Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

DI TÍCH ĐỀN LÊ QUẢNG CHÍ, LÊ QUẢNG Ý Ở HÀ TĨNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.93 MB, 41 trang )

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC
BÀI TẬP
HỌC PHẦN: KHẢO CỔ HỌC VÀ NHỮNG THÀNH TỰU ỨNG
DỤNG
TRONG NGHIÊN CỨU LỊCH SỬ DÂN TỘC

ĐỀ TÀI: DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HĨA ĐỀN
THỜ LÊ QUẢNG CHÍ, LÊ QUẢNG Ý Ở
KỲ ANH, HÀ TĨNH

Gv hướng dẫn: PGS.TS. Đặng Văn Thắng
Học viên: Phan Thị Lâm
Lớp: CH LSVN 20.2


MỤC LỤC


3

MỞ ĐẦU
Đất nước Việt Nam đã trải qua hơn mấy nghìn năm
dựng nước và giữ nước. Trang sử hào hùng ấy là công lao,
xương máu của biết bao vị anh hùng hào kiệt. Song lịch sử là
những gì đã thuộc về quá khứ và việc tiếp cận lịch sử không
thể qua nhân vật và sự kiện trực tiếp, do đó chúng ta chỉ có
thể ghi nhận cơng lao của những tiền nhân ấy thơng qua các
loại hình sử liệu khác nhau cịn sót lại như: di tích, di vật,
hình ảnh, chữ viết và ngôn ngữ truyền miệng. Trong số


những nguồn sử liệu ấy thì di tích lịch sử văn hóa đóng vai
trị như một nguồn sử liệu vật chất vơ cùng quan trọng. Và
khi nghiên cứu những vấn đề, sự kiện khơng được ghi lại
trong sử sách thì chúng ta phải sử dụng khảo cổ học để
nghiên cứu lịch sử.
Chúng ta đều biết, mỗi di tích lịch sử văn hóa đều gắn
liền với các sự kiện lịch sử và nhân vật riêng của nó trong
q trình dựng nước và giữ nước. Nguồn sử liệu này đóng vai
trị quan trọng trong việc tìm hiểu lịch sử dân tộc, lịch sử địa
phương cũng như các nhân vật lịch sử hay chính di tích lịch
sử văn hóa đó.
Việc tìm hiểu các di tích lịch sử văn hóa ngồi khảo tả di
tích để làm nổi bật nét kiến trúc đặc thù của từng di tích, thì
qua các hiện vật di tích làm sống lại hoạt động của con người
trong quá khứ. Đồng thời dựng lại bức tranh sinh hoạt trong
đời sống xã hội, mối quan hệ của những con người đã sáng
tạo ra giá trị lịch sử văn hóa đó. Các di tích lịch sử văn hóa
cho chúng ta một số thơng tin trực tiếp từ những hoạt động
của con người trong quá khứ mà nhiều nguồn sử liệu khác


4

khơng đề cập tới. Từ đó các nhà nghiên cứu có thể có được
những bằng chứng để chứng minh sự kiện lịch sử và tháo nút
thắt cho nhiều vấn đề sử học cịn đang tìm lời giải.
Kỳ Anh là một trong những địa danh giàu truyền
thống văn hóa của tỉnh Hà Tĩnh.Truyền thống đó đã được ghi
nhận qua các di tích lịch sử được xây dựng trên địa bàn. Đó
là, Đền thờ Chế Thắng phu nhân ở Đền Hải Khẩu

ở Kỳ Ninh

Hình 1: Đền thờ Nguyễn Thị Bích Châu (Kỳ Hải)
(Nguồn: />Đền thờ Phạm Hoành
( huyện Kỳ Anh)



Kỳ

Thọ


5

Hình 2: Đền thờ Phạm Hồnh (Kỳ Thọ)
(Nguồn: />hoanh)
Đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng ý (đền Thần Đầu) ở Kỳ
Phương (thị
xã Kỳ Anh)...

Hình 3: Đền
thờ Lê
Quảng Ý, Lê
Quảng Chí
(Kỳ
Phương)
(Nguồn: Ảnh
chụp )


chúng gắn liền với các sự kiện lịch sử của dân tộc và quê
hương, được xây dựng để ghi nhớ cơng lao của các bậc tiền
nhân, đồng thời thỗ mãn nhu cầu về văn hóa, tinh thần của
người dân nơi đây.


6

Giá trị của các di tích là vơ cùng to lớn, bởi lẽ đó là nền
tảng tinh thần, là linh hồn của dân tộc. Khơng những thế,
chúng cịn có ý nghĩa về kinh tế du lịch. Vì vậy nghiên cứu
các di tích ở Kỳ Anh - Hà Tĩnh sẽ góp phần vào khôi phục bức
tranh lịch sử của dân tộc, địa phương, giáo dục truyền thống
yêu nước và cách mạng, truyền thống lao động sáng tạo và
hiếu học, truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của nhân dân
Kỳ Anh, phát triển kinh tế địa phương. Song điều quan trọng
hơn cả, là việc bảo tồn và phát huy những giá trị của các di
tích như thế nào để phát triển một cách bền vững trong xu
thế hội nhập mới của đất nước.
Thực hiện đề tài “Di tích đền thờ Lê Quảng Ý, Lê Quảng
Chí ở Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh”. Thơng qua việc khảo tả di tích
và tìm hiểu các di vật cịn sót lại, nhằm tìm hiểu nguồn gốc,
giá trị của di tích, cũng như tơn tạo lại giá trị bản sắc văn
hóa, và gìn giữ truyền thống bảo tồn di tích Đền thờ Lê
Quảng Ý, Lê Quảng Chí theo đúng nguyên giá trị lịch sử và
nhân văn của nó.


7


Hình 4: Đền thờ mới ở cạnh quốc lộ 1A
(Nguồn: />
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ XÃ KỲ PHƯƠNG VÀ THÂN
THẾ, SỰ NGHIỆP CỦA LÊ QUẢNG CHÍ, LÊ QUẢNG Ý
1.1. Khái quát về phường Kỳ Phương
Kỳ Anh (đẹp lạ kỳ) thuở Văn Lang - Đại Việt là nơi biên
thùy xa xôi, phên giậu của đất nước, và ngày nay là huyện
núi phía Đơng Nam của tỉnh Hà Tĩnh. Phía Bắc thị xã Kỳ Anh
giáp huyện Kỳ Anh, phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Quảng
Bình, phía Đơng giáp biển Đơng Việt Nam – một vị trí địa lí
khá thuận lợi cho Kỳ Anh phát triển cả về kinh tế rừng và
biển. Khơng những thế nơi đây cịn có nhiều danh lam thắng
cảnh đẹp hùng vĩ và nhiều di tích lịch sử: thành cũ của huyện
ở xã Nhân Canh (nay là Kỳ Châu) vào đầu thời Gia Long: cửa
Hoành Sơn, núi Cao Vọng, đầm Thủy Tiên. Hiện nay, Kỳ Anh
được chia thành huyện Kỳ Anh và thị xã Kỳ Anh.


8

Hình 5. Vị trí xã Kỳ Phương (Nguồn: Ảnh
chụp từ Google Map)
Phường Kỳ Phương nằm ở phía Đơng Nam của thị xã Kỳ
Anh, phía Bắc giáp xã Kỳ Lợi thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh và
Vịnh Bắc Bộ, phía Đông giáp Vịnh Bắc Bộ và xã Kỳ Nam thị
xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh, phía Nam giáp xã Quảng Kim, huyện
Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, phía Tây giáp các phường Kỳ
Liên, Kỳ Long và Kỳ Thịnh, thị xã Kỳ Anh tỉnh Hà Tĩnh.
Trên địa bàn phường Kỳ Phương có tuyến quốc lộ 1A đi qua
và sông Quyến chảy qua.



9

Hình 6: Vị trí Kỳ Phương (Nguồn: Ảnh
chụp từ Google Map)
Mảnh đất Kỳ Phương khơng chỉ có tiềm năng về tài
nguyên thiên nhiên, thuận lợi về mặt vị trí địa lý để phát
triển mạnh về kinh tế mà đây còn là nơi giàu truyền thống
lịch sử, nơi đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt của Kỳ Anh
sản sinh ra nhiều người con anh hùng cho quê hương, đất
nước.
Từ trong lịch sử mảnh đất Kỳ Phương đã xuất hiện những con
người làm rạng danh quê hương như anh em Lê Quảng Ý, Lê
Quảng Chí...
“Đặc biệt, vẫn cịn đó những con người... biết rèn luyện
vươn lên tầm trí tuệ trở thành những “ơng Trạng Thần Đầu”.
Cũng chính những con người ấy trong thời đại mới đã biết
thắng Pháp, thắng Mỹ không chỉ bằng súng, đạn mà bằng cả
“cột cờ Chu Nai”, bằng tiếc cuốc sửa đường Kỳ Trinh và ngày
nay biết tạo nên những đồng lúa, đồng tôm, những rừng
thông, rừng bạch đàn, cao su. “Kho báu con người” ấy, nếu
được sử dụng bằng một trí tuệ lớn, sẽ chiến thắng mọi trở
ngại trên đường đi tới tương lai” (Kỳ Anh 170 năm ,1836
-2006. tr.39-40).
1.2. Thân thế và sự nghiệp của Lê Quảng Chí, Lê
Quảng Ý
“Lớn lên nghe mẹ tơi kể xã Hoàng Hanh, Tổng Hoằng
Lệ nay là xã Kỳ Phương, Kỳ Anh có 5 làng - làng Phương
Đình, làng Lụi, làng Bến, xóm Đồn, làng ta là lang Thần Đầu.

Nơi mảnh đất nghèo khổ này, thời Hồng Đức năm thứ chín đã
có hai anh em trong một gia đình nghèo đậu tiến sĩ cấp đệ


10

và tiến sĩ xuất thân. Đó là ơng Lê Quảng Ý và ơng Lê Quảng
Chí.”(Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Ơng Lê Quảng Chí sinh năm 1451 tại làng Thần Đầu nay
thuộc phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Năm
25 tuổi Ơng Đỗ Đình Ngun Bảng, đệ nhất danh tiến sĩ cấp
đệ, đệ nhị danh (bảng nhãn) khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng
Đức đời thứ chín (1478), đời Lê Thánh Tông. Mùa hè năm Ất
Sửu (1505) ông được phong chức Bộ Lệ Tả Thị Lang kiêm
Đông Các Đại học sĩ. Năm Kỷ Tỵ (1509), được thăng chức
đứng đầu Hàn Lâm Viện .
Trải qua các triều đại ông đều được cấp phong sắc, ông được
vua Lê Thánh Tông mời vào làm quan trong triều, ông đã
soạn thảo bài văn bia mộ Quang Thục Hồng Thái Hậu (vợ
Thái Tơn, mẹ Thánh Tơn là Ngô Thị Ngọc Giao). Vua rất tôn
quý ông thường gọi ông là Tiên sinh, không gọi bằng tên
thường. Vua hỏi ông mọi điều, đều được ông dẫn chuyện xưa
nay giảng minh nghĩa lý

(Kỳ Anh 170 năm ,1836 -2006.

tr.62).
Lê Quảng Chí làm quan ở triều đình 32 năm, đến năm
1533 ông mất, hưởng thọ 82 tuổi. Sau khi mất, ông được mộ
táng ở làng Hồng Sơn thị xã Kỳ Phương và được thăng chức

Thượng thư phong phúc thần (Liệt huyện đăng khoa bị khảo).
Ngài có biệt hiệu là Hồnh sơn tiên sinh, có tài thơ họa, thơ
chữ Hán của ơng được danh sĩ cùng thời mến mộ, kính nể.
Tác phẩm hiện cịn sáu bài thơ chữ Hán chép trong Tồn Việt
thi lục, thơ ông viết đẹp đẽ, sáng sủa, ý tứ sâu xa, lời lẽ trau
chuốt (Kỳ Anh 170 năm ,1936 -2006. tr.62).


11

Lê Quảng Chí là một người cương nghị, thơng minh tế văn,
dương võ, được vua trọng dụng, quý mến đã tự tay đề tặng “
Lam Sơn Lê tiên sinh linh ứng” (Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Văn miếu Quốc Tử Giám tại Hà Nội đã khắc tên 47 vị trạng
nguyên qua các triều đại, trong đó Lê Quảng Chí cũng vinh
dự đứng trong danh sách này. Tên ông đã được vua cho ghi
vào bảng vàng bia đá. Trong số 82 bia tiến sĩ thì bia khắc tên
ơng đứng đầu hàng thứ 6 ở nhà bia bên trái từ Khuê Văn Các

vào khu Đại Thành. Đây là một niềm vinh hạnh của cả dân
làng Thần Đầu.
Hình 7: Văn Miếu Quốc Tử Giám
(Nguồn: />Lê Quảng Chí có người em ruột là Lê Quảng Ý, sinh năm
1453 mất 1526 (hưởng thọ 73 tuổi), cũng như anh, Lê Quảng
Chí cũng trải qua thời tuổi trẻ vơ cùng vất vả. Sau khi Lê
Quảng Chí làm quan ơng mới có điều kiện để tiếp tục học
hành. Nhưng mãi đến năm 16 tuổi, ông mới đỗ Đồng tiến sĩ
khoa Kỳ vị, niên hiệu Cảnh Thống thứ hai, đời Lê Hiến Tơng
(1499). Ơng làm quan đến Hàn Lâm Viện thị chế đặc tiến kim
tử vinh lộc đại thu, hiến sự kiêm đệ lĩnh tứ thành vũ sự bảng



12

quận cơng. Ơng có bài văn phụng chí bia mộ bà Quang Thục
Thái Hậu - vợ vua Thái Tôn .
Lê Quảng Ý cũng khơng thua kém gì người anh của
mình, ông cũng là người văn võ kiêm toàn, nhiều lần ông đã
cầm quân cùng vua Lê diệt giặc ngoại xâm đưa lại nền thái
bình cho đất nước, là người cương nghị, quyết đoán, được
triều Lê trọng dụng. Vua Lê thường hỏi ông về sứ mệnh đất
nước và nhận được những lời minh giải thỏa đáng. Lê Quảng
Ý cũng có tên trong danh sách 1.027 tiến sĩ ghi vào bảng
vàng ở Văn Miếu Quốc Tử Giám. Ông mất năm 1526, sau khi
mất ơng được phong phúc thần Hồn Vũ Kỹ Văn. Mộ táng
dưới chân núi Hoành Sơn gần mộ anh Lê Quảng Chí. Dân
làng lập đền thờ ơng ở q Thần Đầu, thường gọi là “ Đền
Bảng Quận Công” (Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Tương truyền, khi ơng Lê Quảng Chí đỗ đầu khoa Mậu
Tuất năm 1478 (đứng trên Bảng nhãn Trần Đức Hồnh, Thám
hoa Lê Ninh cùng khoa thi). Ơng Lê Quảng Ý đỗ đồng tiến sĩ,
thì q hai ơng từ Sơn Đầu (cạnh núi) thành làng Thần Đầu vì
có hai anh em đỗ đầu khoa bảng.
Nhân dân làng Thần Đầu khâm phục tài trí, cơng đức của hai
vị:
“Lệ thủy phá thiên hoang ngang tàng vũ trụ
Hoành sơn khai địa mạch hiển hách cổ kim”
Tạm dịch là:
“Lệ Thủy góp với bầu trời ánh sáng rạng ngời ngời vũ trụ
Hoành Sơn khai sinh ra long mạch hiển hách xưa nay”

Nhà thơ Nguyễn Khuyến , khi đi qua Thần Đầu, qua đền thờ
của hai ông đã làm thơ tặng:


13

“Trăm sông xẻ núi biển Đông
Hai đền đứng tựa cửa rừng ngát hương
Anh em cùng chiếm bảng vàng
Văn hùng khí lạ, lẽ thường hiển linh” .
(Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008)
Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý sinh ra trong một gia đình
nghèo khơng có điều kiện học hành nên phải đi ở nhờ nhà
giàu để con họ đi học mà học mót. Ban đêm hai ơng phải bắt
đom đóm thay đèn để học. Trong phịng con ơng chủ chưa
đọc được, chưa làm ra thì ngồi cửa hai ơng đã đọc ngược
đọc xi được. Nhờ trí thơng minh, hai ơng học một biết
mười, tự mày mò, dùi mài kinh sử nên dù cuộc sống khó
khăn thiếu thốn vẫn tin tưởng vào sức học của mình. Đã có
lúc hai ơng lấy đó làm đề tài ra câu đối:
“Sáng khoai, trưa khoai, khoai một rổ”
Anh vừa đọc xong câu đối đó thì em cùng ứng khẩu luôn:
Anh đậu, em đậu, đậu một tràng”
(Kỳ Anh 170 năm ,1836 -2006. tr.62)
Tinh thần ham học hỏi đã giúp hai anh em Lê Quảng Chí vượt
qua tất cả mọi khó khăn trong cuộc sống để ghi danh trên
bảng vàng giành đình nguyên bảng, đệ nhị danh tiến sĩ cấp
đệ và tiến sĩ xuất thân, được nhân dân yêu mến, khâm phục,
triều đình trọng dụng. Gương học tập của hai ông mãi mãi
sáng ngời trên quê hương nghèo làng Thần Đầu cho con

cháu noi theo.
CHƯƠNG 2. ĐỀN THỜ LÊ QUẢNG CHÍ, LÊ QUẢNG Ý
Lịch sử là những gì đã thuộc về q khứ, do đó q
trình nhận thức lịch sử chỉ có thể thực hiện qua việc nhận


14

thức tri thức lịch sử từ các di vật hay di tích cịn sót lại trong
lịch sử - những thứ tái tạo lại bức tranh quá khứ. Di tích lịch
sử văn hóa là một bộ phận khơng nhỏ đóng góp vào quá
trình này. Và trong mối quan hệ giữa truyền thống và hiện
đại, các di tích lịch sử văn hóa như đền miếu, chùa tháp, các
hội quán, nhà lao... là một bộ phận của di sản văn hóa vật
chất do nhân dân lao động sáng tạo ra. Mặt khác, gắn liền
với nó sẽ là những sự tích, truyền thuyết, tơn giáo, tín
ngưỡng, những sự kiện lịch sử liên quan đến sự thành tạo và
tiến tạo của các di tích trong tiến trình lịch sử. Đó là những
tài liệu khách quan và toàn diện, mang theo một nội dung
lịch sử văn hóa q báu, nó khơng những là những bằng
chứng cho chúng ta biết được rằng đã có một thời lịch sử với
tồn tại của những con người làm nên những di tích này, giúp
chúng ta giải quyết được những vấn đề cịn bế tắc trong lịch
sử, bên cạnh đó di tích lịch sử văn hóa cùng với những di vật,
câu chuyện lịch sử gắn liền với nó cịn có thể có khả năng
làm sống lại con cuộc sống của con người thời quá khứ, dựng
lại bức tranh sinh hoạt trong đời sống xã hội, mối quan hệ
của những con người đã sáng tạo ra những giá trị lịch sự sử
văn hóa đó.
2.1. Đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý

2.1.1. Vị trí di tích
Di tích Đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý hiện nay được
phân bố ở hai địa điểm. Đền thờ cũ ở thôn Thắng Lợi, phường
Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh – nơi sinh ra và lớn
lên của hai vị Thần Đầu. Đền thờ mới phân bố tại thôn Hồng


15

Sơn, phường Kỳ Phương, thị xã Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh nơi đặt
mộ của hai vị Thần Đầu, cạnh quốc lộ 1A đi qua địa bàn
phường Kỳ Phương, cách thành phố Hà Tĩnh 50km về phía
Nam.

Hình 8: Đền thờ mới (Nguồn: Ảnh chụp)
2.1.2. Giới thiệu di tích
Đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý ở làng Thần Đầu nay
là phường Kỳ Phương, nên sử sách thường chép là “Đền Thần
Đầu”, cịn dân gian thì gọi là “Đền Hai Quan Trạng”.
Làng Thần Đầu có những nét đặc biệt nổi trội so với
những làng khác. Nét khác thường đó đã in sâu vào trong
tiềm thức của mỗi con người nơi đây, toát ra từ cửa miệng
trở thành vần:
Trai Thần Đầu đẹo rạ
Bằng thiên hạ đẹo rìu” .
(Trần Thị Mỹ, 2006. Tr.34)
Trai Thần Đầu nổi tiếng là thế, đẹp đẽ khỏe mạnh là
thế. Nhưng người Thần Đầu nói chung, trai Thần Đầu nói



16

riêng rất hài hòa, giản dị, chuyên làm việc thiện cứu người,
giúp nước.
Thần Đầu là một làng cổ nhất trong các làng. Làng có
truyền thống hiếu học lâu đời của thị xã Kỳ Phương. Ở chính
giữa làng là đền thờ hai danh nhân văn hóa, đó là anh em
ruột Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý.
Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý đã thực hiện “ Tề gia trị quốc”
nên ở làng Thần Đầu lúc đó rất có nề nếp kỉ cương đạo lý.
Được vua tặng câu đối:
“Thần Đầu vô lưu nha chi án
Cấp dần vô tã đạo chi nhân”.
(Trần Thị Mỹ, 2006. Tr.34).
Khi hai ông mất, dân làng đã lập đền thờ gọi là đền thờ “ Hai
ông Thánh trạng” với ba ngôi đền ở ba chổ khác nhau: Lam
Sơn Tiên Sinh từ thờ Lê Quảng Chí, Bảng Quận Công từ thờ
Lê Quảng Ý và Thần Đầu từ thờ chung hai ông ở gần nhau.
Về sau, xã Hoằng Lệ, tổng Hoằng Lệ lại lập thêm đền thờ
chung hai ông ở gần mộ (nay ở thôn Hồng Sơn), phường Kỳ
Phương, cạnh đường quốc lộ 1A về hướng Tây, gần cây cầu,
gọi là “ Cầu Thánh Trạng”. Đời Tự Đức, sứ Trung Quốc là Lao
Sùng Quang qua đây có đề hai câu:
“Thùy gia hảo huynh đệ”
Song miếu viết tinh linh”.
Dịch nghĩa:
“Anh em danh tiếng một nhà
Tinh linh hai miếu sáng lòa nghìn thu”
(Trần Thị Mỹ, 2006. Tr.35).



17

Tương truyền, mấy ngôi đền này rất thiêng, các triều
đại phong kiến đều có sắc phong.
Khoảng năm 1875 quân triều đình đánh dẹp cuộc khởi
nghĩa của quân cờ vàng do Trần Quang Cán lãnh đạo, khi đi
qua đây đã đốt cháy mấy ngôi đền. Mãi đến năm Tự Đức thứ
ba mươi sáu (1883), nhân dân mới xây dựng lại. Năm Tân Tỵ
Thưc thời Bảo Đại (1941), hai ngôi đền ở làng Thần Đầu lại
được sửa chữa thêm. Do sự phá hoại của bom đạn, đặc biệt
là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và khắc nghiệt
của thời tiết, ngôi đền do xã Hoằng Lệ dựng và ngôi đền
Bảng Quận Cơng do làng Thần Đầu dựng lên khơng cịn nữa.
Đền Lam Sơn tiên sinh trước đây đã hư hỏng nặng, nay được
trùng tu, sữa chữa lại để thờ Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý
(Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Tại thơn Thắng Lợi, đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý
nằm ở phía Đơng, từ ngồi vào có quan thú ý làm nhiệm vụ
trơng coi cổng. Tiếp đó, đền được xây dựng theo cấu trúc xưa
lợp bằng ngói. Xung quanh cây cối xanh tươi, mát mẻ.


18

Hình 9: Tổng quan khu đền cũ (Nguồn:
Ảnh chụp)
Trong đền hiện nay cịn có một số vật dụng phục vụ cho
việc cúng lễ hương khói và một số di vật liên quan đến hai
ơng như bằng cơng nhận di tích lịch sử văn hóa, hình ảnh bia

tiến sĩ của Lê Quảng Chí tại Văn Miếu Quốc Tử Giám, và một
rương nhỏ đựng cờ văn thêu và mười sáu đạo sắc phong thần
cho hai ông sớm nhất là vào niên hiệu Dương Hịa thứ 5 đời
Lê Thần Tơn(1639) muộn nhất là niên hiệu Khải Định thứ 9
năm 1924.

Hình 10: Bằng cơng nhận di tích
(Nguồn: />Các sắc phong đều là lụa gấm, trải qua bao nhiêu thế kỉ
nhưng vẫn mới tinh và đẹp đẽ, mực ghi trên lụa gấm vẫn còn
sắc nét. Những di vật đó được cất rất cẩn thận, chỉ những già
làng được giao nhiệm vụ canh giữ, thắp hương xin phép
“Thánh” và phải được sự đồng ý của dân làng mới được mở
ra .
Mười sáu đạo sắc phong:


19

1. Sắc: Vua Dương Hòa ngụ niên bát nguyệt nhị thấp lúc
nhất. Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.
2. Sắc: Cảnh Hưng nguyên niên thất nguyệt nhị thập tứ nhất.
Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.
3. Sắc: Cảnh Hưng tứ thập niên ngụ nguyệt thập lục nhất.
Sắc phong cho ông Lê Quảng Ý.
4. Sắc: Cảnh Hưng thập ngụ tứ niên nguyệt nhị thập lục
nhất. Sắc phong cho ông Lê Quảng Chí.
5. Sắc: Cảnh Hưng nhị thập bát niên bát nguyệt sơ bát nhất.
Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí
6. Sắc: Vua Vĩnh Khánh, nhị nguyên thấp nhị nguyệt sơ thấp
nhất thập. Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.

7. Sắc: Cảnh Thịnh tứ niên ngụ nguyệt nhí thấp nhít nhật.
Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí
8. Sắc: Vua Phúc Thái tam niên thất nguyệt thấp nhất nhật.
Sắc phong cho ông Lê Quảng Chí.
9. Sắc: Dương Đức Tam, niên thất nguyệt nhị thấp cửu nhật.
Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.
10. Sắc: Vĩnh Thái nhất niên tạm nguyệt nhị thấp từ nhật.
Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.
11. Sắc: Tự Đức tam niên thấp nhất nguyệt thấp ngu nhất.
Sắc phong cho ông Lê Quảng Chí.
12. Sắc: Tự Đức tam niên thập nhít nguyệt thấp ngụ nhật.
Sắc phong cho ông Lê Quảng Ý.
13. Sắc: Vua Minh Mạng ngu niên bát nguyệt nhị thập nhất
nhật. Sắc phong cho ơng Lê Quảng Chí.
14. Sắc: Thiệu Trị tam niên thập nhị nhất sơ nhị. Sắc phong
cho ông Lê Quảng Chí.


20

15. Sắc: Vu Thành Thái nhị tiểu nhị nguyệt nhị thấp nhất. Sắc
phong cho ông Lê Quảng Ý.
16. Sắc: Khải Định cửu niên thất nguyệt nhị thấp ngụ nhật.
Sắc phong cho ơng Lê Quang Ý.
Ngồi ra thì trong đền Thần Đầu cịn có ghi một số câu đối ca
ngợi sự anh minh, lỗi lạc và công đức của hai ông khơng gì
sánh nổi: Hai câu đối vua tặng được dân làng khắc lên khi lập
đền thờ:
Nguyên văn:
“一 一 一 一 一 一 一,

一 一 一 一 一 一 一”.
Phiên âm:
“Nhất môn khoa giáp nan huynh đệ,
Song miếu anh linh tự cổ kim”.
Nghĩa:
“Một nhà anh em ơng đều tài giỏi khó biết ai hơn ai,
Hai miếu anh linh từ xưa đến nay”.
Công lao to lớn của hai ông được thể hiện qua câu đối:
“Vũ trụ kỉ phi Hồng Đức nhật
Giang sơn chung tú trạng ngun từ”
Tạm dịch:
"Bầu trời sóng đơi hai quầng sáng Hồng Đức nhật
Sông núi một nguồn sinh ra hai ngôi đền Trạng Nguyên”
(Kỳ Anh 170 năm, 1863 – 2006. Tr.64)
Tài trí:
“Lệ thủy phá thiên hoang ngang tàng vũ trụ
Hoành sơn khai địa mạch hiển hách cổ kim”
Tạm dịch:


21

“Lệ Thủy góp với bầu trời ánh sáng rạng ngời ngời vũ trụ
Hoành Sơn khai sinh ra long mạch hiển hách xưa nay”
(Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Quan thần Phạm Quang Nghị ở tỉnh Hải Hưng cùng thời trên
đường từ kinh đô về quê qua Thần Đầu đã cảm niệm:
Nguyên văn:
一 一 一 一 一,
一 一 一 一 一.

一 一 一 一 一,
一 一 一 一 一.
一 一 一 一 一,
一 一 一 一 一.
一 一 一 一 一,
一 一 一 一 一.
Phiêm âm:
Nhất môn huynh cập đệ,
Thiên cổ miếu ư dân.
Khoa giáp tuy chân q,
Thơng minh thủy vị thần.
Tất năng sinh chính khí,
Khởi đãn tắc văn nhân.
Ngã học hạo nhiên dưỡng,
Linh đài ngộ vị chân.
Dịch nghĩa:
Anh em cùng một cửa,
Hương khói đượm tình dân.
Khoa bảng ai khơng q,
Thơng minh mới gọi thần.


22

Chắc hẳn đầy khí phách,
Đâu phải chỉ thơ văn.
Ta ni lòng cương trực.
Giác ngộ chưa đủ phần.
(Kỳ Anh 170 năm, 1863 – 2006. Tr.64)
Tạm dịch là:

“Một nhà cả anh lẫn em đều được nhân dân hương khói
phụng thờ mãi mãi. Tuy khoa giáp là điều đáng q trọng
song có thơng minh mới gọi là thần. Tất nhiên phải đầy bầu
chính khí. Có phải chỉ văn nhân mới thơi đâu. Đang ni
dưỡng cái khí hảo nhiên...ý nghĩa là ở đó, chân lí và sự thơng
minh là ở đó”(Nguyễn Văn Hạnh, 8/2008).
Ở làng Thần Đầu, cịn có hai hịn núi Đụn đứng song song,
một hịn cao một hịn thấp hơn chút ít, dân làng ở đây gọi là
hòn anh, hòn em.
Hai hòn núi này giống ngòi bút nên thường được gọi là “Nguy
nga song bút”. Đứng sau hai hịn núi cịn có cụp chiêng, cụp
trống, cụp cờ, cụp bưởi đứng thẳng hàng như đón rước hai
ơng (Kỳ Anh 170 năm, 1863 – 2006. Tr.64)


23

Hình 11: Hai hịn núi đụn (Nguồn:
/>px)
Cách mạng tháng Tám thành công, làng Thần Đầu xưa
được mang tên mới là thơn Thắng Lợi. Với lịng tự do tín
ngưỡng, nhân dân mãi tơn thờ, giữ gìn bảo vệ Thái Miếu tổ
tiên, trong cuộc chiến tranh vĩ đại của đất nước, đền thờ hai
vị đã trở thành trụ sở chi bộ của Đảng, nơi trú ẩn của các đơn
vị bộ đội đánh trả cuộc chiến tranh leo thang phá hoại miền
Bắc Xã hội chủ nghĩa. Làng Thắng Lợi còn là trạm giao biên,
là nơi nghỉ chân của các đơn vị bộ đội vào Nam chiến đấu lấy
lại sức để vượt Đèo Ngang, là nơi xây dựng trận địa của 9 cô
gái Kỳ Phương, của đồn 112 canh phòng bờ biển. 500 hộ dân
của thôn Thắng Lợi đã kết thành pháo đài vững chắc, là địa

chỉ đỏ của cuộc chiến tranh ái quốc.
Đất nước thống nhất, non sông thu về một mối, hợp tác
xã Thắng Lợi lại đi đầu trong sản xuất nông nghiệp, các điển


24

hình tiên tiến lại trổi dậy, làm giàu trên chính mảnh đất cằn
cỗi của tỉnh, đời sống nhân dân ngày một nâng cao.
Song song với công tác sản xuất chiến đấu, người dân thơn
Thắng Lợi khơng qn giữ gìn và bảo tồn hai ngôi đền của
“Thánh Trạng”. Ngày 29 tháng 1 năm 1996, Bộ văn hóa ra
quyết định 31 QĐ/BT, cấp bằng cơng nhận di tích lịch từ văn
hóa đền thờ và phần mộ Lê Quảng Chí - Lê Quảng Ý (Nguyễn
Văn Hạnh, 8/2008).
Ngày 29 tháng 8 năm 1996, dưới sự chỉ đạo của Đảng
ủy, chính quyền địa phương làng Thắng Lợi (trước là làng
Thần Đầu) đã long trọng tổ chức đón rước bằng di tích lịch sử
văn hóa về làng. Hiện nay nhân dân đã đóng góp cơng sức
tiền của tôn tạo lại ngôi đền khá khang trang, đẹp mắt, lấy
hai ngơi đền làm nơi trung tâm văn hóa của làng xã. Đồng
thời giáo dục truyền thống hiếu học, nhà nghèo vượt khó của
ơng cha ta để nêu gương cho con cháu noi theo (Nguyễn Văn
Hạnh, 8/2008).
Hiện nay, cùng với sự phát triển đi lên của quê hương
Kỳ Phương Đền thờ Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý cũng được
Đảng bộ và nhân dân địa phương chú ý xây dựng hơn. Cịn
phần mộ của Lê Quảng Chí và Lê Quảng Ý vẫn nằm ở chỗ cũ,
cạnh đường quốc lộ 1A, thuộc địa phận thôn Hồng Sơn, xã Kỳ
Phương, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh. Song với sự quan tâm

của chính quyền cấp ủy từ năm 2020 phần mộ của hai ông
đã được trùng tu, xây dựng mới mẻ, đẹp đẽ hơn. Phần cổng
vào được xây mới, to và đẹp hơn trước, hai bên có hai vị
quan thú ý trong coi, thể hiện sự uy nghi của nơi đây.


25

Hình 12: Cổng đền nhìn từ ngồi vào
(Nguồn: Ảnh chụp)
Phía bên trong là đền thờ hai ông, với kiến trúc cổ xưa,
lợp ngói, trước đền là bia thắp hương, tiếp đến là đền chính –
nơi dâng hương thờ cúng.
Hình 13: Đền chính

(Nguồn: Ảnh chụp)

Hiện nay, nơi đây trở thành nơi

thờ phụng chính của

Lê Quảng Chí, Lê Quảng Ý. Phần mộ

của hai ông cũng

được trùng tu, sửa sang đẹp đẽ hơn,

như tơn lên sự linh

thiêng và thể hiện lịng kính trọng


của nhân dân về bảo

vệ nơi an nghỉ của “Hai Thánh”.

Hình 14, 15: Một số hình ảnh
trùng tu di tích
(Nguồn: />Đặc biệt, cây cối xung quanh hai phần mộ ngày càng
xanh tốt, tán lá sum suê ngay giữa tiết trời nóng bức của
mùa hè. Khách hành hương và nhân dân đến thắp hương
khấn bái ngày càng đông.
2.2 Giá trị lịch sử, văn hóa và vấn đề bảo tồn phát huy
giá trị di tích
2.2.1 Giá trị lịch sử văn hóa
Do hồn cảnh địa lý và lịch sử của quê hương Kỳ Anh
xưa nói chung và Kỳ Phương xưa nói riêng cịn nhiều khó
khăn cho việc học hành của con em trên địa bàn. Phần lớn


×