Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên và giữ gìn vệ sinh bản làng của cộng đồng dân tộc Thái ở Tây Bắc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (390.17 KB, 9 trang )

Hội thảo khoa học Quốc gia Quản lý tài nguyên, môi trường
và phát triển bền vững vùng Tây Bắc, Việt Nam

TRUYỀN THỐNG KHAI THÁC, SỬ DỤNG, BẢO VỆ TÀI NGUYÊN THIÊN NHIÊN,
ỨNG XỬ VỚI CÁC TAI BIẾN THIÊN NHIÊN VÀ GIỮ GÌN VỆ SINH BẢN LÀNG
CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN TỘC THÁI Ở TÂY BẮC 19
Phạm Văn Lợi
Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển
*
Email:
Tóm tắt: Tây Bắc là vùng đất của những dãy, đỉnh núi cao và cao ngun nằm về phía tây Sơng Hồng, gồm khu vực
phía Tây 2 tỉnh Yên Bái, Lào Cai; vùng núi cao phía Tây 2 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và tồn bộ 4 tỉnh Lai Châu, Điện
Biên, Sơn La, Hịa Bình.
Thái là một trong số ít dân tộc thiểu số ở Việt Nam có trên một triệu người, cư trú tập trung, lâu dài ở vùng Tây Bắc.
Bài viết tập trung đề cập tới truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ 3 nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ bản nhất,
gắn bó chặt chẽ, hữu cơ nhất với CĐDT Thái ở Tây Bắc nói riêng, ở Việt Nam nói chung (tài nguyên đất, tài nguyên
nước, tài nguyên rừng), truyền thống ứng xử của CĐDT Thái với các tai biến thiên nhiên (nhằm bảo vệ tính mạng con
người, làng bản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên) và giữ gìn vệ sinh làng bản (như một cách ứng xử nhằm bảo vệ các
nguồn tài nguyên thiên nhiên).
Từ khóa: Vùng Tây Bắc, cộng đồng dân tộc Thái, tài nguyên thiên nhiên, tai biến thiên nhiên, vệ sinh bản làng.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến hiện nay, ít nhất có 3 cách hiểu khác nhau về Tây Bắc. Theo các nhà địa lý học, liên quan đến điều
kiện địa lý tự nhiên, Tây Bắc là “miền đất của những núi cao và cao nguyên” nằm về phía Tây Sơng Hồng, gồm
khu vực phía Tây 2 tỉnh Yên Bái, Lào Cai và các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hịa Bình và vùng núi cao
phía Tây 2 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An [1]. Tiếp theo, liên quan đến Ban Chỉ đạo Tây Bắc, vùng Tây Bắc bao gồm
12 tỉnh và 21 huyện phía Tây của 2 tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An [2]. Quan niệm thứ 3, được sử dụng phổ biến trong
các cơng trình nghiên cứu về người Thái (hoặc liên quan đến người Thái), Tây Bắc thực ra là Tây Bắc Bắc Bộ,
vùng đất nằm về phía Tây Sơng Hồng, bao gồm phần phía Tây 2 tỉnh Yên Bái, Lào Cai (như trên) và địa bàn các
tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn La, Hịa Bình. Vì vậy, để tiện cho việc trình bày, phân tích các vấn đề có liên quan,
bài viết này sẽ sử dụng khái niệm “Tây Bắc” cho quan điểm đầu tiên, “Tây Bắc 12+2” (quan điểm 2) và “Tây Bắc


truyền thống” (quan điểm 3).
Dân tộc Thái là một trong số ít dân tộc thiểu số ở Việt Nam có trên một triệu người, cư trú tập trung, đông đảo,
lâu dài ở Tây Bắc. Trong khoảng trên dưới 1.000 năm cư trú tại đây, cộng đồng dân tộc (CĐDT) Thái đã tạo dựng
nên một nền văn hóa với nhiều di sản to lớn, độc đáo, rực rỡ, từ các di sản văn hóa vật thể, như nhà cửa, trang
phục, ẩm thực,… đến các di sản văn hóa phi vật thể, như phong tục, tập quán, lễ hội, âm nhạc, văn hóa dân gian,
tơn giáo tín ngưỡng,… trong đó có nhiều thành tố văn hóa, nhiều di sản văn hóa các CĐDT khác khơng có được,
bao gồm cả những tri thức tộc người/địa phương, truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ các nguồn tài nguyên
nhiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên và giữ gìn vệ sinh bản làng.
Theo kết quả Điều tra thực trạng kinh tế - xã hội 53 dân tộc thiểu số vào ngày 01/7/2015, CĐDT Thái ở
Việt Nam có 1.719.654 người, trong đó 1.644.110 người cư trú ở vùng Tây Bắc, chiếm 95,60 % tổng số dân cư
của dân tộc. Cũng theo kết quả cuộc điều tra này Thái là dân tộc thiểu số có số dân đông nhất trong vùng, vượt
trên số dân của tất cả các dân tộc thiểu số khác, như dân tộc Mường (1.024.926), Mông (813.277), Tày
(283.700), Nùng (47.076),... Đây là cơ sở cần thiết tạo cho CĐDT Thái một vai trò quan trọng trong quá trình
phát triển, phát triển bền vững vùng Tây Bắc và cả nước, trong thời điểm hiện tại và tương lai, trong đó có vấn
đề quản lý tài nguyên thiên nhiên và môi trường.
Tài nguyên thiên nhiên là một khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả những thứ có sẵn trong tự nhiên, mà con
người có thể (hoặc chưa thể) khai thác, sử dụng phục vụ các nhu cầu sống của mình. Tài nguyên thiên nhiên có thể
19

Bài viết có sử dụng kết quả của đề tài“Nghiên cứu đề xuất giải pháp phát huy vai trò của cộng đồng dân tộc Thái trong phát triển
bền vững vùng Tây Bắc (Đề tài KH&CN cấp Nhà nước, thuộc Chương trình Tây Bắc - Chương trình khoa học và công nghệ cấp nhà
nước phục vụ phát triển bền vững vùng Tây Bắc), những phần viết do tác giả bài viết này thực hiện.


614

Phạm Văn Lợi

được phân thành nhiều loại, theo nhiều tiêu chí khác nhau, như cách phân loại tài nguyên thiên nhiên thành tài
ngun có thể tái tạo, tài ngun khơng thể tái tạo, tài nguyên hữu hạn, tài nguyên vô hạn (trong đó có tài ngun

năng lượng vĩnh cửu/vơ hạn),... Phổ biến hơn, tài nguyên thiên nhiên được phân thành các bộ phận, thành tố như:
(1) Tài nguyên đất, (2) Tài nguyên rừng, (3) Tài nguyên nước (ngọt), (4) Tài ngun gió, (5) Tài ngun khơng
khí, (6) Tài ngun biển và (7) Tài nguyên khoáng sản.
Từ thực tế tồn tại và phát triển của CĐDT Thái và hầu hết các CĐDT trên đất nước ta, bài viết tập trung đề cập
tới truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ 3 nguồn tài nguyên thiên nhiên cơ bản nhất, gắn bó chặt chẽ, hữu cơ
nhất với CĐDT Thái ở Tây Bắc nói riêng, cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam nói chung. Đó là nguồn tài nguyên
đất, nguồn tài nguyên nước, nguồn tài nguyên rừng; truyền thống ứng xử của CĐDT Thái với các tai biến thiên
nhiên (nhằm bảo vệ tính mạng con người, làng bản, các nguồn tài nguyên thiên nhiên) và việc giữ gìn vệ sinh làng
bản (như một cách thức ứng xử nhằm bảo vệ các nguồn tài nguyên thiên nhiên).
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Như chú thích ở trang đầu đã khẳng định, bài viết có sử dụng kết quả của đề tài“Nghiên cứu đề xuất giải
pháp phát huy vai trò của cộng đồng dân tộc Thái trong phát triển bền vững vùng Tây Bắc (Đề tài KH&CN cấp
Nhà nước, thuộc Chương trình khoa học và cơng nghệ cấp Nhà nước phục vụ phát triển bền vững vùng Tây
Bắc (Chương trình Tây Bắc). Tuy nhiên, để trực tiếp hồn thành bài viết này, tơi đã sử dụng một phần tư liệu từ
các cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước. Tôi cũng đã sử dụng một số tư liệu thu được từ các
báo cáo, thống kê của các địa phương trong khu vực, từ tỉnh đến bản, mà tôi thu thập được trên sách, báo. Tuy
nhiên, là một nhà dân tộc học/nhân học, tôi vẫn sử dụng nhiều nhất nguồn tư liệu thực tế được thu thập tại thực
địa, bằng phương pháp điền dã Dân tộc học/Nhân học với các kỹ năng cơ bản như quan sát (tham dự, không
tham dự), phỏng vấn (phỏng vấn sâu, phỏng vấn hồi cố, phỏng vấn Bảng hỏi), chụp ảnh, quay video và thảo
luận nhóm,...
Có thể khẳng định, những tư liệu và nhận thức mà tôi thể hiện trong bài viết phần lớn là do tôi thu thập trong
qua quá trình nghiên cứu thực địa tại khu vực cư trú của người Thái ở Việt Nam, trong quá trình triển khai thực
hiện đề tài thuộc Chương trình Tây Bắc kể trên, từ năm 2016 - 2018, tại 8 bản/điểm thuộc 7 tỉnh Tây Bắc, nơi
người Thái cư trú tập trung và lâu dài nhất ở Việt Nam. Trước đó, tơi đã chủ trì 01 đề tài cấp tỉnh với tiêu đề
“Nghiên cứu những biến đổi điều kiện sống, đề xuất giải pháp phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội các cộng đồng
cư dân khu vực tái định cư thủy điện Sơn La, tỉnh Sơn La” (2013 -2014). Để hồn thành đề tài, tơi đã có điều kiện
đến nghiên cứu thực địa tại một số bản của người Thái và người Kháng trên địa bàn tỉnh Sơn La (TP Sơn La, các
huyện Mường La, Quỳnh Nhai, Mai Sơn, Mộc Châu). Trước đó, trong thời gian tơi cơng tác tại Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam (1995 - 2010), tôi cũng đã tiến hành một số chuyến nghiên cứu thực địa tại địa bàn cư trú của người
Thái ở Thanh Hóa và Nghệ An. Đặc biệt, năm 1984, tơi đã có chuyến đi đầu tiên đến vùng cư trú của người Thái,

Bản Mòn, xã Mường Sang, huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Trong khai thác, sử dụng và bảo vệ các nguồn tài nguyên
3.1.1. Với nguồn tài nguyên nước và đất ruộng nước
Trong vấn đề bảo vệ môi trường, cụ thể là việc khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên nước và đất
ruộng nước, CĐDT Thái có rất nhiều kinh nghiệm, tri thức cần được lưu truyền, phát huy, chia sẻ. Quan trọng
nhất, đáng ghi nhận nhất là những kinh nghiệm/cách nghĩ/cách làm của họ trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ
nguồn tài nguyên đất, rừng và nguồn tài nguyên nước phục vụ canh tác, sản xuất và cuộc sống, sinh hoạt của cộng
đồng. Người Thái đã và đang được thừa nhận là chủ nhân của các thung lũng chân núi vùng Tây Bắc. Họ đã sáng
tạo ra và duy trì cách thức khai thác, sử dụng và bảo vệ hiệu quả vùng đất và nguồn nước dành cho vùng đất này
trong hơn 1.000 năm qua, với việc đắp đập ngăn cho nước suối, nước sông dâng cao chảy vào các con mương đã
được tạo sẵn, đưa nước vào ruộng. Một số nơi, để hỗ trợ cho hệ thống mương, phai, lái, lịn, người Thái tạo dựng
những chiếc cọn đưa nước lên mương, vào ruộng, thay cho những con đập. Nước được chảy từ ruộng cao xuống
ruộng thấp rồi quay lại với sông, suối chỉ “được/bị” bổ sung thêm một số chất bẩn hữu cơ từ các loại phân hữu cơ
bón ruộng và bản thân các loại cây cỏ tự mọc hoặc được trồng trên ruộng bị ngâm lâu ngày trong nước phân hủy
ra. Các chất bẩn hưu cơ này sẽ lắng đọng dần và được cát, đá và các loại thủy sinh ở trong các dịng sơng, con suối
loại bỏ; Nước sẽ trong sạch trở lại trước khi tiếp tục phục vụ mục đích sinh hoạt, canh tác,… của những cộng đồng
cư dân ở vùng thấp hơn. Bản sắc trong việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước của người Thái đã được đề cập
trong nhiều cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học, như Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [3], Người Thái ở
miền Tây Nghệ An [4] và Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa [5],…


Truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên
và giữ gìn vệ sinh bản làng của cộng đồng dân tộc Thái ở Tây Bắc

615

Điều rất đáng ghi nhận là người Thái không chỉ quan tâm tới việc khai thác và sử dụng nguồn tài nguyên nước
mà họ còn dành sự quan tâm thích đáng đến việc giữ gìn, bảo vệ nguồn tài nguyên quý giá này. Luật tục cũng như
phong tục tập quán của người Thái ghi nhận nhiều điểm/nhiều quy định liên quan đến việc giữ gìn và bảo vệ

nguồn tài nguyên nước. Thứ nhất, luật tục Thái quy định trách nhiệm và các hình thức xử phạt đối với những
người làm ô nhiễm nguồn nước; những người vi phạm quy định cấm đánh bắt cá ở những “vũng cấm”; những
người vi phạm quy định cấm ăn cắp nước ở ruộng người khác, tháo máng nước,… Người Thái cũng có những quy
định cụ thể, chặt chẽ đối với việc tổ chức xây dựng, quản lý và khai thác, sử dụng nước từ những cơng trình thủy
lợi chung của bản [6].
Với nguồn tài nguyên đất, người Thái duy trì hoạt động canh tác lúa nước trên các cánh đồng một vụ/năm. Người
Thái cũng là chủ nhân của bộ công cụ làm đất (cày, bừa thủ công, sử dụng trâu làm sức kéo) được sử dụng phù hợp
với đất đai trong khu vực, đảm bảo cho đất tơi xốp. Tuy nhiên, người Thái cũng là cư dân đã từng duy trì và sử dụng
hình thức trâu quần trong một thời gian tương đối dài trong lịch sử[7, 8], một hình thức canh tác/làm đất ít tác động đến
kết cấu cơ học của đất, ít ảnh hưởng đến độ bền chắc của nền đất ở khu vực thung lũng chân núi. Đôi khi và đôi chỗ,
vụ lúa duy nhất trong năm của người Thái được kết hợp với hoạt động nuôi thả cá, đem lại một nguồn đạm thủy sinh
đáng kể phục vụ cho các bữa ăn hằng ngày của cư dân. Nhưng dù sao thì đất ruộng ở đây cũng chỉ được/bị người dân
khai thác trong một thời gian nhất định trong năm (khoảng 4 - 6 tháng, tùy vào từng giống lúa). Thời gian còn lại, đất
được để trong trạng thái hưu canh/nghỉ ngơi. Trong thời gian ấy trên mặt ruộng nhiều loại cây cỏ mọc lên, cộng với
toàn bộ phần thân cây lúa được bỏ lại sau khi thu hoạch và nguồn phù sa (đất mầu), mùn từ các khu rừng núi theo
sông, suối, qua hệ thống mương, phai dẫn vào ruộng và lượng phân trâu, bò, gà, vịt,… từ trong bản trơi theo dịng
nước mưa chảy vào ruộng [9, 10],… là nguồn/lượng chất mùn cần thiết bổ sung cho đất tiếp tục được khai thác trong
các vụ gieo cấy sau.
Với người Thái ở miền Tây 2 tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, tình hình khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài
nguyên nước và đất ruộng nước cũng gần tương tự như người Thái ở vùng Tây Bắc truyền thống. Họ cũng chủ
yếu sống dựa vào hoạt động canh tác ruông nước (kết hợp với canh tác nướng rẫy); là chủ nhân của hệ thống
“mương, phai, lái, lín” và những chiếc cọn dẫn nước vào ruộng [11].
3.1.2. Với nguồn tài nguyên rừng và đất rừng
Là chủ nhân của những thung lũng ruộng nước nổi tiếng ở Tây Bắc Việt Nam, nhưng trong quá khứ người
Thái vẫn khai thác đất rừng để phục vụ hoạt động canh tác nương rẫy. Hiện nay, theo định hướng của Đảng và
Nhà nước, hầu như tồn bộ diện tích nương rẫy của người Thái đã được trả lại thành rừng hoặc chuyển thành diện
tích trồng cây lâu năm. Cụ thể, người Thái ở Bản Đêu 1 (xã Nghĩa An, thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái) chuyển diện
tích nương rẫy thành nơi trồng cây lấy gỗ (với cây bạch đàn là chính); người Thái ở bản Pa Nặm Cúm (xã Ma Ly
Pho, huyện Phong Thổ, tỉnh Lai Châu) sử dụng đất nương rẫy để trồng chuối (cùng một ít cao su, cây sưa và ngô);
người Thái ở Mường Chanh (huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La) dành diện tích nương rẫy để trồng cà phê; người Thái ở

Bản Bơn (xã Mường Min, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa) trồng các cây họ tre, nứa (như nứa, vầu, luồng),…
Đặc biệt, người Thái ở Bản Lác (xã Chiềng Châu, huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình) từ lâu đã khơng sử dụng diện
tích đất nương rẫy, giao cho kiểm lâm quản lý, để cho rừng cây mọc lại (trở thành rừng tự nhiên). Người Thái ở
bản Cắm (xã Tri Lễ, huyện Quế Phong, tỉnh Nghệ An) cũng để diện tích nương rẫy cho rừng cây mọc lại, nhưng
các gia đình vẫn giữ nguyên quyền quản lý, khai thác, sử dụng các sản phẩm trên diện tích nương rẫy này.
Bên cạnh đó, vẫn cịn một vài nơi, người Thái vẫn đang duy trì hoạt động canh tác nương rẫy trồng lúa và các
loại cây hoa mầu, rau xanh và cây gia vị, như người Thái ở bản Ang (xã Xá Lượng, huyện Tương Dương, tỉnh
Nghệ An) và người Thái ở bản Suối Lư 3 (xã Keo Lơm, huyện Điện Biên Đơng, tỉnh Điện Biên). Vì vậy, vẫn cần
khẳng định bản sắc, tri thức, kinh nghiệm của người Thái trong việc khai thác, sử dụng và bảo vệ đất rừng và rừng
phục vụ hoạt động canh tác nương truyền thống. Ngay ở những nơi vẫn duy trì hoạt động canh tác nương trồng
lúa, ngô, sắn,… phục vụ cuộc sống hàng ngày, những cây trồng lâu năm (đặc biệt là các loại cây lấy quả, lấy gỗ)
đã xuất hiện trên nương của họ và xu hướng kết hợp giữa cây lương thực/thực phẩm hàng năm và cây lâu năm
cũng là một nét mới trong bản sắc của CĐDT Thái trong khai thác, sử dụng và bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và
đất rừng. Đặc biệt, ở những bản của người Thái đã chuyển đổi cây trồng trên diện tích nương rẫy, dù mới được
thực hiện trong thời gian gần đây, nhưng cũng rất đáng ghi nhận, như những bản sắc mới được hình thành trong
việc khai thác, sử dụng và bảo vệ rừng và đất rừng.
Có thể nói, với những nơi/bản, người Thái vẫn duy trì hoạt động canh tác nương rẫy trồng các loại cây lương
thực (lúa, ngô, sắn,…) và cây thực phẩm (cây rau xanh, cây gia vị,…), bản sắc của họ trong mối giao lưu đa văn
hóa với các dân tộc khác ở Tây Bắc về môi trường (ở đây là việc bảo vệ tài nguyên đất rừng) vẫn cần khẳng định


616

Phạm Văn Lợi

là kỹ thuật xen canh (trồng nhiều loại cây trên một mảnh đất, trong nhiều thời điểm khác nhau để tạo thảm thực
vật xanh quanh năm giúp chống xói mịn cho đất), ln canh hay ln khoảnh (canh tác trên một mảnh nương rẫy
trong thời gian một vài năm rồi bỏ hoang cho rừng cây mọc lại, trước khi quay trở lại canh tác lần sau); vẫn là việc
sử dụng dụng cụ chọc lỗ (gậy chọc lỗ, thuổng chọc lỗ,...) tra hạt ở những đám nương rẫy trên đất dốc nhằm hạn
chế đến mức thấp nhất sự tác động đến lớp đất mặt, chống xói mịn đất; vẫn là việc tạo ra những hành lang sạch

(khơng có cây, que) để tránh ngọn lửa đốt rẫy cháy lan sang các cánh rừng bên canh,... Đây là những kỹ thuật/bản
sắc trong canh tác nương rẫy hầu như chung cho tất cả các dân tộc có truyền thống canh tác nương rẫy ở Việt
Nam, trong đó có CĐDT Thái. Rất có thể, những kỹ thuật, công cụ này đã được người Thái học hỏi, tiếp thu, trao
đổi và nâng cấp dần trong mối quan hệ với các dân tộc nhóm Mơn-Khơ me có truyền thống canh tác nương rẫy,
cư trú cạnh họ, như Khơ Mú, Xinh Mun, Mảng, Kháng,... Điều này đã phần nào được thể hiện trong các cơng
trình nghiên cứu như Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam [12], Người Thái ở miền Tây Nghệ An[13] và Tri thức dân
gian của người Thái ở Thanh Hóa [14],...
Tuy nhiên, CĐDT Thái cịn có những kỹ thuật, phương thức của riêng mình, được đúc kết, trao truyền qua
thực tế canh tác nương rẫy của chính họ trong thời gian dài từ hàng trăm năm đến hàng ngàn năm cư trú trong khu
vực. Cụ thể là để bảo vệ đất, rừng trong hoạt động canh tác nương rẫy, người Thái ở Tây Bắc (truyền thống) và
miền Tây Thanh Hóa, Nghệ An đã tạo cho mình những nét/bản sắc riêng biệt, khơng lẫn vào đâu được. Đó là cách
tạo bờ cản chống xói mòn (bằng cách gom các phần thân, cành cây,... chưa cháy hết đặt chắn ngang phía trên
nương, ngăn dịng chảy của nước); là việc đào rãnh chống xói mịn (tạo ra các rãnh thoát nước mưa từ trên đỉnh
rẫy chảy theo hai bên sườn rẫy, ngăn không cho nước mưa chảy tràn trên mặt rẫy gây xói mịn đất và ảnh hưởng
xấu tới cây trồng) và trồng cây, rào nương, xếp đá chống xói mịn (khi phát rẫy họ có thể để lại những thân cây ở
những vị trí cần thiết đề tạo ra hàng rào tự nhiên sau đó được gia cố thêm bằng các thân cây, cành cây khơng cháy
hết hoặc đá (nếu trên mặt nương rẫy có lẫn đá). Những biện pháp này góp phần chống xói mịn (đặc biệt là xói
mịn lớp đất mầu trên bề mặt), bảo vệ nương rẫy nói riêng và bảo vệ đất rừng nói chung [15].
3.2. Trong ứng xử với tai biến thiên nhiên và giữ gìn vệ sinh bản làng
3.2.1. Trong ứng xử với tai biến thiên nhiên
Về bản sắc của người Thái ở Việt Nam nói chung, người Thái ở Tây Bắc nói riêng, trong việc ứng phó với các tai
biến thiên nhiên, có thể và cần phải đề cập đến truyền thống chống chọi với các trận lũ lụt và sạt lở đất. Vùng cư trú
của người Thái là nơi tập trung các con suối nhỏ chảy từ các khe núi hợp thành suối lớn, sông nhỏ rồi đổ vào sông
lớn. Mạng lưới sông suối ở đây khá dày đặc. Những khe suối chảy tập trung vào 4 hệ thống sông lớn/ là Sông Hồng,
Sông Đà, sông Mã và sông Nặm U (Lào). Các sông suối ở đây thường có độ dốc rất lớn, nước chảy xiết, độ dội mạnh
và sức nước xói lịng cũng rất lớn nên lịng sơng, lịng suối thường hẹp và sâu. Sơng, suối nơi đây thường chảy trong
các khe sâu, vực thẳm. Về mùa mưa, nước sông chảy rất dữ dội. Người Thái có những câu chuyện cổ tích ví sơng
suối như những “con thú thuộc loại rắn khổng lồ” vùng dậy để cướp cuộc sống của con người. Con rắn khổng lồ đó
khi đã làm hại thì con người thường rất khó chống lại. Lịch sử định cư của người Thái ở Tây Bắc đã chứng kiến
nhiêu lần cảnh tượng nước lũ xóa sạch cả một vùng cư dân và đồng ruộng. Quắm tố mướng đã ghi lại sự kiện “…

Năm 1927, ở Mường Chai và vùng tả ngạn Sông Đà thuộc Sơn La bị lụt lớn. Bốn mươi chín người Thái, sáu người
Mèo (người Mông), 4 người Xá (Khơ Mú) bị chết trôi. Ruộng mất đến 286 mẫu…” [16].
Trải qua nhiều thế hệ làm bạn với “những con thú dữ (sông suối)” này, người Thái đã nắm được đặc tính, đặc
điểm của nó. Vì vậy, họ khơng dựng nhà ở miệng khe, vực. Họ giải thích đó là đường đi của các loại ma. Tuy
nhiên, kinh nghiệm cho thấy miệng khe, vực là nơi tập trung gió xốy, gió lạnh và đặc biệt hơn, đó chính là miệng
của những dịng nước lũ đột ngột. Tục ngữ Thái có câu “… khe vực cạn có lúc làm trơi cả trâu (huổi hong cạng mí
tưa lay quái)”. Rất ít khi người Thái dựng bản ở giữa đồng hoặc nơi quá trũng (trừ ở vùng lịng chảo rộng mênh
mơng). Thứ nhất, dựng bản làm nhà ở đó sẽ chiếm mất diện tích ruộng lúa và thứ 2, sẽ khơng tránh được cơn lốc
xốy và luôn là nơi hứng lấy nạn ngập lụt, lũ cuốn [17].
Truyền thống chọn địa điểm lập bản, làm nhà dựa lưng vào núi, quay mặt ra cánh đồng với các dịng sơng, con
suối chảy ở giữa là một lựa chọn phù hợp. Có nghĩa là làng và nhà của họ thường được làm, được dựng xa các
dòng nước lớn, tránh được những tác động xấu của dòng nước vào mùa mưa, lũ, khi nước dâng cao, đột ngột và
chảy xiết. Khơng chỉ tránh ở gần sơng, suối, người Thái cịn tìm những chỗ đất tương đối bằng phẳng để dựng
nhà, tránh không phải tác động nhiều vào mặt đất, sườn núi, khi tạo dựng nền nhà. Họ cũng sử dụng hệ thống chân
cột nhà sàn cao thấp khác nhau để giải quyết sự không bằng phẳng của nền nhà, tương tự như cách làm của người
Khơ Mú và các tộc người Mơn - Khơ me khác, những tộc người có truyền thống ở nhà sàn, nhưng lại hoàn toàn
khác biệt với người Mơng và người Dao (trừ nhóm Dao họ), những dân tộc vốn quen làm và sống trong các ngôi
nhà trệt/nhà đất. Cách làm của họ phù hợp với cuộc sống ở nơi chân núi, tránh tình trạng sạt lở núi vào mùa mưa


Truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên
và giữ gìn vệ sinh bản làng của cộng đồng dân tộc Thái ở Tây Bắc

617

lũ, gây nguy hiểm cho cuộc sống của họ và các dân tộc khác sinh sống ở khu vực cao hơn. Cụ thể, trong cuốn Quy
trình dựng nhà sàn cổ của người Thái đen ở Mường Thanh (tỉnh Điện Biên) cho thấy: có 6 vị trí/ chỗ đất không
được người Thái lựa chọn dựng nhà. Vị trí thứ nhất và thứ hai liên quan đến thế đất: “1. Bón tót đìn sút - Đó là
những nơi đất đã hết dải bằng hoặc dải dốc liên tiếp… Xét theo tính khoa học thì đó là chỗ đất dễ bị lở, chất đất
khô và không giữ nước…” và “2. Đìn pak huổi - Đất ở nơi cửa suối, cửa khe. Là nơi đất ở sát cửa suối, cửa khe,

hay bị ngập khi có mưa lũ… Xét theo khoa học đó là nơi nguy hiểm dễ bị nước lũ cuốn,…” [18]. Bốn thế đất cịn
lại, khơng được người dân lựa chọn để dựng nhà, chủ yếu liên quan đến các vấn đề tâm linh, như đất bãi tha ma
cũ, đất ở thung lũng ma tà, nơi đất từng bị sét đánh và nơi đã từng bắc bếp nấu cơm phục vụ tang ma [19].
Ngay cả việc khai thác các vùng đất thấp ở thung lũng chân núi để làm ruộng nước của người Thái cũng cho
thấy những dấu hiệu/bản sắc trong việc ứng xử với điều kiện tự nhiên nơi cư trú. Với khu vực trung tâm của các
cánh đồng/thung lũng lớn, như Mường Thanh, Mường Lò, Mường Than, Mường Tấc,… người Thái có thể tạo
dựng những thửa ruộng/cánh đồng bằng phẳng, rộng rãi, ít thấy sự chênh lệch về độ cao giữa các thửa ruộng. Tuy
nhiên, với các thung thũng/cánh đồng nhỏ và khu vực ven thung lũng/cánh đồng (cả 4 thung lũng/cánh đồng lớn
kể trên), do địa hình khơng bằng phẳng, để tạo được các thửa ruộng cấy trồng lúa nước, người Thái đã lựa chọn
hình thức tạo dựng các thửa ruộng có độ cao thấp khác nhau, tương tự hình thức ruộng nước của người dân bản
Cắm đã được đề cập ở trên, nhưng độ cao chênh lệch chưa lớn đến mức gọi là ruộng bậc thang. Việc làm này cũng
thể hiện cách ứng xử của phù hợp của CĐDT Thái với địa bàn thung lũng chân núi mà họ cư trú. Nó vừa tiết kiệm
thời gian, công sức của họ dành vào việc khai hoang tạo ruộng, vừa đảm bảo độ bền vững của nền đất, tránh tạo ra
những tác động/ảnh hưởng xấu tới các sườn núi ở xung quanh thung lũng/cánh đồng nơi họ sinh sống, đảm bảo
cho sự tồn tại và phát triển bền vững của môi trường sống, môi trường tự nhiên trong khu vực.
3.2.2. Trong giữ gìn vệ sinh bản làng
Về vấn đề vệ sinh bản làng, với CĐDT Thái ở Tây Bắc, hiện đã có rất nhiều thay đổi so với trước. Vào thời
điểm hiện tại, truyền thống nuôi nhốt trâu, bò, gà, vịt,… ở gầm sàn nhà vào ban đêm về cơ bản đã được loại bỏ ở
tất cả các bản làng của người Thái vùng Tây Bắc. Đường làng, ngõ xóm hầu hết đã được bê tơng hóa, được phân
công quét dọn thường xuyên hoặc quét dọn vào các ngày cuối tuần. Ngôi nhà sản của các gia đình người Thái hầu
hết đã được nâng cao (cả gầm sàn và phần trên gầm sàn). Gầm sàn nhà luôn được dọn dẹp sạch sẽ, được san
phẳng, đổ bê tông làm nơi đặt để công cụ lao động, sản xuất của gia đình. Thậm chí, nhiều ngơi nhà, gầm sàn còn
được đổ xi măng hoặc lát gạch hoa, là nơi đặt, để bộ bàn ghế/salon uống nước/tiếp khách,...
Có thể khẳng định Bản Lác là bản tiêu biểu nhất trong việc giữ gìn vệ sinh bản làng của người Thái ở Tây Bắc
hiện nay. Điều này chắc chắn có tác động từ hoạt động du lịch và khách du lịch. Người Thái Bản Lác từ vài chục
năm trước, khi bắt đầu làm du lịch, đã xây dựng được quy ước du lịch cộng đồng, trong đó nhấn mạnh trách
nhiệm đảm bảo vệ sinh đường làng, ngõ xóm và nhà cửa của cư dân. Ơng Hà Cơng Kho, một người Thái trong
bản, cho biết người dân trong bản luôn quét dọn đường làng, xóm ngõ, vệ sinh nhà cửa vào các buổi chiều tối.
Chính vì vậy, đường làng, ngõ xóm ở bản Lác rất sạch sẽ, kể cả trong những tháng/ngày cao điểm về du lịch (từ
tháng 09 đến tháng 12 hàng năm, đặc biệt là những ngày cuối tuần). Những thời điểm đó, bản tiếp đón lượng

khách du lịch đơng nhất, nhưng đường làng, ngõ xóm ở đây vẫn sạch sẽ, nhà cửa vẫn gọn gàng, ngăn nắp. Đặc
biệt, những gia đình duy trì và phát triển hoạt động chăn ni trâu, bò, lợn, gà,… đã được tập trung ra trang trại,
cách xa khu cư trú, nên môi trường bản làng luôn giữ được sự trong sạch cần thiết. Thêm nữa, mơi trường xã hội ở
đây cũng tuyệt đối an tồn. Trong mấy chục năm phát triển du lịch, đón tiếp số lượng lớn du khách trong và ngoài
nước, nhưng ở đây chưa hề xảy ra vụ việc nào ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và an toàn cho khách du lịch. Buổi
tối, tất cả các quầy bán hàng và các hộ gia đình kinh doanh du lịch/homestay trong bản đều khơng phải đóng cửa,
khóa cửa. Nạn trộm cắp tài sản của cư dân và đồ dùng của du khách chưa từng xảy ra. Điều này khẳng định ý thức và
nhận thức rất cao của người Thái Bản Lác trong việc xây dựng và bảo vệ môi trường bản làng trong sạch, an toàn.
4. THẢO LUẬN
4.1. Đẩy nhanh, hoàn thiện một cách tốt nhất quá trình chuyển đổi phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ
nguồn tài nguyên rừng và đất rừng trong hoạt động canh tác nương của CĐDT Thái
Đầu tiên cần phải khẳng định đây là giải pháp ra đời từ sự quan sát, tổng hợp, phân tích thực tiễn cuộc sống,
trong quá khứ và hiện tại. Quá trình chuyển đổi này đã và đang được thực hiện ở một số nơi trong khu vực cư trú
của CĐDT Thái vùng Tây Bắc. Quá trình chuyển đổi này đã và đang mang lại những dấu hiệu tích cực cho môi
trường ở các khu vực đất dốc vùng Tây Bắc: Nhiều diện tích nương của các CĐDT thiểu số, trong đó có CĐDT
Thái, đã được chuyển đổi từ trồng cây nông nghiệp, cây hằng năm sang trồng cây công nghiệp, cây lâu năm, trở


618

Phạm Văn Lợi

thành các cánh rừng trồng. Thậm chí, một số diện tích nương đã được để cho cây rừng (tự nhiên) mọc lại, đóng
góp vào xu hướng diện tích rừng và độ che phủ của rừng tăng nhẹ trong những năm gần đây. Hiệu quả với môi
trường của giải pháp này là khá rõ trong việc duy trì và phục hồi diện tích và độ che phủ của rừng, thực hiện các
chính sách bảo vệ và phát triển rừng của Nhà nước. Tuy nhiên, cho đến nay, việc chuyển đổi cách thức khai thác,
sử dụng, bảo vệ rừng và đất rừng trên diện tích nương của người Thái nói riêng, các CĐDT thiểu số ở Tây Bắc nói
chung, cịn gặp nhiều khó khăn, cản trở. Đầu tiên là vấn đề chuyển đổi nghề nghiệp, đảm bảo thu nhập cho cư dân
trong thời gian cây lâu năm chưa cho thu hoạch. 7/8 bản/điểm bản được đề cập ở trên đã thực hiện vấn đề này ở
các mức độ khác nhau, do điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ít/nhiều thuận lợi, phù hợp. Duy chỉ có bản Suối Lư

3 chưa thực hiện được, do gặp nhiều khó khăn, trở ngại, như: cư trú xa trung tâm, hầu như khơng có ruộng nước,
diện tích nương ít,...; Thứ hai là việc lựa chọn loại cây trồng phù hợp thay thế cho cây lúa nương. Một số
điểm/bản đã lựa chọn được loại cây phù hợp, có hiệu quả kinh tế cao thay thế, như: cây chuối ở Pa Nặm Cúm; cây
cà phê ở Noong Ten; cây nứa, vầu, luồng ở Bản Bơn,... Trong khi đó, có bản người dân vẫn đang loay hoay với
bài toán lựa chọn cây trồng thay thế, như Bản Ang. Thậm chí, một số điểm/bản người dân ít quan tâm đến việc
trồng cây gì trên nương thay thế cây lúa (do họ cư trú gần trung tâm, có nhiều cơ hội tiếp cận các hoạt động kinh
tế mới, có diện tích ruộng nước đủ lớn và diện tích nương khơng đáng kể, xa nơi cư trú - Bản Đêu 1). Đặc biệt, có
2 điểm/bản đã trả quyền lựa chọn cây trồng trên nương cho tự nhiên quyết định (Bản Lác và Bản Cắm). Tuy
nhiên, điều quan trọng nhất cần đề cập ở đây là hầu hết việc lựa chọn cây trồng của cư dân đều mang tính tự phát,
khơng có sự định hướng, hỗ trợ của chính quyền địa phương và các cơ quan chức năng. Giải pháp này cần tập
trung giải quyết 2 vấn đề vừa được đề cập.
4.2. Duy trì phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên nước và đất ruộng nước, trong hoạt
động canh tác ruộng nước truyền thống
Với giải pháp này, người viết hướng tới việc duy trì phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên
nước và đất ruộng nước, trong hoạt động canh tác lúa nước truyền thống của CĐDT Thái vùng Tây Bắc, nhằm bảo
vệ mơi trường sống cho chính họ và các CĐDT khác, trong và ngoài khu vực. Cụ thể, phương thức khai thác, sử
dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên nước và đất ruộng nước cần duy trì là: Canh tác một vụ lúa, một vụ cá hoặc 2 vụ
lúa/năm với các giống lúa không quá ngắn ngày; Sử dụng các loại phân chuồng, phân xanh, cách thức ứng xử với
sâu, bệnh và cỏ theo phương pháp truyền thống; Hạn chế sử dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ. Rõ
ràng phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên nước và đất ruộng nước của CĐDT Thái đã được
duy trì hơn 1.000 năm, đảm bảo tính bền vững cả về kinh tế và môi trường, cần phải duy trì và phát huy. Tất
nhiên, phương thức này chỉ phù hợp với điều kiện mật độ cư dân ở mức thấp (trong xã hội truyền thống), còn hiện
tại mật độ cư dân trong khu vực đã tăng lên đáng kể. Tuy nhiên, chúng ta vẫn thấy diện tích canh tác ruộng nước
của người Thái vùng Tây Bắc và cả nước đang bị thu hẹp do cả những nguyên nhân khách quan (chỉ có thể hạn
chế) và chủ quan (có thể thay đổi), như xây dựng các nhà máy thủy điện, xây mới hoặc mở rộng các đô thị, trung
tâm dân cư,... Thậm chí, ở đồng bằng Bắc Bộ đã bắt đầu xuất hiện tình trạng ruộng bị bỏ hoang do hiệu quả kinh
tế thấp. Trong khi đó, việc tăng vụ tất yếu dẫn tới sự phụ thuộc vào giống mới, phân hóa học, thuốc trừ sâu, thuốc
diết cỏ, những tác nhân tác động rất lớn, rất xấu đến môi trường sống của cư dân, làm giảm chất lượng của cả 3
nguồn tài nguyên chính, liên quan trực tiếp đến đời sống của cư dân (đất, nước, khơng khí), ảnh hưởng xấu đến an
toàn thực phẩm, vấn đề đang gây nhức nhối các CĐDT trên cả nước, trong thời điểm hiện nay. Theo thống kê, mỗi

năm Việt Nam nhập khẩu khoảng 70.000 - 116.000 tấn thành phẩm hóa chất bảo vệ thực vật; Bình qn tổng
lượng phân bón vơ cơ các loại được sử dụng trong một năm vào khoảng 2,4 triệu tấn, trong đó riêng bao bì, vỏ
hộp đã là 240 tấn, hầu hết không được thu gom, xử lý mà vứt bừa bãi trên cánh đồng. Điều này không chỉ làm cho
“đất đai bị chai cứng, giữ nước kém và độ mầu mỡ của đất giảm” mà còn “gây ơ nhiễm nguồn nước, khơng khí,
ảnh hưởng tiêu cực đến hệ sinh thái và là nguy cơ đe dọa sức khỏe của cộng đồng” [20]. Riêng tỉnh Sơn La, trong
năm 2016, lượng thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng đã “vọt lên ở mức 287.247 kg (lít), trong đó có một lượng
lớn hóa chất trừ cỏ cực độc” [21], không chỉ ảnh hưởng xấu tới môi trường sống của người dân Sơn La mà còn
ảnh hưởng xấu tới môi trường sống của người dân một số tỉnh lân cận và người Việt/Kinh ở đồng bằng Bắc Bộ. Vì
vậy, việc đề xuất giải pháp này là cần thiết, góp phần phát triển bền vững vùng Tây Bắc và cả nước.
4.3. Duy trì phương thức lựa chọn nơi lập làng, dựng nhà truyền thống; tránh đào, cắt, xẻ sâu vào chân đồi,
chân núi khi tạo dựng nền nhà; tránh dựng nhà trên bờ sông, bờ suối, đặc biệt là vị trí ngã ba sơng, suối,...
CĐDT Thái đã cư trú ở vùng thung lũng chân núi Tây Bắc trên, dưới 1.000 năm. Điều đó cho thấy họ là
CĐDT có phương thức ứng xử phù hợp với điều kiện tự nhiên của khu vực để tồn tại bền vững cùng môi trường,
trong thời gian. Một trong số đó là cách họ ứng xử với các tai biến thiên nhiên, phổ biến nhất là ứng xử với lũ (lũ
ống, lũ quét) và sạt lở (đất, đá, núi). Để có thể cư trú yên ổn trong vùng thung lũng chân núi, vùng đất thấp, xung
quanh là những dãy núi cao, lũ lụt và sạt lở đất là nguy cơ thường trực, người Thái đã buộc phải đưa ra những lựa


Truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên
và giữ gìn vệ sinh bản làng của cộng đồng dân tộc Thái ở Tây Bắc

619

chọn an tồn, khơn ngoan: Khơng dựng nhà, lập làng ở gần sông, suối (đặc biệt là những mảnh đất gần cửa sông,
suối); Lựa chọn lập làng, dựng nhà ở gần chân núi, dựa lưng vào chân núi, hạn chế tác động tới chân núi. Tuy
nhiên, vào thời điểm hiện tại, khi số dân sinh sống trong khu vực ngày một tăng, cả tăng tự nhiên và tăng cơ học,
do nhiều nguyên nhân, trong đó có cả những tác động của quá trình đổi mới và hội nhập,... cách thức ứng xử phù
hợp với môi trường tự nhiên vùng thung lung chân núi, nhằm hạn chế các tai biến thiên nhiên (cụ thể là lũ, lụt và
sạt lở đất) kể trên hầu như đã khơng cịn được thực hiện. Một mặt do đất chật, người đông; Mặt khác, do học tập
từ người Việt/Kinh, một dân tộc vốn không quen với khu vực thung lũng chân núi; Do ỷ vào sự bền chắc của các

vật liệu công nghiệp mới (sắt, thép, bê tông,...) mà các bản của người Thái vùng Tây Bắc xuất hiện ngày càng
nhiều các ngôi nhà dựng ngay trên bờ sông, bờ suối và những ngơi nhà được tạo dựng nền móng bằng cách đào,
cắt, xẻ sâu vào chân đồi, chân núi,...
Gần đây, số lượng, tần suất và mức độ tàn phá của các trận lũ (lũ ống, lũ quét) và sạt lở đất, núi ở Việt Nam
ngày một tăng nhanh, đặc biệt là khu vực Tây Bắc (cả Tây Bắc truyền thống và miền Tây Thanh - Nghệ). Có
nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này (như xu hướng biến đổi khí hậu tồn cầu, diện tích và chất lượng rừng
ngày càng suy giảm,...), nhưng trong đó có ngun nhân đến từ tình trạng ứng xử không tốt/không đúng với điều
kiện tự nhiên nơi cư trú. Vì vậy, để góp phần hạn chế tình trạng lũ ống, lũ quét và sạt lở (đất, đá, núi), hạn chế
những thiệt hại về tài sản và tính mạng của cư dân (CĐDT Thái và các CĐDT khác trong và ngồi khu vực) cần
duy trì cách ứng xử truyền thống với môi trường, cụ thể là duy trì cách ứng xử truyền thống trong việc chọn đất
lập làng, dựng nhà và cách tạo lập nền nhà.
4.4. Triển khai việc thu gom, xử lý rác thải ở các bản của người Thái, đặc biệt là các bản phát triển hoạt
động du lịch và chăn nuôi gia súc, gia cầm
Như đã đề cập, do số lượng cư dân tăng; do các hoạt động kinh tế phát triển, đặc biệt là du lịch và chăn nuôi
gia súc, gia cầm, môi trường bản làng của CĐDT Thái ở khu vực Tây Bắc truyền thống và miền Tây Thanh Nghệ đều đã xuất hiện tình trạng ơ nhiễm, cả ơ nhiễm rác thải sinh hoạt và rác thải chăn nuôi; Cả ô nhiễm môi
trường nước, môi trường đất và môi trường không khí (mùi và tiếng ồn). Trước tình hình đó, CĐDT Thái Tây Bắc
đã có nhiều giải pháp nhằm hạn chế tình trạng ơ nhiễm mơi trường, như tăng cường vệ sinh nhà cửa, bản làng, bê
tơng hóa hệ thống đường làng, ngõ xóm, đường giao thơng nội đồng, hồn thiện hệ thống thốt nước thải; Xây
dựng chuồng trại chăn ni, hố xí tự hoại và bán tự hoại,... Đặc biệt, người Thái Bản Lác đã thống nhất đưa
chuồng trại chăn ni gia súc, gia cầm ra ngồi khu cư trú, góp phần tích cực vào việc giữ gìn vệ sinh bản làng,
đặc biệt là trong những dịp cuối tuần, những ngày lễ tết, khi khách du lịch đến đông. Tuy nhiên, những giải pháp
đó chưa mang tính tồn diện, tổng thể, có thể giải quyết được ơ nhiễm mơi trường trong bản của mình, nhưng lại
là ngun nhân gây ơ nhiễm môi trường ở các bản xung quanh, các bản ở dưới thấp, phía cuối dịng chảy. Vì vậy,
để giải quyết vấn đề ô nhiễm môi trường bản làng vùng Tây Bắc, phát triển bền vững về môi trường trong khu
vực, cần triển khai việc thu gom và xử lý rác thải theo hướng công nghiệp, hiện đại, ở các bản của người Thái, đặc
biệt là các bản phát triển chăn nuôi hoặc phát triển du lịch/du lịch cộng đồng. Đây công việc mà các bản của người
Thái ở khu vực 2 tỉnh Chiềng Mai và Lăm Phun (Tây Bắc Thái Lan) đã làm rất tốt trong thời điểm hiện nay, trong
hoàn cảnh tương tự: phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển du lịch.
5. KẾT LUẬN
5.1. Với những kinh nghiệm, tri thức, truyền thống có được trong khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên

nước và đất ruộng nước, như truyền thống sử dụng hệ thống mương, phai, lái, lịn và cọn đưa nước từ sông, suối,… ở
dưới thấp lên ruộng ở trên cao; Cho nước chảy từ ruộng cao xuống ruộng thấp rồi quay lại sông, suối,…; Sử dụng các
giống lúa dài ngày, năng suất thấp (so với các giốn lúa mới hiện nay); Không (hoặc ít) sử dụng phân hóa học, thuộc
trừ sâu, thuốc diệt cỏ; Chỉ canh tác một thời gian nhất định trong năm, thời gian còn lại cho đất nghỉ (hưu canh), cùng
nhiều quy định nhằm bảo vệ các nguồn nước từ sơng, suối, hồ, mó nước,… dành cho sinh hoạt gia đình và cộng
đồng; Cấm đánh bắt tơm, cá,… trên một (hoặc một vài) khu vực sông, suối, hồ, ao,… nhất định dành cho hoạt động
đánh bắt tập thể, một lần một năm,… CĐDT Thái, trong xã hội truyền thống và hiện tại, đã có những đóng góp nhất
định, quan trọng vào việc duy trì sự phát triển ổn định, bền vững của môi trường nước và đất ruộng nước cho khu vực
Tây Bắc và cả nước.
5.2. Với những kinh nghiệm, tri thức, truyền thống có được trong khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên
rừng và đất rừng, như canh tác nương rẫy theo kỹ thuật truyền thống: luân khoảnh/ luân canh (cho rừng mọc lại),
xen canh (sử dụng nhiều loại cây trồng khác nhau nhằm duy trì mầu xanh thường xuyên trên nương rẫy), tạo
khoảng cách an toàn khi đốt rẫy (tránh cháy lan sang các khu rừng bên cạnh), tạo bờ ngăn hạn chế xói mịn đất,…


620

Phạm Văn Lợi

và thực tế chuyển đổi cây trên nương rẫy trong thời gian gần đây (từ cây nông nghiệp, cây hằng năm sang cây
công nghiệp, câu lâu năm), thậm chí bỏ hoang cho rừng cây mọc lại; các quy định nhằm bảo vệ các khu rừng đầu
nguồn, rừng ma, các khu rừng dành cho chăn nuôi, săn bắt và khai thác lâm sản phục vụ cuộc sống, sinh hoạt của
cộng đồng,… CĐDT Thái cũng đã có những đóng góp nhất định, quan trọng vào việc duy trì sự phát triển ổn định,
bền vững của môi trường rừng và đất rừng cho khu vực Tây Bắc và cả nước, trong quá khứ và hiện tại.
5.3. Với những kinh nghiệm, tri thức, truyền thống có được trong ứng xử với các tai biến thiên nhiên và giữ
gìn vệ sinh bản làng, như không làm nhà gần sông, suối, đặc biệt tránh làm nhà ở các khu vực cửa sông, suối; Lựa
chọn làm và dựng nhà ở gần chân núi, quay lưng vào chân núi, quay mặt ra thung lũng với các dịng sơng, con
suối chảy ở giữa; Sử dụng chiều cao của cột để khắc phục tình trạng khơng bằng phẳng của nên nhà; Hạn chế tác
động đến nền đất khi tạo dựng nhà; Tạo dựng các thửa ruộng có độ cao thấp khác nhau để hạn chế tác động đến
lớp đất mặt của thung lũng; Xóa bỏ tình trạng ni nhốt gia súc, gia cầm dưới gầm sàn nhà; Bê tơng hóa đường

làng, ngõ xóm và đường nội đồng; xây dựng hệ thống đường thốt nước thải; Đưa chuồng ni gia súc, gia cầm ra
xa khu dân cư, vận động và tổ chức thực hiện các hoạt động vệ sinh đường lảng, ngõ xóm, gia đình vào cuối ngày
và các ngày cuối tuần,… CĐDT Thái cũng đã có những đóng góp nhất định, quan trọng vào việc bảo vệ tài
nguyên đất (rừng và đất rừng) và nguồn tài nguyên không khi cho khu vực Tây Bắc và cả nước.
5.4. Trên tinh thần chắt lọc những yếu tố văn hóa truyền thống và các yếu tố văn hóa mới phù hợp của CĐDT
Thái trong khai thác, sử dụng, bảo vệ các nguồn tài nguyên nhiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên và giữ
gìn vệ sinh bản làng, nhằm phát triển và phát triển bền vững môi trường vùng Tây Bắc, tôi cho rằng cần xem xét,
triển khai một số giải pháp đã được đưa ra trong Mục 4 của bài viết. Đó là (1) Đẩy nhanh, hồn thiện một cách tốt
nhất quá trình chuyển đổi phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên rừng và đất rừng trong hoạt
động canh tác nương rẫy của CĐDT Thái; (2) Duy trì phương thức khai thác, sử dụng, bảo vệ nguồn tài nguyên
nước và đất ruộng nước, trong hoạt động canh tác ruộng nước truyền thống của CĐDT Thái; (3) Duy trì phương
thức lựa chọn nơi lập làng, dựng nhà truyền thống; Tránh đào, cắt, xẻ sâu vào chân đồi, chân núi khi tạo dựng nền
nhà; Tránh dựng nhà trên bờ sông, bờ suối, đặc biệt là vị trí ngã ba sơng, suối,...và (4) Triển khai việc thu gom, xử
lý rác thải ở các bản của người Thái (và các dân tộc khác trong khu vực), đặc biệt là các bản phát triển hoạt động
du lịch và chăn nuôi gia súc, gia cầm,...
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1].
[2].
[3].
[4].
[5].
[6].
[7].
[8].
[9].
[10].
[11].
[12].
[13].
[14].

[15].

Lê Bá Thảo (1990), Thiên nhiên Việt Nam (In lần thứ hai, có sửa chữa và bổ sung), Nhà xuất bản Khoa học
kỹ thuật, Hà Nội, tr. 84 - 87.
Giới thiệu chương trình Tây Bắc, taybac.vnu.edu.vn, đăng ngày 25/4/2016, truy cập ngày 11/4/2018.
Cầm Trọng [1978], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, tr. 99 - 103.
Vi Văn An [2017], Người Thái ở miền Tây Nghệ An, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 54 - 59.
Vũ Trường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, tr. 47- 56.
Vũ Trường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, tr. 57.
Vi Văn An [2017], Người Thái ở miền Tây Nghệ An, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 60.
Vũ Trường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, tr. 29.
Vũ Trường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, tr. 29.
Cầm Trọng [1978], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, tr. 104.
Vi Văn An [2017], Người Thái ở Miền tây Nghệ An, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội, tr. 52 - 62.
Cầm Trọng [1978], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, tr. 110 - 120.
Vi Văn An [2017], Người Thái ở Miền tây Nghệ An, Nhà xuất bản Thế giới, Hà Nội.
Vũ Trường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội.
VũTrường Giang [2015], Tri thức dân gian của người Thái ở Thanh Hóa, Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc,
Hà Nội, tr. 32 - 33.


Truyền thống khai thác, sử dụng, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, ứng xử với các tai biến thiên nhiên
và giữ gìn vệ sinh bản làng của cộng đồng dân tộc Thái ở Tây Bắc

[16].

[17].
[18].
[19].
[20].
[21].

621

Cầm Trọng [1978], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, tr. 75 - 76.
Cầm Trọng [1978], Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam, Nhà xuất bản KHXH, Hà Nội, tr. 76.
Tòng Văn Hân (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) [2011], Quy trình dựng nhà sàn cổ của người Thái đen ở
Mường Thanh (tỉnh Điện Biên), Nhà xuất bản VHDT, Hà Nội, tr. 49.
Tòng Văn Hân (sưu tầm, biên dịch, giới thiệu) [2011], Quy trình dựng nhà sàn cổ của người Thái đen ở
Mường Thanh (tỉnh Điện Biên), Nhà xuất bản VHDT, Hà Nội, tr. 50 - 51.
Thu Nga [2017], “Giải pháp bảo vệ môi trường trong sản xuất nông nghiệp”, mtnt.hoinongdan.org.vn,
đăng ngày 30/06/2017, truy cập ngày 30/5/2018.
Dương Đình Tường [2016], “Sơn La mạnh tay với vấn nạn lạm dụng thuốc bảo vệ thực vật”, baomoi.com,
đăng ngày 14/12/2017, truy cập ngày 07/7/2018.

TRADITION OF EXPLOITING, USING AND PROTECTING NATURAL
RESOURCES, ADMINISTRATING NATURAL DISASTER AND KEEPING THE
VILLAGE SANITARY OF THE THAI ETHNIC COMMUNITY IN THE
NORTHWEST
Pham Van Loi
Institute of Vietnamese Studies and Development Science
Abstract: This article focuses on exploring the traditions of exploiting, using and protecting the three most basic
natural resources (land resources, water resources, and forest resources) which are the most closely and organically
linked to Thai communities in the Northwest in particular and in Vietnam in general. It further investigates the
traditional Thai communities' reactions and behavior to natural disasters with regard to protecting human lives,
villages, and natural resources..

Keywords: Northwest area, Thai ethnic community, natural resources, natural disasters, village sanitary.



×