Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ khi việt nam hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.64 KB, 16 trang )

ĐỀ BÀI 19: Giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ khi Việt
Nam hội nhập kinh tế quốc tế.
MỤC LỤC

MỤC LỤC.................................................................................................................1
MỞ ĐẦU...................................................................................................................1
NỘI DUNG...............................................................................................................2
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN..............................................................................................2
1.1.

Hội nhập kinh tế quốc tế là gì?........................................................................2

1.2.

Vì sao hội nhập kinh tế quốc tế là qui luật tất yếu khách quan?......................2

1.2.1. Một là, nhân tố khách quan..............................................................................2
1.2.2. Hai là, nhân tố chủ quan..................................................................................2
1.3.

Cơ hội và thách thức........................................................................................3

1.3.1. Cơ hội..............................................................................................................3
1.3.2. Thách thức.......................................................................................................3
1.4.

Tại sao Việt Nam lại phải hội nhập kinh tế quốc tế?.......................................4

2. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ KHI VIỆT
NAM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ...................................................................5
2.1.



Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong

bối cảnh hội nhập kinh tế qua các thời kỳ..................................................................5
2.2.

Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập

quốc tế của Việt Nam................................................................................................7
2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam.......................................................................10
KẾT THÚC.............................................................................................................14
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................15

1


MỞ ĐẦU
Ngay từ trong các cuộc kháng chiến chống thực dân, chúng ta đã tạo nên truyền
thống tự lực cánh sinh đồng thời coi trọng tranh thủ viện trợ của bên ngoài (cả tinh
thần lẫn vật chất). Ðến khi bắt tay vào công cuộc xây dựng CNXH mà thực chất đó
là một sự nghiệp có tính kinh tế - như Ănghen nói, thì chúng ta cũng ln ln đề
cao tinh thần độc lập tự cường, đồng thời hết sức coi trọng sự giúp đỡ của các nước
XHCN, coi đó là điều kiện để bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tiến lên
CNXH.Tuy nhiên, các nước phương Tây lại thực hiện chính sách bao vây cấm vận,
ngồi ra cịn có cả lực lượng tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại toàn diện nước ta,
thêm vào quán tính của chính sách phân phối bình quân, bao cấp, chia đều sự nghèo
khổ, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng khép kín, quan hệ hàng hóa - tiền tệ rất
yếu ớt. Nhìn thẳng vào sự thật, nền kinh tế thiếu động lực phát triển. Lịch sử bao
giờ cũng vẫn là người thầy dạy vĩ đại. Ðảng và nhân dân ta đã tiến hành công cuộc

đổi mới. Và, cùng với nhiều nội dung đổi mới, thì có một đột phá là mở cửa, hội
nhập kinh tế quốc tế, cũng đúng lúc bối cảnh "tồn cầu hóa kinh tế phát triển
mạnh". Nhưng với truyền thống và nhạy cảm chính trị, Ðảng và nhân dân ta sớm tự
cảnh báo "hội nhập mà khơng hịa tan".Như vậy "xây dựng nền kinh tế độc lập tự
chủ" là một trong năm nội dung cơ bản của đường lối kinh tế, là một đường lối kinh
tế của Ðảng ta, của nước ta.
Với những lí do trên, em đã chọn: “Giải pháp xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
khi Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế” làm đề tài tiểu luận của mình.

2


NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Hội nhập kinh tế quốc tế là gì?
Hội nhập kinh tế quốc tế là thực hiện mở cửa kinh tế quốc gia, phát triển kinh tế
quốc gia gắn liền với kinh tế khu vực và thế giới, tham gia ngày càng nhiều vào các
hoạt động kinh tế quốc tế, vào hệ thống thương mại đa phương.

1.2. Vì sao hội nhập kinh tế quốc tế là qui luật tất yếu khách quan?
Trong bối cảnh hiện nay, hội nhập kinh tế quốc tế là qui luật tất yếu khách quan đối
với sự phát triển kinh tế của các nước do sự chi phối của nhiều nhân tố khác nhau.

1.2.1. Một là, nhân tố khách quan
- Do sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất đã vượt ra khỏi phạm vi quốc gia
mang tính quốc tế thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phân cơng lao động quốc tế,
địi hỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia phải hội nhập với kinh tế khu vực và kinh tế
thế giới.
- Do sự tác động mạnh mẽ của của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ đã tạo
điều kiện và đòi hỏi nền kinh tế của mỗi quốc gia cần phải khai thác có hiệu quả

những thành tựu khoa học - công nghệ của thế giới để phát triển nền kinh tế quốc
gia.
- Do sự tác động của các xu thế phát triển kinh tế thế giới như: xu thế tồn cầu hóa,
xu thế mở cửa kinh tế, xu thế phát triển kinh tế tri thức nên khơng có một nước nào
có thể phát triển kinh tế một cách độc lập được.
- Do xu thế hịa bình, hợp tác cùng phát triển địi hỏi các quốc gia trên thế giới cần
phải thực hiện sự đối thoại thay cho đối đầu về kinh tế.

1.2.2. Hai là, nhân tố chủ quan
- Trong quá trình phát triển nền kinh tế, trên thế giới không một quốc gia nào có đủ
lợi thế về tất cả các nguồn lực, do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế là cần thiết để giải
quyết những khó khăn của các nguồn lực cho việc phát triển kinh tế mà mỗi nước sẽ
không thể tự giải quyết được từ những nguồn lực từ bên trong của mình.

3


- Trong quá trình phát triển nền kinh tế, các nước đều khơng muốn mình bị tụt hậu
q xa nên phải tìm mọi cách hội nhập vào xu thế chung nhằm rút ngắn khoảng
cách chênh lệch về kinh tế, về công nghệ sản xuất.
Tuy nhiên cần nhận thức hội nhập kinh tế quốc tế là một cuộc cạnh tranh gay go,
khốc liệt để phát triển nền kinh tế quốc gia, tạo điều kiện củng cố an ninh quốc
phòng, giữ vững độc lập kinh tế và bản sắc dân tộc thông qua việc thiết lập các mối
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, đan xen nhiều chiều, ở nhiều mức độ khác nhau.

1.3. Cơ hội và thách thức
1.3.1. Cơ hội
- Sử dụng hiệu quả hơn các nguồn lực trong quá trình phát triển kinh tế nhằm tạo ra
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn, bởi lẽ hội nhập sẽ tạo ra những thuận lợi để giải
quyết những khó khăn trong quá trình phát triển kinh tế.

- Góp phần từng bước nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh
nghiệp trong nước, của hàng hóa dịch vụ sản xuất ra, từ đó tạo điều kiện đẩy mạnh
xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ cho quốc gia, mở rộng thị trường tiêu thụ ở ngồi nước.
- Có điều kiện sử dụng các thành tựu của cuộc cách mạng khoa học cơng nghệ để
nâng cao trình độ kĩ thuật cơng nghệ, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về kĩ thuật
công nghệ với các nước nhằm tránh sự tụt hậu về mặt cơng nghệ.
Song, cần lưu ý rằng những lợi ích trên chỉ có thể đạt được khi trong q trình hội
nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia đều thực hiện nghiêm chỉnh các qui định, thỏa
thuận, các cam kết đã kí kết.

1.3.2. Thách thức
Bên cạnh những cơ hội có thể có được trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế,
những thách thức đặt ra cho mỗi quốc gia cũng hết sức khó khăn và phức tạp:
- Nền kinh tế phải có sự chấp thuận phát triển trong sự cạnh tranh ngày càng gay gắt
hơn, sức ép cạnh tranh ngày càng lớn hơn.
- Phải từng bước điều chỉnh cơ chế quản lí và hệ thống luật pháp cho phù hợp với
tập quán, luật pháp quốc tế.

4


Những thách thức trên là hết sức khó khăn với các nước đang phát triển do năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế, của các doanh nghiệp, của hàng hóa dịch vụ cịn rất yếu,
thị trường tiêu thụ ở ngồi nước còn rất hạn chế

1.4. Tại sao Việt Nam lại phải hội nhập kinh tế quốc tế?
Thực tiễn đất nước những năm 1980 đặt Đảng ta trước những thách thức to lớn, đòi
hỏi, phải đổi mới phương pháp lãnh đạo, trước hết là đổi mới tư duy. Trên cơ sở
phân tích, đánh giá đúng tình hình của đất nước, những sai lầm, khuyết điểm, nhận
thức rõ hơn quy luật khách quan của thời kỳ quá độ, kế thừa thành tựu, kinh nghiệm

xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới và Đảng đã đặt ra
yêu cầu phải đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới
chính sách kinh tế, trong đó xác định phương hướng là mở rộng và nâng cao hiệu
quả kinh tế đối ngoại
Trong bối cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có vai trị
quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới thì việc đề ra chủ trương hợp
tác kinh tế và khoa học kỹ thuật đối với các nước là một nhu cầu cấp thiết cho quá
trình đổi mới của Việt Nam.
Hơn nữa, tại thời điểm đầu những năm 90 của thế kỉ XX, hội nhập kinh tế quốc tế
đã trở thành một xu thế của thời đại, diễn ra mạnh mẽ trên nhiều phương diện với sự
xuất hiện của nhiều khối kinh tế, mậu dịch trên thế giới. Đối với một nước kinh tế
còn thấp kém, lạc hậu như Việt Nam tại thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là
con đường để rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế
giới, phát huy những lợi thế và tìm cách khắc phục hạn chế thơng qua việc học hỏi
kinh nghiệm của các nước. Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hội nhập
kinh tế quốc tế, trong suốt thời gian qua, Đảng đã nhất quán chủ trương phải tăng
cường hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

5


2. GIẢI PHÁP XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ KHI
VIỆT NAM HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
2.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ
trong bối cảnh hội nhập kinh tế qua các thời kỳ
Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ là một chủ trương không thay đổi trong mọi
giai đoạn xây dựng và phát triển đất nước. Đảng ta trong quá trình lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng luôn đặc biệt quan tâm đến vấn đề này và quan điểm về xây dựng
nền kinh tế độc lập, tự chủ đã được đề cập trong nhiều nghị quyết quan trọng của
Đảng. Để xây dựng được nền kinh tế độc lập, tự chủ, chúng ta cần phải có một hệ

thống giải pháp đồng bộ và lâu dài, trong đó cơng tác quản lý nhà nước có vai trị
đặc biệt quan trọng.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong quá trình hội nhập quốc tế nói chung và hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng
được thể hiện qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Qua mỗi kỳ đại hội, quan
điểm đó ngày càng được bổ sung hoàn thiện và làm sâu sắc hơn.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12-1986) với chủ trương thực hiện đường lối đổi mới đã
mở đường cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Những quan điểm
quan trọng của Đại hội VI là bước mở đường để những tư duy mới về kinh tế được
hình thành và hồn thiện dần, trong đó có nội dung về kinh tế độc lập, tự chủ. “Đó
chính là những luận điểm: (1) để có nền kinh tế thực sự vững mạnh và khơng ngừng
phát triển phải xây dựng được chương trình hành động cụ thể, đặc biệt là phải bảo
đảm cho lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho xã hội; (2) nền kinh tế Việt
Nam là nền kinh tế độc lập tự chủ nhưng thơng thống ở trong nước và mở ra bên
ngoài...”(1).
Đại hội Đảng lần thứ VII (6-1991) đánh dấu bước phát triển mới về nhận thức của
Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Chúng ta chủ trương tăng cường sức
mạnh kinh tế trên cơ sở nội lực; đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác, phá thế bị bao
vây, cấm vận, tham gia tích cực vào phân công lao động quốc tế. Đại hội VII đề ra
mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm là: “Vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định
chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội”(2).

6


Đại hội Đảng lần thứ VIII (6-1996), khái niệm “hội nhập” được chính thức đề cập
cùng với chủ trương: “Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế,
đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại. Dựa vào nguồn lực trong nước là
chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Xây dựng nền kinh tế mở, hội

nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập
khẩu bằng những sản phẩm trong nước có hiệu quả...”(3). Đại hội này Đảng ta đã
nhận thức được nguy cơ mất độc lập, tự chủ trên lĩnh vực kinh tế nói riêng và các
lĩnh vực khác nói chung, trong bối cảnh hội nhập là rất lớn. Vì vậy, Đại hội đã có
bước phát triển trong quan điểm của Đảng về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
đó là: bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, mở
rộng quan hệ quốc tế phải trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bình đẳng và cùng có
lợi, giữ gìn, phát huy bản sắc và những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và giữ vững
độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc trong quan hệ kinh tế với bên
ngoài.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) nhấn mạnh: “xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, kết hợp nội lực với ngoại lực thành
nguồn lực tổng hợp của đất nước”(4). Nội dung cụ thể của việc xây dựng nền kinh
tế độc lập, tự chủ lần đầu tiên được Đảng nêu ra: “trước hết là độc lập, tự chủ về
đường lối phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa...; bảo đảm nền kinh tế đủ
sức đứng vững và ứng phó được với các tình huống phức tạp, tạo điều kiện thực
hiện có hiệu quả các cam kết hội nhập quốc tế”(5) . Lần đầu tiên Đảng ta đã làm rõ
thuật ngữ nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hóa, khu vực hóa; quán
triệt yêu cầu mở rộng quan hệ với các nước nhưng không để nền kinh tế Việt Nam
bị lệ thuộc và bị sự chi phối của bên ngồi. Với tư tưởng đó, Đảng ta đã nâng lý
luận về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ lên một tầm cao mới, soi sáng cho việc
hoạch định và triển khai chính sách kinh tế trong thời kỳ mới.
Đại hội X (4-2006) trên cơ sở đường lối phát triển kinh tế đất nước đã được xác
định tại Đại hội IX: “đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đưa đất nước ta trở thành một nước công nghiệp... phát huy cao độ
nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh”(6). Đại hội X nhấn mạnh yêu cầu “đưa các quan hệ quốc tế đã được
thiết lập vào chiều sâu, ổn định bền vững”(7). Đây là sự bổ sung sửa đổi thể hiện

7



nhận thức sâu sắc của Đảng đối với vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong quá trình hội nhập quốc tế, coi đó là xu thế tất yếu của thời đại, để phát triển,
để có thể bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền thì càng phải tích cực và chủ động
hội nhập quốc tế, nội lực được tăng cường mới đảm bảo được độc lập, tự chủ về
kinh tế và thực hiện hội nhập quốc tế thành công.
Tại Đại hội XI (1-2011) nhận thức về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong
quá trình hội nhập quốc tế của Đảng đã nâng lên tầm cao mới. Chiến lược 2011 2020 nêu rõ: “phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời
tranh thủ ngoại lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ
ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh và bền vững
và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ” (8). Trong khi xây dựng nền kinh tế độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế không được phiến diện, cực đoan, duy ý chí. Việc
xây phải được thực hiện mềm dẻo, linh hoạt theo nguyên tắc: độc lập, tự chủ là nền
tảng, hội nhập quốc tế vừa bổ sung, vừa làm cho nội dung độc lập, tự chủ phát triển
lên một trình độ mới.
Nhận thức về xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội nhập quốc tế,
so với Đại hội XI, Đại hội XII (1-2016) đã bổ sung, làm rõ hơn nội hàm nội dung.
Văn kiện Đại hội XII chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền
kinh tế; đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức;
hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” (9).
Như vậy, trong thời gian tới, quá trình tái cơ cấu, gắn với đổi mới mơ hình tăng
trưởng ở Việt Nam cần tiến hành theo hướng kết hợp có hiệu quả phát triển chiều
rộng với chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở
ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng
nguồn nhân lực. Đồng thời, phát huy lợi thế so sánh và chủ động hội nhập quốc tế.

2.2. Thực trạng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ trong quá trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam
Trong gần 35 năm đổi mới, nhờ ra sức xây dựng nền kinh tế ĐLTC và chủ động

tích cực HNKTQT, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch
sử. Việt Nam đã được Liên hiệp quốc đưa ra khỏi nhóm nước kém phát triển, trở
thành nước có thu nhập trung bình. Việt Nam là một trong số ít nước chuyển đổi
thành cơng từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, sang cơ chế thị trường có sự

8


quản lý của Nhà nước mà vẫn giữ được sự ổn định chính trị – xã hội và ổn định
kinh tế vĩ mô.
Chúng ta đã tranh thủ được môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung phát triển kinh
tế – xã hội. Thị trường không ngừng được mở rộng, nguồn vốn tài trợ và đầu tư vào
nước ta không ngừng gia tăng. Nếu đầu thập niên 90 của thế kỷ XX, chúng ta mới
có quan hệ kinh tế – thương mại với gần 30 nước và vùng lãnh thổ, thì đến nay đã
có quan hệ kinh tế – thương mại với trên 220 nước và vùng lãnh thổ. Tổng kim
ngạch ngoại thương đã lớn hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm trong nước. Đã thu
hút được hơn 280 tỷ USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) với trên 13 nghìn
dự án được cấp phép và đã giải ngân trên 80 tỷ USD.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tiếp tục giữ đà phát triển với số vốn thực hiện cao
nhất trong nhiều năm trở lại đây, cụ thể: năm 2016 đạt 15,8 tỷ USD; năm 2017 đạt
17,5 tỷ USD; năm 2018 đạt 19,1 tỷ USD; năm 2019 đạt 20,4 tỷ USD. Trong số 81
quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư trực tiếp được cấp phép mới tại Việt Nam
trong năm 2019, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất với 3.668,8 triệu USD, chiếm
21,9% tổng vốn đăng ký cấp mới; đặc khu hành chính Hồng Kơng (Trung Quốc) đạt
2.811,9 triệu USD, chiếm 16,8%; Trung Quốc: 2.373,4 triệu USD, chiếm 14,2%;
Xinh-ga-po: 2.100,9 triệu USD, chiếm 12,5%; Nhật Bản: 1.820,7 triệu USD, chiếm
10,9%; Đài Loan: 860,6 triệu USD, chiếm 5,1%; Thái Lan: 562,3 triệu USD, chiếm
3,4%; Xa-moa: 543,1 triệu USD, chiếm 3,2%6.
Tính đến năm 2018, Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD nguồn vốn ODA, vốn vay ưu
đãi, trở thành một trong những nước tiếp nhận nguồn vốn này nhiều nhất trên thế

giới. Trong đó, 7 tỷ USD là viện trợ khơng hồn lại, trên 70 tỷ USD là vốn vay với
lãi suất dưới 2% và 1,62 tỷ USD vốn vay kém ưu đãi nhưng lãi suất vẫn thấp hơn
vốn vay thương mại7.
Hiện Việt Nam có 51 nhà tài trợ lớn, trong đó có 28 nhà tài trợ song phương và 23
nhà tài trợ đa phương. Kết quả này chứng tỏ đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế đã và đang đạt được thành công đáng ghi nhận.
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) và đang trong quá
trình đàm phán 6 FTA với những đối tác quan trọng hàng đầu của thương mại thế
giới gồm: TPP, Hàn Quốc và các nước trong liên minh thuế quan Nga – Be-la-rút –
Ca-dắc-xtan và Hiệp định đối tác kinh tế toàn diện khu vực… Trên phương diện đa

9


phương, các cam kết trong WTO gần như đã được thực hiện đầy đủ và đã có thể có
đánh giá tương đối toàn diện, chi tiết tác động của các cam kết gia nhập. Trên bình
diện khu vực, Việt Nam cũng hội nhập ngày càng sâu với ASEAN, hướng tới hình
thành Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015. Trong đó, Hiệp định Thương mại tự do
giữa Liên minh châu Âu và Việt Nam (EVFTA) đã được ký kết năm 2020 và được
Quốc hội Việt Nam phê chuẩn ngày 11/6/2020, là một hướng đi sáng cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
Cơ hội việc làm và thu nhập cho người lao động tăng lên rõ rệt sau khi Việt Nam
gia nhập WTO. Dự kiến trong giai đoạn 2011 – 2020, việc làm mới tạo ra tiếp tục
tăng bình quân 2,4 – 2,8%/năm (tương đương 1,1 – 1,3 triệu việc làm). Tỷ lệ thất
nghiệp sẽ giảm còn 4,78% vào năm 2015 và 4,23% vào năm 20208.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới suy thoái, tốc độ tăng trưởng GDP của nhiều
quốc gia suy giảm, nhưng nền kinh tế Việt Nam vẫn duy trì được tỷ lệ tăng trưởng
khá. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2019 tăng 7,02% 9. Sức mạnh về mọi
mặt được tăng cường, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ
XHCN được giữ vững, vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng

cao; tạo tiền đề để nước ta phát triển mạnh mẽ hơn trong giai đoạn mới. Sức mạnh
về mọi mặt của đất nước đã tạo tiền đề vật chất – tinh thần quyết định cho việc giữ
vững, bảo đảm độc lập, tự chủ của đất nước trên tất cả các lĩnh vực, đặc biệt trên
lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta vẫn còn một số hạn chế, tồn tại, đó là:
(1) Trong xây dựng chủ trương, đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch trung
và dài hạn để phát triển kinh tế, nhận thức về tính ĐLTC chưa nhất quán, chưa thực
sự phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện tồn cầu
hóa. Vẫn khá phổ biến trong nhận thức của cán bộ, công chức rằng, ĐLTC về kinh
tế là phải phát triển toàn diện các ngành, lĩnh vực kinh tế.
Một nền kinh tế ĐLTC theo cách hiểu thông thường và truyền thống là một nền
kinh tế phát triển tồn diện, có khả năng tự thỏa mãn những nhu cầu mọi mặt của
đời sống xã hội, của an ninh, quốc phịng và q trình tái sản xuất; khơng bị lệ thuộc
vào bên ngoài cả từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, để có thể vận hành một
cách bình thường và bảo đảm được nền tảng cho việc duy trì an ninh quốc gia. Một
nền kinh tế như vậy nhìn chung chỉ tồn tại trong điều kiện các quốc gia có đầy đủ

10


mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên, điều kiện địa lý, khí hậu lý tưởng, quy mơ thị
trường quốc gia đủ lớn, trình độ phát triển cao về khoa học – cơng nghệ và khơng
cần phải có quan hệ kinh tế với nhau mà vẫn có thể tự tồn tại, phát triển được.
(2) Sức cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm của Việt Nam mặc
dù đã được cải thiện nhưng vẫn còn yếu so với các nước, kể cả nhiều nước trong
khu vực. HNKTQT đã góp phần làm bộc lộ những yếu kém cơ bản của nền kinh tế,
nhất là cơ cấu kinh tế và chất lượng tăng trưởng vẫn chưa được cải thiện về căn
bản…
Nhìn chung, Việt Nam vẫn là nước nhập siêu “trường kỳ”, đặc biệt từ Trung Quốc,
Việt Nam vẫn chưa chủ động trong xuất khẩu khiến bị “thua” ngay cả ở những mặt

hàng có thế mạnh như gạo, cà phê. Trên thực tế, Việt Nam tăng trưởng nhanh
nhưng đẳng cấp chưa cải thiện. Năng suất, năng lực cạnh tranh chưa có sự cải thiện
rõ rệt, nguồn nhân lực vừa thừa (lao động chưa qua đào tạo, thiếu kỹ năng) vừa
thiếu (lao động chất lượng cao), chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển. Thực tế này
là một trở lực đối với mục tiêu độc lập, tự chủ về kinh tế.
(3) Bên cạnh đó, cũng đã xuất hiện các dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mơ: các khoản
nợ cơng, nợ của Chính phủ có xu hướng gia tăng, đe dọa trực tiếp an ninh tài chính
quốc gia; tỷ lệ lạm phát cao hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP, cơ cấu kinh tế dịch chuyển
chậm; hiệu quả đầu tư thấp; sức cạnh tranh của nền kinh tế khơng được cải thiện…
Những điểm đó cho thấy, nền kinh tế đã có bước phát triển nhanh, nhưng nội lực
nền kinh tế quốc gia vẫn còn yếu kém và dễ bị tổn thương trước những biến động
bất lợi từ bên ngoài. Một nền kinh tế tăng trưởng nhanh không phải luôn đồng nghĩa
với nền kinh tế mạnh, nhất là khi Việt Nam đang ở trong một thế giới hội nhập và
cạnh tranh khốc liệt.

2.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ
trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt Nam
Thứ nhất, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng thành cơng nền kinh
tế độc lập, tự chủ để chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
Đẩy mạnh tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển sang tăng trưởng chủ yếu theo chiều sâu
thông qua các bước đột phá để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Trước mắt, cần tập trung tháo gỡ các “nút thắt” trong phát triển kinh tế là cơ sở hạ
tầng lạc hậu, nguồn nhân lực chất lượng thấp và hệ thống thể chế kinh tế còn nhiều

11


bất cập. Việc giải quyết nút thắt về cơ sở hạ tầng cần một lượng vốn đầu tư lớn.
Việc giải quyết nguồn nhân lực và yếu kém về thể chế cần sự thay đổi tư duy và cải
cách đồng bộ, mạnh dạn và triệt để; lợi thế cạnh tranh đang thay đổi theo hướng ưu

thế thuộc về các yếu tố cơng nghệ và tri thức, vì vậy cần phải thay đổi cách nghĩ về
lao động giá rẻ là lợi thế. Đồng thời, mạnh dạn táo bạo trong việc phát triển các
ngành nghề mới cả trong công nghiệp và dịch vụ; trong chiến lược đầu tư phát triển
các ngành kinh tế cần có sự lựa chọn và ưu tiên vào các ngành có lợi thế và tiềm
năng.
Mở rộng và tìm kiếm thị trường mới, đa dạng hóa thị trường, tránh phụ thuộc vào
một thị trường, một đối tác, tạo nền tảng cho phát triển ổn định, bền vững. Đặc biệt,
cần phải quan tâm các chuyển dịch cơ cấu, nhất là khuynh hướng dịch vụ hóa của
nền kinh tế tồn cầu, với dịch vụ dựa trên công nghệ và tri thức cao, đã và đang tác
động mạnh đến các quốc gia. Để tận dụng được các cơ hội và hóa giải thành cơng
các thách thức trong q trình phát triển kinh tế thị trường và chủ động tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế. Việt Nam phải phát triển dịch vụ việc làm và dịch vụ hỗ trợ
phát triển công nghiệp và cần nhất là phải trở thành một mắt xích trong mạng sản
xuất và phân phối của các công ty xuyên quốc gia.
Con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được thực hiện với những bước đi
vững chắc, vừa tuần tự, vừa nhảy vọt, phát huy mạnh mẽ lợi thế của đất nước, gắn
với cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa từng bước, tiếp cận và ứng dụng kinh tế tri thức,
hiện đại hóa về kinh doanh; phát triển cơng nghệ thơng tin; phát huy nguồn lực trí
tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam thông qua phát triển giáo dục - đào
tạo; phát triển một số ngành công nghiệp then chốt, đặc biệt, cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn phải luôn được coi trọng.
Thứ hai, đẩy mạnh quan hệ kinh tế đối ngoại, đảm bảo độc lập, tự chủ về kinh tế
trong tình hình mới
Cần chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, trong đó hội nhập kinh tế quốc tế là trọng
tâm gắn với xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Đồng thời, tiếp tục nghiên cứu,
đàm phán, ký kết, chuẩn bị các điều kiện để thực hiện các FTA yêu cầu ở mức độ
cao hơn trong hội nhập kinh tế toàn cầu. Cần nghiên cứu sâu các chính sách “mở
cửa” và q trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế về thương mại hàng
hóa, thương mại dịch vụ và các cam kết mang tính thể chế trong từng hiệp định như


12


FTA/ASEAN. ASEAN +, WTO, CTTPP...) để tạo ra những cơ hội cho việc thu hút
đầu tư nước ngoài và hoạt động xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng tạo thêm việc
làm...; giành thế chủ động trong đàm phán song phương để giảm thiểu những rủi ro,
sức ép, tạo ra cơ hội thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam khi
hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế tồn cầu.
Rà sốt, bổ sung, hồn thiện luật pháp trực tiếp liên quan đến hội nhập kinh tế quốc
tế, phù hợp với Hiến pháp, tuân thủ đầy đủ, đúng đắn các quy luật của kinh tế thị
trường và các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế; Nội luật hoá theo lộ trình phù hợp
với những cam kết, quy định quốc tế mà Việt Nam là thành viên, trước hết là luật
pháp về thương mại, đầu tư, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ... bảo đảm
tranh thủ được thời cơ, thuận lợi, vượt qua các khó khăn, thách thức từ việc tham
gia và thực hiện các FTA thế hệ mới như EVFTA và IPA được Việt Nam ký với
Liên minh châu Âu ngày 30-6 vừa rồi.
Tăng cường nghiên cứu các vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế, làm cơ sở tham mưu
cho Ban chỉ đạo liên ngành và Chính phủ. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Ban
Chỉ đạo quốc gia về hội nhập quốc tế và các ban chỉ đạo liên ngành về hội nhập
kinh tế quốc tế, hội nhập quốc tế trong lĩnh vực chính trị - quốc phịng - an ninh, hội
nhập quốc tế trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, giáo dục, khoa học - công nghệ và các
lĩnh vực khác nhằm tạo sức mạnh tổng hợp của quốc gia trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Thí dụ như các chính sách kinh tế vĩ mơ, các chính sách đẩy mạnh hoạt
động xuất, nhập khẩu trong hội nhập...
Phát huy vị thế quốc tế để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo đảm cao nhất lợi ích quốc
gia khi triển khai các FTA thế hệ mới. Phát huy uy tín và vị thế quốc tế để tạo môi
trường thuận lợi cho phát triển, giữ vững độc lập, chủ quyền trong quá trình hội
nhập. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa ngoại giao nhà nước, đối ngoại Đảng và đối
ngoại nhân dân trong quá trình hội nhập để phát huy tốt vai trị và thế mạnh của
kênh đối ngoại...

Thứ ba, tăng cường khả năng độc lập, tự chủ của nền kinh tế, tạo vị thế cho Việt
Nam hội nhập quốc tế sâu rộng
Nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hội
nhập quốc tế của đất nước. Thực hiện vấn đề này, trước hết phải luôn duy trì nền
kinh tế ở mức độ tăng trưởng cao và bền vững; đồng thời, phải phát huy tối đa lợi

13


thế so sánh nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế. Theo đó, cần tận dụng triệt để
vị trí địa kinh tế của Việt Nam để mở rộng sự ảnh hưởng của nền kinh tế nước ta
trong khu vực và trên thế giới; phát huy lợi thế tài nguyên thiên nhiên để phát triển
ngành kinh tế mà các nền kinh tế khác khơng có. Tận dụng lợi thế về nguồn nhân
lực dồi dào, giá rẻ để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư và tăng cường xuất khẩu lao
động, tạo việc làm, tăng thu nhập, tham gia ngày càng sâu rộng vào phân công lao
động, hợp tác quốc tế. Đồng thời, chú trọng phát triển các sản phẩm truyền thống đã
và đang có ưu thế trên thị trường quốc tế, như: hàng mỹ nghệ, hàng dệt may, giày
da, thủy sản... Trong quan hệ với các doanh nghiệp nước ngồi, phải thực sự “biết
mình, biết người”, tránh đối đầu
trực tiếp với các đối thủ mạnh; đề cao đàm phán, thương lượng, biết chia sẻ cùng
đối tác, tăng cường sự hợp tác để giảm áp lực cạnh tranh. Trước sự chi phối thị
trường thế giới của các công ty xuyên quốc gia có thế lực, Việt Nam phải biết thâm
nhập vào thị trường “ngách”, hướng tới những đối thủ còn bỏ ngỏ; phải ln đổi
mới sản phẩm (cả khi nó đang hưng thịnh), nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi
phí sản xuất; đổi mới khoa học cơng nghệ, sử dụng hiệu quả nguồn lực, để tạo ưu
thế cạnh tranh của hàng hóa.

14



KẾT THÚC
Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là một thử thách lớn trong bối cảnh mở cửa,
hội nhập quốc tế, trong bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, thị trường thế giới là một thể
thống nhất, trong bối cảnh xuất hiện chủ nghĩa thực dân kinh tế thông qua xuất khẩu
tư bản thừa (tương đối), lại đứng trước cả yêu cầu quốc phòng gay gắt. Ðây là cuộc
phấn đấu gian nan, địi hỏi phải có ý thức chính trị đúng đắn, trình độ hiểu biết các
quy luật kinh tế sâu sắc để có những chính sách, biện pháp tổ chức quản lý và bước
đi khôn ngoan. Sau gần 30 năm, thực hiện ba chiến lược mười năm phát triển kinh
tế - xã hội, đã đến lúc nên nhìn lại thật nghiêm túc cơng cuộc cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ của nước nhà.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Nguyễn Tất Giáp: Mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2011, tr.72.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội,
1991, tr.60.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Sự thật, Hà
Nội, 1996, tr.67-68.
(4), (5), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.92, 166, 89.
(7) ĐCSVN, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2006, tr.102.
(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2011, tr.102.
(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2016, tr.95.

(10) Xem Tổng cục thống kê, Tình hình kinh tế - xã hội, www. gso.gov.vn.
(11) Xem Bộ Công thương: Báo cáo tận dụng cơ hội thúc đẩy xuất khẩu sang thị
trường các nước CPTPP, Hà Nội, 2019.
(12) Nguyễn Viết Thảo: “Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập
quốc tế”, Tạp chí Quốc phịng tồn dân, Số 5, 2010.
(13) Xem Viện kinh tế và chính trị thế giới, Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2010),
Quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh mới của
Việt Nam, Đề tài cấp Bộ năm 2010, Hà Nội.
(14) Lê Đăng Doanh, Tránh phụ thuộc một thị trường, Báo Người Lao động, 32017.
 

16



×