Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Bài thu hoạch Tạ Văn Trường chứa mại dâm - Trả hồ sơ điều tra bổ sung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (79.64 KB, 12 trang )

HỌC VIỆN TƯ PHÁP

BÀI THU HOẠCH DIỄN ÁN
Môn: KỸ NĂNG CƠ BẢN CỦA LUẬT SƯ KHI THAM GIA
GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ

Mã hồ sơ

:

LS.HS 01: TẠ VĂN TRƯỜNG CHỨA MẠI DÂM

Diễn lần

:

01

Ngày diễn

:



Giáo viên hướng dẫn :



Họ và tên
Lớp
Số báo danh


Nhóm
Vai diễn

:
:
:
:
:







…, ngày … tháng … năm …


I.

TÓM TẮT NỘI DUNG VỤ ÁN
Cơ sở tẩm quất Ha Na (quán Ha Na) có địa chỉ tại khu phố Nguyễn Giáo,
phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh do Ngô Văn Thành – sinh
năm 1984 là chủ và đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh.
Khoảng cuối tháng 6/2018, Tạ Văn Trường – sinh năm 1988 đến quán Ha
Na gặp Thành xin việc làm. Hai bên thỏa thuận Thành giao tồn bộ cơng việc
quản lý, điều hành quán cho Trường. Trường có trách nhiệm quản lý quán và
điều hành nhân viên, thu tiền tẩm quất của khách. Thành hứa trả lương cho
Trường 4.000.000đ/01 tháng.
Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/7/2018, Thành khơng có mặt tại quán, có

03 đối tượng tự khai là: Nguyễn Văn Thọ - sinh năm 1986, Nguyễn Trần Trung sinh năm 1987 và Nguyễn Văn Tuấn - sinh năm 1990 đi xe taxi của Nguyễn Văn
Huy – sinh năm 1983 đến quán Ha Na với mục đích mua dâm.
Đến nơi, Thọ bảo Huy vào đợi còn Thọ, Trung, Tuấn đi đến gặp Trường
đang đứng tại quầy lễ tân. Thọ đặt vấn đề mua dâm với Trường, Trường đồng ý
và thu tiền phòng 150.000đ/ 01 người, 03 người là 450.000đ. Thọ lấy 500.000đ
đưa cho Trường, Trường cầm tiền và trả lại cho Thọ 50.000đ.
Trường bảo Thọ, Trung, Tuấn lên phòng 201, 202, 203 để Trường gọi nhân
viên đến bán dâm. Trường gọi Phùng Thị Kim Liên - sinh năm 1990 là nhân
viên tại quán Ha Na vào phòng 203 bán dâm và tiếp tục dùng điện thoại gọi cho
người tên Bắc (Trường khơng rõ Bắc là ai, chỉ biết có số điện thoại là
0974.061.663 – theo Trường khai số điện thoại này do Thành cho Trường) bảo
cho hai nhân viên đến quán Ha Na để bán dâm. Một lúc sau, Lê Thị Thanh Tâm
– sinh năm 1995 đến, Trường bảo Tâm lên phòng 202 để bán dâm. Tại phòng,
Thọ và Trung đưa tiền cho gái bán dâm là Tâm và Liên, mỗi người 500.000đ.
Còn Tuấn vẫn ở phòng 201 để đợi gái bán dâm đến.
Khi Trung với Liên, Thọ với Tâm đang thực hiện hành vi mua bán dâm thì
bị CQCSĐT – CA tỉnh Bắc Ninh bắt quả tang thu giữ các vật chứng: 02 bao cao
su đã qua sử dụng, tiền VNĐ: 1.500.000đ do Trường, Tâm và Liên giao nộp; 02
điện thoại di động của Trường và Liên.
Quá trình điều tra, giữa Trường và Thành có sự mâu thuẫn trong lời khai về
việc Thành có biết, chỉ đạo việc chứa mại dâm tại quán Ha Na hay không. Ngày
10/8/2018, CQCSĐT – CA tỉnh Bắc Ninh đã cho Trường và Thành đối chất
nhưng cả hai vẫn giữ nguyên lời khai.
1


Về đối tượng tên là Bắc có số điện thoại là 0974.061.663, Cơ quan điều tra
đã tiến hành xác minh xác định chủ thuê bao là Nguyễn Thị Nguyên - sinh năm
1990 ở khu phố 1, phường Đồng Nguyên, thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Nguyên
khai Nguyên bị mất máy và sim cuối tháng 6/2018, hiện Nguyên không sử dụng

số điện thoại trên. Nguyên không biết Trường là ai.
Ngày 17/9/2018, CQCSĐT – CA tỉnh Bắc Ninh có bản Kết luận điều tra đề
nghị truy tố số 54/KLĐT-PC02 đề nghị Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh
truy tố Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm” quy định tại khoản 2 Điều 327
BLHS.
Ngày 18/10/2018, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh có Bản cáo trạng
số 118/CT-VKS-P1 truy tố ra trước Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh để xét xử bị can Tạ Văn Trường về tội “Chứa mại dâm” theo điểm d
Khoản 2 Điều 327 BLHS.
Ngày 28/12/2018, Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh có Quyết
định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số 17/2018/QĐXXST-HS theo đó đưa ra xét
xử sơ thẩm vụ án hình sự đối với bị cáo Tạ Văn Trường vào 7 giờ 30 phút, ngày
11/01/2019.
II.

DỰ KIẾN KẾ HOẠCH HỎI
Tư cách tham gia xét hỏi: Luật sư bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường.
Định hướng, mục đích hỏi:
- Làm rõ động cơ, mục đích phạm tội theo hướng có lợi cho bị cáo;
- Làm rõ bị cáo không phải chủ mưu mà chỉ tham gia giúp sức có vai trị
khơng đáng kể;
- Làm rõ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo.
1.

Hỏi bị cáo Tạ Văn Trường
- Vì sao bị cáo cho thuê phòng và gọi gái bán dâm đến bán dâm tại quán
Ha Na vào tối ngày 5/7/2018?
- Bị cáo đã thu bao nhiêu tiền của Thọ, Trung, Tuấn?
- Tiền đó là tiền gì? Số tiền đó sẽ được xử lý như thế nào?
- Tại sao bị cáo lại có ý định thỏa thuận với Liên về việc mua bán dâm tại

quán?
- Tối hôm xảy ra sự việc, lúc anh Thành mới đến quán, bị cáo và anh
Thành đã nói gì với nhau?
2


- Bị cáo đã gọi điện thoại cho Bắc mấy lần? Bị cáo cho nhận diện được
giọng của Bắc không?
- Bị cáo có được hưởng lợi gì từ việc chứa mại dâm tại qn Ha Na
khơng?
2.

Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Phùng Thị Kim Liên
- Trước khi xảy ra sự việc ngày 5/8/2018, chị có tẩm quất cho khách nào
tại qn Ha Na khơng? Nếu có, tiền thu được ai hưởng? Có chia cho ai
khơng?
- Chị thỏa thuận làm việc với anh Thành như thế nào? Hưởng lương như
thế nào?
- Chị có bán dâm tại quán Ha Na trước khi Trường vào làm việc hay
khơng?

3.

Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Ngô Văn Thành
- Anh với chị Liên thỏa thuận làm việc như thế nào? Hưởng lương ra sao?
- Anh với bị cáo Trường thỏa thuận làm việc như thế nào? Hưởng lương
ra sao?
- Ngoài lương ra, bị cáo Trường còn được trả khoản tiền nào khác không?
- Số tiền hàng ngày Trường thu của khách đến quán Ha Na được xử lý
như thế nào?

- Theo anh vì sao Trường lại chứa mại dâm tại quán Ha Na?

4.

Hỏi người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Lê Thị Thanh Tâm
- Tối ngày 5/7/2018 tại sao chị lại đến quán Ha Na?
- Chị có nhận được điện thoại của ai là Bắc hay Trường gọi đến quán Ha
Na bán dâm không?

III.

LUẬN CỨ BÀO CHỮA CHO BỊ CÁO TẠ VĂN TRƯỜNG
Kính thưa Hội đồng xét xử!
Thưa đại diện Viện Kiểm sát và tất cả những người tham gia tố tụng tại
phiên tịa hơm nay!
Tơi là Luật sư …., hiện đang công tác tại Công ty Luật … thuộc Đồn Luật
sư …. Tơi tham gia tố tụng bào chữa cho bị cáo Tạ Văn Trường trong vụ án hình
sự bị truy tố, xét xử về tội Chứa mại dâm do Tòa án nhân dân thị xã Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh đưa ra xét xử tại phiên tịa hơm nay.
3


Kính thưa HĐXX! Sau khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, tham gia phần hỏi tại
phiên tịa hơm nay, tơi xin trình bày quan điểm bào chữa cho bị cáo Tạ Văn
Trường như sau:
Theo cáo trạng của Viện Kiểm sát, bị cáo Trường lợi dụng công việc được
giao là quản lý Quán tẩm quất thư giãn Ha Na, khoảng 20h30 phút ngày
05/7/2018, bị cáo đồng ý cho 03 người khách là Thọ, Trung, Tuấn thuê phòng để
mua dâm tại quán và thu tiền phòng là 450.000đ/03 phòng. Trường gọi Liên – là
nhân viên tại quán Ha Na và gọi điện thoại cho một người tên Bắc yêu cầu cho

nhân viên từ bên ngoài đến quán Ha Na để bán dâm – người bán dâm đến tên là
Tâm. Đến khoảng 21 giờ cùng ngày, khi Trung với Liên, Thọ và Tâm đang thực
hiện hành vi mua bán dâm tại phòng 202, 203 thì bị CQCSĐT - CA tỉnh Bắc
Ninh bắt quả tang, thu giữ 02 bao cao su đã qua sử dụng; tiền VNĐ: 1.500.000 đ
và 02 điện thoại di động.
Quá trình điều tra bị cáo Trường đã thành khẩn khai nhận hành vi như đã
nêu trên. Ngoài ra, bị cáo cịn khai mình thực hiện việc chứa mại dâm theo chỉ
đạo của Thành và số điện thoại của người tên là Bắc là do Thành đưa. Trái lại,
Thành khai Thành không biết việc bị cáo Trường thỏa thuận với khách bán dâm
và sắp xếp nhân viên bán dâm tại quán. CQCSĐT - CA tỉnh Bắc Ninh đã cho
Trường và Thành đối chất nhưng cả hai vẫn giữ nguyên lời khai.
Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bắc Ninh đã truy tố bị cáo Trường về tội
“Chứa mại dâm” theo điểm d Khoản 2 Điều 327 Bộ luật hình sự.
Tơi khơng đồng ý với quan điểm buộc tội của Viện Kiểm sát bởi vì các tài
liệu, chứng cứ mà Viện Kiểm sát dùng làm cơ sở truy tố Tạ Văn Trường chưa
phản ánh rõ hành vi phạm tội; các tài liệu, chứng cứ chưa được thu thập đúng
pháp luật, việc đánh giá chứng cứ chưa đầy đủ, toàn diện làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo Trường, cụ thể:
Thứ nhất, chưa thu thập được tài liệu, chứng cứ làm rõ sự thật vụ án, làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của bị cáo Trường.
1. Chưa thu thập đủ tài liệu chứng cứ làm rõ diễn biến hành vi phạm tội
- Tại BL 97-98 Trường khai tại quán Ha Na có camera tuy nhiên quá
trình điều tra, truy tố chưa thu thập được băng ghi âm, ghi hình do camera
ghi lại sự việc vào tối ngày 05/7/2018. Ngoài ra, tại thời điểm xảy ra sự
việc có Huy ngồi chờ (BL 34, BL 111-112) nhưng quá trình lấy lời khai
của Huy chưa hỏi việc Huy có chứng kiến Thành và Trường trao đổi lúc
Thành vừa đến qn hay khơng. Tại phiên tịa hơm nay Huy cũng không
4



được mời tham gia phiên tịa do đó cần lấy lại lời khai của Huy và thu
thập băng ghi hình camera để làm rõ nội dung trao đổi của Thành và
Trường lúc Thành mới đến quán.
- Chưa lấy lời khai của Hùng là người xe ôm đưa Tâm đến quán Ha Na
để xác định thông tin đối tượng tên Bắc, hoặc làm rõ việc Tâm có phải do
Trường gọi đến hay khơng để có hướng giải quyết đối với chiếc điện thoại
Samsung của Trường.
- Chưa lấy lời khai của Nguyễn Thị Yến là vợ Thành nhưng trong
Quyết định đưa vụ án ra xét xử lại đưa Yến tham gia với tư cách người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
2. Chưa làm rõ động cơ mục đích phạm tội của bị cáo
Qua lời khai của bị cáo Trường và Thọ, Huy, Trung, Tuấn thì bị cáo
chỉ thu tiền phịng là 150.000 đồng/01 người bằng với giá vé tẩm quất tại
quán Ha Na mà Thành quy định, tiền bán dâm do gái bán dâm tự thu
khơng chia cho bị cáo, tiền phịng cuối ngày bị cáo sẽ nộp lại cho Thành.
Ngoài lương tháng ra bị cáo không được hưởng bất cứ lợi ích gì từ việc
chứa mại dâm.
Như vậy động cơ, mục đích phạm tội của bị cáo là gì? Bản kết luận
điều tra và bản cáo trạng đều chưa làm rõ được. Đây là một vấn đề quan
trọng cần xem xét khi quyết định hình phạt, do đó phải được làm rõ để
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo.
3. Chưa làm rõ được vai trị, vị trí của bị cáo khi thực hiện tội phạm
Bị cáo là người giữ vai trị chính hay chỉ là người thực hành vi theo
chỉ đạo của người khác trong vụ án chứa mại dâm này?
Tại Biên bản đối chất ngày 10/8/2018, mâu thuẫn trong lời khai của
Thành và bị cáo chưa được làm rõ, tuy nhiên biên bản đối chất được lập
không đúng quy định nên việc đối chất trên cần phải được tiến hành lại để
bảo đảm xác định đúng sự thật vụ án.
Để có căn cứ xét xử cần xác định Bắc là ai? Thành có cho Trường số
điện thoại của Bắc khơng? Thành có từng liên lạc với Bắc không?

Nguyên là chủ thuê bao của số điện thoại mà Bắc đang dùng, có cơ sở
nào chứng minh Nguyên mất số điện thoại và người đang sử dụng là
người khác không? Cần thu thập thêm thông tin tại nhà mạng cung cấp
dịch vụ di động của số điện thoại 0974.061.663 để làm rõ.
5


Tại phiên tịa hơm nay những vấn đề trên chưa được giải quyết. Như
đã phân tích trên, việc tìm ra động cơ, mục đích cũng như xác định có
đồng phạm hay khơng, phân hóa vai trị của từng người trong việc thực
hiện tội phạm là nhằm bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, tránh bỏ lọt
tội phạm.
Thứ hai, quá trình điều tra, truy tố có nhiều vi phạm thủ tục tố tụng làm
cho kết quả điều tra chưa phản ánh đúng sự thật vụ án.
1. Vi phạm thủ tục tố tụng khi tiến hành đối chất.
Biên bản đối chất ngày 10/8/2018 (BL 48 – 52) thể hiện việc đối chất
được thực hiện khơng có sự tham gia của Kiểm sát viên, trong hồ sơ vụ án
khơng có thơng báo cho Viện kiểm sát tỉnh Bắc Ninh để cử Kiểm sát viên
kiểm sát việc đối chất, trong biên bản đối chất cũng không ghi rõ việc
vắng mặt kiểm sát viên.
Thủ tục đối chất vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 189 BLTTHS do
đó Biên bản đối chất ngày 10/8/2018 khơng có giá trị pháp lý và khơng
được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều
87 BLTTHS.
2. Vi phạm thủ tục tố tụng trong q trình lấy lời khai
Có nhiều biên bản lấy lời khai khơng ghi thời gian kết thúc, đó là biên
bản lấy lời khai Nguyễn Văn Huy (BL 35-37, BL 38-40), Ngô Văn Thành
(BL 42-47, BL 53-55), Nguyễn Thị Nguyên (BL 57-61), Trần Quang Tùng
(63-65), Nguyễn Đức Ngọc Tân (66-68), Nguyễn Trần Trung (BL 73-75),
Nguyễn Văn Thọ (76-78), Lê Thị Tâm (BL 85-87), Phùng Thị Kim Liên

(BL 88-90), Tạ Văn Trường (BL 97-98).
Các biên bản trên không phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 133
BLTTHS.
3. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố, Bản cáo trạng được lập không
đúng quy định.
Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố (BL 114-117) được lập chưa đúng
mẫu quy định tại Thông tư 61/2017/TT-BCA, không thể hiện được động
cơ, mục đích phạm tội, việc xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 233
BLTTHS.
Bản cáo trạng (BL 118-122) không thể hiện được động cơ, mục đích
phạm tội, việc xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 243 BLTTHS.
6


Ngoài ra, Viện Kiểm sát truy tố bị cáo phạm tội Chứa mại dâm với tình tiết
định khung tăng nặng chưa phù hợp với thực tế vụ án.
Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo phạm tội theo khoản 2 Điều 327 với tình tiết
“chứa mại dâm 04 người trở lên”, trong đó tính cả người bán dâm và người mua
dâm là không phù hợp với Điều 327 BLHS.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì “mại” là “bán”, “mãi” là “mua” và “chứa mại
dâm” là “chứa bán dâm”. Như vậy, tình tiết định khung tăng nặng “chứa mại
dâm 04 người trở lên” quy định tại điểm d khoản 2 Điều 327 của BLHS được
hiểu là đối với người bán dâm.
Tại Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 5/7/2018 và tồn bộ hồ sơ
vụ án thể hiện rõ chỉ có 02 người bán dâm trong vụ án là Liên và Tâm do đó
hành vi của bị cáo chỉ thuộc khoản 1 Điều 327 BLHS.
Cuối cùng, việc tạm giam bị cáo cũng chưa phù hợp với quy định tại Điều
173 BLTTHS, cụ thể: Quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam ngày 08/7/2018 (BL
11) có trước Lệnh tạm giam ngày 11/7/2018 (BL 10). Theo Lệnh tạm giam ngày
11/7/2018 (BL 10) thì thời hạn tạm giam bị cáo là đến 02/11/2018, tuy nhiên đến

thời điểm xét xử là đã quá thời hạn tạm giam hơn 02 tháng mà bị cáo vẫn bị tạm
giam mặc dù khơng có văn bản gia hạn tạm giam nào của cơ quan tiến hành tố
tụng, điều này xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của bị
cáo.
Do đó tơi kính đề nghị HĐXX căn cứ vào điểm c khoản 6 Điều 326, Điều
85, Điều 280 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; điểm c, điểm e, điểm k khoản 2 Điều
3, Điều 5 Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một
số quy định của bộ luật tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, xem xét
quyết định: Trả hồ sơ vụ án điều tra bổ sung để làm rõ làm rõ mục đích, động cơ
phạm tội, đồng phạm khác, vai trò của bị cáo cũng như các vấn đề đã nêu trên
đây để làm rõ sự thật vụ án, tránh bỏ lọt tội phạm, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp
của bị cáo.
IV.

PHẦN NHẬN XÉT VIỆC ĐĨNG VAI DIỄN ÁN
1.

Thẩm phán – Chủ tọa phiên tịa: …


2.

Hội thẩm nhân dân: …

3.

Thư ký phiên tòa: …
7



4.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân: …

5.

Bị cáo: Tạ Văn Trường


6.

Người bào chữa cho bị cáo Trường:
…..

7.

Những người có quyền và nghĩa vụ liên quan:
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
8


…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
9


…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
10


…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….

…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….
…………………………………………………………………………….

11



×