghiệp nông thôn (còn gọi là các xí nghiệp
hương trốm). Trong thời kỳ cải cách, công nghiệp nông thôn mang đặc
thù Trung Quốc phát triển mạnh đã thu hút 100 triệu lao động nông
thôn, tạo ra giá trị sản phẩm công nghiệp nông thôn vượt giá trị sản
lượng nông nghiệp, làm cho nhiều làng quê trở nên giàu có trù phú nhờ
các xí nghiệp hương trốm. Từ đó ta có thể thấy rằng, trong điều kiện
đặc thù của các nước châu Á, nông nghiệp thực sự là điểm tựa của
công nghiệp hoá nông thôn. Để phát triển công nghiệp hoá nông thôn,
các nước như Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc và ngay cả Trung Quốc
đã đẩy mạnh cơ giới hoá hiện đại hoá nông nghiệp và đã thành công
trong lĩnh vực này họ đã sáng tạo ra thiết bị công nghệ thích hợp với
phương thức sản xuất lúa Châu Á và với quy mô trang trại gia đình nhỏ
bé. Các nước này đã đưa công nghiệp vào nông thôn, tăng thu nhập cho
nông dân tạo ra nguồn vốn đầu tư cho cơ giới hoá, các nước này còn
tìm cách tạo việc làm tại chỗ để thu hút lao động thừa, nhất là do cơ
giới hoá tạo ra. Các thành tựu mà các nước đi trước để lại là những kinh
nghiệm quý báu cho một nước nhỏ như Việt Nam học tập. Cố gắng ứng
dụng vào đất nước để đạt được những thành tựu như vậy là mục tiêu
hàng đầu của Đảng và Nhà nước.
2. Định hướng và các giải pháp cơ bản để tiến hành công
nghiệp hoá nông thôn
17
a. Định hướng tiến hành công nghiệp hoá nông nghiệp nông

thôn
Để phát triển công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông
thôn, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những định hướng cụ thể nhằm đưa
đất nước đi đúng con đường của nó. Mục tiêu tổng quát và lâu dài là
giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nhanh chóng nâng cao thu
nhập và đời sống của dân cư nông thôn, đưa nông thôn nước ta tiến lên
văn minh hiện đại, gắn liền nền kinh tế hiện đại trong một thể thống
nhất. Muốn vậy phải xây dựng một nền nông nghiệp và kinh tế nông
thôn có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất tiến bộ phù
hợp để lực lượng sản xuất phát triển mạnh tạo nên cơ cấu kinh tế hợp
lý, năng suất, sản xuất và lao động cao, khả năng cạnh tranh hàng hoá
mạnh.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt
Nam đã quyết định phấn đấu đưa nước ta đến năm 2020 là cơ bản trở
thành một nước công nghiệp. Để thực hiện được điều đó, Đảng và Nhà
nước ta đã đặt ra những mục tiêu phù hợp với tình hình đất nước. Đầu
tiên phải phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, hình thành nên các
vùng tập trung chuyên canh có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có
sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng tốt về chất lượng, đảm bảo an
toàn về lương thực trong xã hội đáp ứng được yêu cầu của công nghệ
chế biến của thị trường trong và ngoài nước. Ngoài ra phải phát triển
công nghiệp chế biến nông lâm thuỷ sản, với công nghệ ngày càng cao
gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô thị. Bên
cạnh đó phải phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các
ngành nghề mới bao gồm: tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất
hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các
nguồn nguyên liệu phi nông nghiệp, các loại hình dịch vụ, phục vụ sản
18
xuất và đời sống nhân dân. Kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội cũng phải
được xây dựng, củng cố và đổi mới, từng bước hình thành nông thôn

mới văn minh và hiện đại.
Định hướng cuối cùng đó là hoàn thành cơ bản việc giao đất giao
rừng cho hộ nông dân. Có chính sách hợp lý trợ giúp, khuyến khích
nông dân giải quyết khó khăn về vốn, giá cả vật tư nông nghiệp, thị
trường tiêu thụ sản phẩm việc Đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra định
hướng lớn có tính chất chiến lược và những nội dung cơ bản về công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nước ta trong thời gian phát triển
kinh tế xã hội đất nước, là một trong những tiền đề có ý nghĩa quyết
định đối với nước ta khi tiến vào thế kỷ XXI.
b. Giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn nước ta hiện nay
Để hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn, khắc phục những khó khăn trước mắt, Đảng và Nhà
nước đã đưa ra những giải pháp cơ bản để tiến hành công nghiệp hoá
nông thôn.
Đầu tiên phải phát triển lực lượng sản xuất, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế nông thôn. Đối với cây lương thực phải xây dựng các vùng sản
xuất lúa tập trung ở các khu vực đồng bằng rộng lớn, sử dụng các giống
mới có năng suất chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thị trường, áp
dụng các biện pháp đồng bộ để hạ giá thành và đảm bảo chất lượng.
Đối với cây công nghiệp, thực phẩm phải thường xuyên nghiên cứu các
loại công nghệ sinh học tiên tiến để lai tạo và nhân giống để sản xuất ra
giống cây trồng có năng suất chất lượng cao cung ứng đủ cho nhu cầu
sản xuất, thực hiện cơ giới hoá các khâu sản xuất trứơc hết là khâu nặng
nhọc, độc hại, thời vụ khẩn trương, cơ giới hoá các khâu sau thu hoạch
19
để nâng cao năng suất lao động, phát triển các cơ sở công nghiệp chế
biến gắn với vùng nguyên liệu. Hướng dẫn, khuyến khích và hỗ trợ các
cơ sở ngành nghề thôn thôn sử dụng máy móc, công cụ cải tiến, thực
hiện cơ khí hoá các khâu sản xuất nâng cao năng suất và chất lượng, hạ

giá thành để có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường trong nước và
quốc tế. Nhà nước cũng đóng một phần vô cùng quan trọng khi đưa ra
những chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển mạnh các ngành công
nghiệp về nông thôn để thu hút và thực hiện việc phân công lao động
ngay trên địa bàn, trước hết là các ngành sử dụng nguyên liệu tại chỗ,
cần nhiều lao động như: chế biến nông lâm thuỷ sản, sản xuất vật liệu
xây dựng…. Hình thành ngay từ đầu các khu công nghiệp ở nông thôn
gắn kết ngay từ đầu lợi ích kinh tế giữa người sản xuất nguyên liệu với
các cơ sở thu mua chế biến kinh doanh nông lâm thuỷ sản.
Phải xây dựng được mối quan hệ sản xuất phù hợp kinh tế hộ
nông dân và nền kinh tế nhiều thành phần tồn tại lâu dài trong quá trình
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Mọi thành phần
kinh tế đều có vai trò quan trọng và đều được phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước cần tạo mọi điều kiện thuận lợi để
kinh tế hộ gia đình phát triển, quy mô sản xuất hàng hoá ngày càng lớn
và phát triển kinh tế trang trại. Khuyến khích hỗ trợ và tạo điều kiện
phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở liên kết hợp tác tự nguyện giữa
các hộ gia đình và các trang trại bằng nhiều hình thức, nhiều quy mô
nhiều cấp độ đa dạng để nâng cao hiệu quả kinh tế hộ gia đình và kinh
tế xã hội nông thôn. Hợp tác xã phải tập trung tìm đầu vào và đầu ra
cho sản xuất nông nghiệp, tổ chức thực hiện tốt việc quy hoạch và
hướng dẫn nông dân ứng dụng khoa học công nghệ mới, chuyển đổi cơ
cấu sản xuất. Nhà nước hỗ trợ hợp tác xã đào tạo cán bộ và có chính
20
sách thúê phù hợp đối với các hoạt động dịch vụ. Phát triển quỹ tín
dụng nhân dân ở xã để phát triển nông nghiệp nông thôn.
Khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển sản xuất, kinh doanh các
ngành nghề truyền thống đa dạng và phong phú. Đây là lực lượng quan
trọng có khả năng thu hút được nhiều lao động, tăng năng lực chế biến
tiêu thụ nông sản, dịch vụ kỹ thuật và đời sống nông thôn. Cần có chính

sách phù hợp và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác nhau, nhất
là các chính sách về đất đai, tài chính, tín dụng…
Phát triển kết cấu hạ tầng và đô thị hoá nông thôn. Nhà nước ưu
tiên phát triển hệ thống thuỷ lợi theo hướng sử dụng tài nguyên nước,
khai thác lưu vực sông để cấp nước cho sản xuất nông nghiệp nuôi
trồng thuỷ sản, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Trong xây dựng và
quản lý các công trình thuỷ lợi, áp dụng các công nghệ tiên tiến, công
nghệ tưới kết kiệm nước thựchiện xã hội hoá đầu tư và quản lý công
trình thuỷ lợi, phát triển các tổ chức hợp tác sử dụng nước và quản lý
thuỷ nông của nông dân.
Nhà nước cũng phải có các chính sách thoả đáng cùng với các địa
phương và đóng góp của dân phát triển nhanh hệ thống giao thông nông
thôn đảm bảo hàng hoá và đi lại cho dân. Nâng cấp tuyến đường đã có
nơi giao thông là cầu nối thôn với thành thị, phải có giao thông thuận
lợi thì việc vận chuyển hàng hoá từ vùng này tới vùng kia mới được cải
thiện rõ rệt, từ đó hình thành nên các vùng công nghiệp lớn ở nông
thôn. Ngoài ra điện cũng đóng vai trò vô cùng quan trọng để vận hành
máy móc, thiết bị vì vậy phải phát triển hệ thống điện nông thôn các
dịch vụ bưu chính viễn thông và các điểm văn hoá đến hầu hết các xã,
cung cấp có hiệu quả chất lượng cao cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt
ở nông thôn.
21
Công tác quy hoạch phải được coi là nhiệm vụ hàng đầu bởi công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải được tiến hành
theo từng vùng để phát triển theo một hướng cụ thể; chứ không thể phát
triển một cách nhỏ lẻ theo từng quy mô gia đình nhỏ. Đặc biệt phải chú
trọng làm tốt các quy hoạch vùng sản xuất hàng hoá tập trung theo
hướng sản xuất lớn. Ngoài ra phải có một chính sách thoả đáng để quy
hoạch cơ sở hạ tầng và đô thị, quy hoạch bố trí lại dân cư, xây dựng
làng xã nhưng phải gắn với bảo vệ môi trường và giữ gìn bản sắc văn

hoá dân tộc. Nhiệm vụ của các cấp chính phủ được đặt ra hết sức nặng
nề khi phải làm tốt quy hoạch, định hướng phát triển, chuyển giao khoa
học công nghệ, đào tạo nhân lực, phát triển các dịch vụ công cộng đảm
bảo ổn định chính trị, an ninh trật tự xã hội, chỉ có như thế mới thu hút
được đầu tư vào các vùng ở nông thôn.
Nước ta là một nước có nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, kinh phí
không đủ để theo đuổi các dự án nghiên cứu khoa học vì vậy phải đẩy
mạnh việc nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao khoa học công nghệ và
coi đây là khâu đột phá quan trọng nhất để thúc đẩy phát triển nông
nghiệp và kinh tế nông thôn trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn. Đổi mới cơ chế quản lý khoa học, nhất là
cơ chế quản lý tài chính và nhân sự để nâng cao hiệu quả kinh tế. Nhà
nước phải có chính sách đầu tư thoả đáng cho nghiên cứu khoa học
nông nghiệp để sớm hiện đại hoá hệ thống sản xuất đáp ứng tốt yêu cầu
sản xuất hàng hoá lớn chất lượng cao, tạo điều kiện hình thành các
trung tâm nghiên cứu khoa học ứng dụng mạnh có đủ năng lực để đưa
ra những đột phá về khoa học công nghệ. Có chính sách khuyến khích
các thành phần kinh tế tham gia phát triển khoa học công nghệ. Nhà
nước dành phần kinh phí thoả đáng để nhập khẩu công nghệ tiến bộ của
22
nước ngoài,, nhất là các loại giống mới , máy móc thiết bị… phục vụ
kịp thời sản xuất.
Thực hiện một số chính sách liên quan trực tiếp đến phát triển
nông nghiệp nông thôn các chính sách về đất đai như Nhà nước tạo điều
kiện thuận lợi để nông dân thực hiện đầy đủ các quyền về đất đai, sử
dụng đất đai, chuyển nhượng quyền sử dụng đất… các chính sách về
đầu tư như Nhà nước phải biết cân đối các nguồn vốn để ưu tiên đầu tư
thích đáng để phát triển nông lâm, ngư nghiệp và điều chỉnh cơ cấu đầu
tư theo hướng phục vụ cho chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông
nghiệp nông thôn. Ngoài ra Nhà nước phải thực hiện các chính sách về

tín dụng, các chính sách về thuế, về lao động và việc làm, về thương
mại và hội nhập kinh tế.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn không
chỉ là sự nghiệp riêng cá nhân ai khác mà là sự nghiệp của toàn Đảng
toàn dân, của các thành phần kinh tế. Để thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn phải tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ đạo điều hành tổ chức thực hiện sâu
sát cụ thể quyết liệt của Chính phủ và các cấp, các ngành. Phải phát huy
sức mạnh tổng hợp của cả nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn - nhiệm vụ quan
trọng hàng đầu trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
23
III. KẾT LUẬN
Ngay từ những ngày đầu giành được độc lập, Đảng và Nhà nước
ta đã xác định được mục tiêu chính của đất nước là hoàn thành quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong đó công nghiệp hoá
nông nghiệp nông thôn là một mắt xích vô cùng quan trọng. Nó đã xoá
đi ranh giới khoảng cách giữa thành thị, nông thôn, nối liền kinh tế các
vùng với nhau. Trong nhiều năm nền kinh tế đã đạt được những thành
tựu vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước tiến lên thoát khỏi đói
nghèo từng bước xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại.
Nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện những khó khăn vất vả, những
vướng mắc yếu kém nhất định. Xác định đúng những tồn tại để khắc
phục tồn tại đó dần dần hoàn thiện quá trình công nghiệp hoá nông
nghiệp nông thôn. Các chính sách được Chính phủ đưa ra càng củng cố
hơn quyết tâm xây dựng một nông thôn vững mạnh. Một nền nông
nghiệp cơ khí hoá, điện khí hoá, là điểm tựa vững chắc cho nền công
nghiệp hoá toàn đất nước phát triển đi lên. Dần dần đưa Việt Nam trở
thành một nước phát triển xứng tầm với các nước trong khu vực và trên
toàn thế giới. Đó là mong muốn không chỉ của Đảng, Nhà nước mà là

của toàn dân tộc.
24
Đề tài:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay - thực trạng và các giải pháp
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
















25

×