Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

ảnh hưởng của đạo phật tới kiến trúc chùa phạ kẹo (phật ngọc) ở thái lan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.03 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:
Đạo Phật với tư tưởng “từ bi hỉ xả”, “vô ngã vị tha”, với tinh thần hòa
hợp, khoan dung, khuyên con người tránh điều ác, làm điều thiện, với vai trị
nhiệt thành vì con người được bình đẳng, được giải thốt khỏi mọi đau khổ và
tai ương của cuộc đời. Vì vậy mà đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn tới những nơi
mà nó lan tỏa đến. Trên con đường lan tỏa của mình, Phật giáo đã đến với
vương quốc Thái Lan và được đón nhận hết sức nồng nhiệt để rồi trở thành tơn
giáo chính ở đây.
Sự đón nhận được thể hiện: vào những thế kỷ đầu công nguyên, đạo
Phật Tiểu thừa ngun thủy đã có mặt ở Thái Lan. Dịng Phật giáo này tồn tại
ở miền Trung Thái Lan trong phạm vi của vương quốc Môndovaravah thế kỷ
thứ VI đến XI. Từ thế kỷ XI đến thế kỷ XIV, Phật giáo Đại thừa từ Campuchia
lan sang Thái Lan và phát triển ở khu vực phía Nam Thái Lan. Phật giáo vào
Thái Lan đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống nhân dân nơi đây. Khi vào Thái
Lan, Phật giáo đã hòa nhập với những tín ngưỡng truyền thống địa phương để
phù hợp hơn và gần gũi hơn với cư dân nơi đây.
Phật giáo ở Thái Lan không chỉ là một tôn giáo mà nó đã trở thành một
lối sống rộng khắp trong dân cư. Nó chi phối nhiều mặt đời sống xã hội, tâm lý
và hành vi của mỗi người đến mức “phần lớn người Thái khơng thể giải thích
một cách lơgic những khn mẫu văn hóa của mình” như Robert L.Mole nói
trong cuốn “Những giá trị và những khn mẫu hành vi của người Thái”. Cư
dân Thái Lan chịu ảnh hưởng sâu sắc của Phật giáo, các nghi lễ Phật giáo được
tiến hành sâu rộng trong đời sống của nhân dân Thái Lan, không chỉ ở nông
thôn mà cả ở thành thị, không chỉ ở từng nhà, từng làng mà trong cả nước. Đời
sống của người dân Thái Lan thường gắn chặt với ngôi chùa. Không chỉ là nơi
cử hành những họat động tơn giáo, mà cịn mang chức năng xã hội: Là kho
1



tàng, nơi giải trí, trạm xá, trường học… Chính vì vậy mà các nhà sư áo vàng
đóng một vai trị quan trọng trong đời sống xã hội. Các nhà sư rất được mọi
người coi trọng, con trai khi lớn lên thì đều vào ở chùa một thời gian. Ở Thái
Lan môn đồ Phật giáo chiếm khoảng 95% tổng số dân tồn quốc, tăng có 26
vạn người. Với số dân theo đạo Phật đông như vậy cho nên ở Thái Lan việc
xây dựng chùa, viện hết sức quan trọng. Ở Thái Lan hiện nay có tới 25.688
chùa viện và chùa Phật có tới hơn 10 vạn ngơi, bình qn mỗi một thơn trang
có một ngơi chùa.
Trong suốt q trình phát triển của lịch sử Thái Lan từ vua quan cho đến
dân thường đều rất quan tâm đến việc xây dựng chùa chiền. “Nghiên cứu ảnh
hưởng của Phật giáo tới kiến trúc chùa Phạ Kẹo ở Thái Lan” chúng ta không
chỉ thấy tác động của Phật giáo tới nghệ thuật kiến trúc chùa Phạ Kẹo nói
riêng mà cịn thấy ảnh hưởng của nó tới nghệ thuật kiến trúc các ngơi chùa ở
Thái Lan nói chung. Thơng qua đó, ta thấy được những đóng góp của Phật
giáo trong việc xây dựng quốc gia Thái Lan thống nhất, trong việc hình thành
nền văn hóa với những bản sắc riêng.
2. Lịch sử vấn đề:
Nghiên cứu về ảnh hưởng của Phật giáo đối với Thái Lan trong thời gian
vừa qua được rất nhiều học giả quan tâm nghiên cứu như: “nghiên cứu tơn
giáo tín ngưỡng Thái Lan” của Ngô Văn Doanh và Quê Lai; “lịch sử Thái Lan
của Phạm Nguyên Long, NguyễnTương Lai; “tìm hiểu văn hóa Thái Lan của
Ngơ Văn Doanh, Quế Lai, Vũ Quang Thiện; “Thái Lan: một số nét về chính
trị, kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử” của Nguyễn Khắc Viện, rồi cả trong
những cuốn giáo trình lịch sử thế giới… Gần đây tác giả Nguyễn Lệ Thi với
“nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Phật giáo ở Chiang Mai và Bangkok qua
một số ngôi chùa tiêu biểu”. Cuốn sách đó đã nói tới ảnh hưởng của đạo Phật
tới đời sống văn hóa, xã hội của đất nước Thái Lan và bước đầu cũng đã đề
2



cập đến nghệ thuật điêu khắc – kiến trúc chùa tháp ở Thái Lan chịu ảnh hưởng
của Phật giáo.
Trong bài tiểu luận này cùng với sự hiểu biết cịn có hạn chúng tôi chưa
tiếp xúc được hết các nguồn tài liệu, vì thế chúng tơi chọn nghiên cứu nghệ
thuật kiến trúc của một ngơi chùa cụ thể – một khía cạnh trong rất nhiều khía
cạnh chịu tác động của Phật giáo nhằm làm nổi bật sự ảnh hưởng sâu đậm của
Phật giáo tới nghệ thuật kiến trúc chùa ở Thái Lan.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về: “ảnh hưởng của đạo Phật tới kiến trúc chùa Phạ
Kẹo (Phật Ngọc) ở Thái Lan”.
Tiểu luận đi sâu vào nghiên cứu quán trình truyền bá đạo Phật vào Thái
Lan, thấy được ảnh hưởng của nó tới kiến trúc chùa nói chung và chùa Phạ
Kẹo nói riêng. Qua đó, chúng ta thấy đạo Phật giữ một vai trò quan trọng đối
với con người và đất nước Thái Lan.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu về ảnh hưởng của đạo Phật tới kiến trúc chùa Phạ Kẹo ở
Thái Lan, chúng tôi sử dụng phương pháp lôgic và phương pháp lịch sử. Kết
hợp với một số phương pháp khác như so sánh, tổng hợp…
5. Bố cục:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, phần nội dung gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về sự ra đời và nội dung cơ bản của đạo Phật.
Chương 2: Ảnh hưởng của đạo Phật tới kiến trúc chùa Phạ Kẹo ở Thái
Lan.

3


B- NỘI DUNG

Chương 1

KHÁI QUÁT VỀ SỰ RA ĐỜI VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐẠO PHẬT

1.1. Khái quát về sự ra đời của đạo Phật.
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời:
Đạo Phật là mộ trong 3 tôn giáo lớn trên thế giới, ra đời ở Ấn Độ cổ đại
khoảng thế kỷ thứ VI – TCN. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, đạo Phật đã thu
hút tới vài trăm triệu tín đồ và có mặt ở nhiều quốc gia trên khắp các châu lục.
Người dân Ấn Độ rất đỗi tự hào vì đã sản sinh ra đạo Phật.
Vậy đạo Phật đã ra đời trong hoàn cảnh lịch sử nào ?
Như chúng ta đã biết: Ấn Độ là một quốc gia lớn nằm ở Nam Châu Á,
có lịch sử lâu đời, là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại, là
đất nước sản sinh ra các tôn giáo như: Balamơn giáo, Phật giá, Jai na giáo…
Nơi đây có mặt hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Hin đu (Ấn Độ
giáo), đạo Phật, đạo Ixlam (Hồi giáo), đạo Thiên chúa… và đạo Phật được
xem là một trong những tơn giáo lớn, nó đã lan tỏa ra nhiều khu vực xung
quanh rồi trở thành tơn giáo chính thống của nhiều quốc gia. Từ thời vua
Asôca (273 – 36 TCN) đạo Phật trở thành quốc giáo và bắt đầu được truyền bá
ra bên ngoài.
Về mặt lịch sử, ta thấy xã hội Ấn Độ cổ đại được coi là xã hội có sự
phân chia đẳng cấp sâu sắc nhất với chế độ Varna. Với chế độ Varna toàn thể
cư dân Ấn Độ được chia thành 4 đẳng cấp với quyền lợi, địa vị và nghĩa vụ
khác nhau:
Đẳng cấp Bala môn
Đẳng cấp Xatơria
Đẳng cấp Vaisya
Đẳng cấp Xudra
4


Trong 4 đẳng cấp trên thì đẳng cấp Bala mơn ở vị trì xã hội cao nhất, có

nhiều đặc quyền đặc lợi, được xem là đẳng cấp cao quý, trong sạch nhất sánh
ngang với thần thánh, trong khi đó đẳng cấp Xudra lại có địa vị xã hội thấp
kém, là thân phận tơi tớ, khơng khác gì nơ lệ và động vật. Chế độ đẳng cấp
nghiệt ngã này lại được bảo hộ bởi đạo Bala môn. Chế độ đẳng cấp và tơn giáo
Bala mơn đã làm sự phân hóa giai cấp và những mẫu thuẩn trong xã hội Ấn
Độ ngày càng sâu sắc vì vậy đã xuất hiện những trào lưu tư tưởng chống lại
chế độ đẳng cấp và tôn giáo Bala môn. Phật giáo là một đại diện cho trào lưu
tiến bộ đó.
1.1.2. Sự ra đời của đạo Phật:
Theo truyền thuyết thì đạo Phật ra đời vào thế kỷ VI – TCN người sáng
lập ra đạo Phật là Xitdacta Gơtama (Siddharta Gautama), là một hồng tử con
vua Sutdơđana (Suddhodana) nước Kapilavaxtu ở chân núi Hymalaya. Mặc dù
là một hoàng tử được sống trong cảnh xa hoa, tráng lệ với những buổi yến tiệc
và đông đảo người hầu hạ nhưng đã không làm cho ông vui mà càng làm tăng
nỗi buồn trong ông.
Là người nhân từ Gôtama luôn thông cảm với cảnh nghèo khổ của con
người và đã nhiều lần ông tìm cách trốn ra khỏi cung điện để tìm hiểu cuộc
sống bên ngồi. Và trong những lần đó lần thì ơng gặp một người gia nua lọm
khọm, lần thì gặp một người ốm đang đau đớn rên rỉ, khi lại thấy người chết
mà những người thân thích đem đi chơn, khóc lóc thảm thiết… Trơng thấy
những cảnh buồn đau, phiền não của người đời ơng thấy lịng buồn vơ hạn.
Lần sau cùng Gơtama ra ngồi cửa thì gặp một nhà tu hành hình dáng đoan
trang,vẻ mặt nghiêm nghị. Ơng hiểu rằng chỉ có sự tu hành mới giải thốt
được con người ra khỏi cảnh đau buồn, cảnh khổ não ở trần gian. Từ đó đêm
ngày Gơtama nghĩ cách xuất gia đi tu. Một hôm sau một bữa yến tiệc, khi mọi
người đã say sưa và yêu ắng, ông đã gọi người hầu thân cận của mình đi lấy
5


ngựa cho, ơng lén mở cửa thành đi ra ngồi với người hầu đó mà khơng ai hay

biết. Ra khỏi cửa thành ông phát lên lời thề: “Nếu ta không diệt được sự đau
buồn khổ não và không đạt được cái đạo chân thực thì ta khơng về qua cửa
này nửa”. Khi Gơtama rời bỏ cuộc sống gia đình êm ấm của mình để đi tìm
con đường cứu vớt cho chúng sinh, năm ấy ơng vừa trịn 29 tuổi.
Rời cung điện ơng lại tiến về phía bắc, về miền núi Tuyết. Sau gần 6
năm tu hành khổ hạnh nhưng Gôtama vẫn chưa tìm được lời giải đáp. Ơng vẫn
chưa tìm được ra chân lý cứu khổ cho đời. Ông chợt nghĩ ra rằng “ta tu khổ
hạnh như thế này mà khơng thấy rõ đạo thì cách tu của ta vẫn chưa phải” và
ơng đã trở lại cuộc sống bình thường. Ơng liền đứng dậy đi xuống sơng tắm,
khi đó có một người đàn bà chăn bò đem bát sữa đến mời ơng uống, uống
xong ơng thấy trong mình khoan khối, dễ chịu. Sau đó ơng đến chỗ có cây bồ
đề, lấy lá cây làm đệm, lặng yên suy nghĩ rồi phát ra lời thề “Nếu ta ngồi đây
mà không giác ngộ được đạo thì quyết khơng đứng dậy nữa”.
Sau 49 ngày ngồi dưới gốc cây bồ đề, mặt hướng về phía Đơng suy nghĩ
các lẽ về sự đau khổ của chúng sinh và ngun do của sự biến hóa vơ thường
trong thế gian. Sau những năm tháng tu luyện khổ hạnh và không ngừng suy
nghĩ, năm 35 tuổi, vào một buổi sớm mai lúc rạng đông Xitdacta Gôtama đã
đắc đạo. Nghĩa là ông thấu suốt hết thảy mọi lẽ của tạo hóa, tìm ra được nguồn
gốc của mọi đau khổ và tìm được con đường cứu vớt cho chúng sinh. Sau khi
giác ngộ ơng tự nhận mình là Buddha tức là người giác ngộ.
Sau khi thành Phật ông được các đệ tử tơn xưng là Xakia Muni (Thích
ca mâu ni – nghĩa là vị hiền triết). Sự giác ngộ có ý nghĩa nhất đối với ngài là
tìm ra Tứ diệu đế. Sau khi được giác ngộ ngài tiếp tục truyền đạo trong vòng
45 năm. Những giáo lý mà ngài truyền bá được lưu giữ lại. Đến năm 80 tuổi
Phật tịch.

6


Đạo Phật với tư tưởng từ bi, bác ái, đem lại sự bình đẳng và dân chủ cho

mọi người trong xã hội. Chính vì lẽ đó mà ngay khi đạo Phật mới ra đời quần
chúng nhân dân đã hưởng ứng đông đảo. Nhiều vua chúa và tầng lớp quý tộc
cũng đi theo vì chủ trương bình đẳng giữa các chúng sinh. Đến thế kỷ III –
TCN đạo Phật được truyền bá ra bên ngồi.
1.2: Giáo lí – Giới luật.
1.2.1. Giáo lí:
Giáo lí của đạo Phật là bộ Tam tạng kinh điển gồm Kinh tạng, Luật tạng
và Tạng luận. Qua Tam tạng kinh, đạo Phật đã bày tỏ quan niệm về thế giới
quan và nhân sinh quan. Dưới đây xin được đi giới thiệu cụ thể về giáo lí đạo
Phật.
- Kinh điển của đạo Phật là kinh Tam tạng hay gọi là Tam tạng kinh
gồm: Kinh, luật, luận.
- Kinh tạng: là sách ghi lời dạy của đức Phật về giáo lí do đệ tử A Nam
Đa tập hợp lại trong 5 bộ kinh: Kinh tạng dài của đức Phật; Trung bộ kinh;
Tương ứng bộ kinh (là những bài thuyết pháp theo từng đề tài); Tăng bộ kinh
(gồm những bài thuyết pháp theo từng pháp); Tiểu bộ kinh (gồm 15 bài kinh
xưa nhất).
Hiện nay cả hai phái Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa đều thừa nhận 5 bộ
kinh này. Phái Tiểu thừa còn giữ lại một số bộ kinh khác như: Hoa nghiêm
kinh, Kim cương kinh…
Luật tạng: Là bộ sách ghi các giới luật do Phật định ra làm khuân phép
cho các đệ tử, nhất là đối với những người xuất gia đi tu trong sinh họat hàng
ngày, trong tu đạo học…Tạng luật do đệ tử Ưu Bà Ly sưu tập.
Tạng luật: Là cuốn sách được các đệ tử của Phật viết khi Phật qua đời.
Luận tạng nhằm giới thiệu giáo lí Phật giáo một cách có hệ thống, cũng như để

7


uốn nắn những nhận thức sai trái, lệch lạc, những quan điểm xuyên tạc giáo

thuyết của đạo Phật.
Với Tam tạng kinh chúng ta có thể khái quát nên quan niệm về nhân
sinh quan và thế giới quan của đạo Phật.
Về mặt nhân sinh quan:
Nhân sinh quan của đạo Phật chủ yếu được thể hiện qua thuyết “Tứ diệu
đế” và thông qua thuyết “Ngũ uẩn”.
Thuyết “Tứ diệu đế” đó là chân lí về nỗi khổ và sự giải thốt khỏi nỗi
khổ bao gồm: Khổ đế, tập đế, diệt đế và đạo đế.
- “Khổ đế”: Là chân lí nói về nỗi khổ của con người. Phật cho rằng đời
là bể khổ: sinh, lão, bệnh, tử, oán tăng hội khổ, thụ biệt li khổ, sở cầu bất đắc
khổ, ngũ thụ uẩn khổ. Khổ đau là vô tận và tuyệt đối. Đối với con người thì
ngồi khổ đau vơ tận thì khơng cịn tồn tại nào khác. Đạo Phật cho rằng chết
không phải là hết khổ, khơng phải là giải thốt mà là tiếp tục sự khổ mới.
- “Tập đế”: Là chân lí nói về nguyên nhân của nỗi khổ. Nguyên nhân nỗi
khổ là do dục vọng – lòng ham muốn của con người như: ham sống, ham
quyền lực, ham giàu sang… Phật Tổ giải thích nguyên nhân sâu xa của sự khổ
đau là do “Thập nhị nhân duyên” tức là 12 nhân duyên này tạo ra chu trình
khép kín trong mỗi con người gồm: Vô minh, Hành, Thức, Sắc, Lục nhập,
Xúc, Thụ, Ái , Thủ, Hữu, Sinh, Lão.
Theo quan điểm của đạo Phật thì “Thập nhị nhân dun” gắn bó với
nhau một cách hữu cơ, cái này là nhân của cái kia.
- “Diệt đế” là chân lí về sự cần thiết chấm dứt nỗi khổ, vì mục tiêu cuối
cùng của đạo Phật là cứu vớt, muốn cứu vớt phải giải thoát con người khỏi
nghiệp chướng luân hồi. Đạo Phật cho rằng muốn thoát khỏi bể khổ trầm luân
phải loại bỏ, tiêu diệt lòng ham muốn của con người. Nguồn gốc sâu xa của sự
khổ não là sự vận hành của “Thập nhị nhân duyên” mà khởi đầu là “vô minh”.

8



Vì vậy muốn diệt khổ thì phải diệt trừ “vơ minh” để không kéo theo những
hành động tạo ra “nghiệp” nữa. Như thế nỗi khổ được chấm dứt.
- “Đạo đế”: Là chân lí về con đường diệt khổ, cách thức tu hành để đạt
đến sự giải thoát.
Theo Phật để diệt khổ con người phát thực hiện “Bát chính đạo” và
“Tam học”.
- “Bát chính đạo”: Tức là 8 con đường chân chính. Đó là: Chính kiến,
chính tư duy, chính nghiệp, chính ngữ, chính mệnh, chính tịnh tiến, chính
niệm, chính định.
- “Tam học” gồm: giới, định, tuệ – là tiến trình tu hành để đạt đến sự
giác ngộ.
Giới là những điều răn cấm, những quy định mà những người tu hành
phải thức hiện.
Định là phương pháp giúp người tu hành không bị loạn thân và tâm.
Tuệ là người tu hành cần có trí tuệ sáng suốt để diệt trừ vơ minh, tham
dục, nhận thức được chân lí cuộc sống; suy nghĩ làm việc thiện, mưu lợi cho
chúng sinh.
Phật cũng dạy rằng chỉ khi giữ được giới thì tâm mới định. Chỉ khi tâm
định thì tuệ mới phát sinh.
Thuyết “Ngũ uẩn”:
Theo quan niệm của đạo Phật con người không phải do thượng đế hay
một lực lượng siêu nhiên nào đó sinh ra, mà cho rằng con người là do “Ngũ
uẩn” hợp thành. “Ngũ uẩn” gồm hai phần: phần sinh lí và tâm lí. Theo quan
điểm của đạo Phật khi mà “Ngũ uẩn” hợp, tức là phần tâm lí và sinh lí hợp lại
với nhau được gọi là sinh. Khi “Ngũ uẩn” tan ra gọi là diệt. Cứ thể con người
ln nằm trong vịng luân hồi sinh – trụ – dị – diệt.
Về mặt thế giới quan:
Thế giới quan của Phật giáo được thể hiện ở ba chủ trương: “vô ngã”,
“vô thường” và quy luật nhân duyên.
9



- “Vô ngã”: Phật giáo quan niệm rằng thế giới là thế giới vật chất, bản
thân vũ trụ và các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ, không phải do một đấng
thần linh nào tạo ra bằng những phép màu nhiệm mà được tạo nên bởi những
phần vật chất nhỏ bé nhất của vũ trụ và được gọi là “bản thể” và “thực tướng”.
Đó là điểm mà đạo Phật khác với tôn giáo khác như đạo Bala môn, đạo Hồi…
- “Vô thường”: Trong vũ trụ bao la mọi sự vật, hiện tượng không đứng
yên mà luôn chuyển động, biến đối. Đạo Phật cho rằng sự vận động ấy diễn ra
theo một chu trình nhất định. Đối với thực vật đó là chu trình: Thành – trụ –
hoại – khơng, đối với động vật đó là chu trình: sinh – trụ – dị – diệt.
- Quy luật nhân duyên: Đạo Phật cho rằng mọi sự vật, hiện tượng trong
vũ trụ chuyển động biến đổi đều bị chi phối bởi quy luật nhân duyên, tức là sự
vật, hiện tượng trong vũ trụ do nhân duyên mà thành. Khi nhân duyên hòa hợp
là sự vật sinh, khi nhân sinh tan rã là sự vật diệt. Tùy theo sự kết hợp nhân
duyên mà thành các sự vật, hiện tượng khác nhau.
1.2.2. Giới luật:
Nội dung chủ yếu của giới luật là những điều kiêng kị đối với tín đồ
đạo Phật (tu tại gia cùng như đối với các tăng ni). Giới luật bao gồm “Ngũ
giới” và “Thập thiện”:
- “Ngũ giới”: gồm có 5 điều răn cấm:
Khơng sát sinh.
Khơng trộm cắp.
Khơng tà dâm.
Khơng nói dối.
Khơng uống rượu.
- “Thập thiện”: Là 10 điều thiện cần làm gồm:
Ba điều thiện về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, khơng tà dâm.
Bốn điều thiện về khẩu: Khơng nói dối, khơng nói hai chiều, khơng nói
điều ác, khơng nói thêu dệt.

10


Ba điều thiện về ý: Không tham lam, không giận dữ, khơng tà kiến.
Ngồi ra đối với những người tu hành cịn phải thực hiện 5 điều cấm
sau:
Khơng được trang điểm và không được dùng nước hoa.
Không được nằm giường có đệm và giường đơi.
Khơng được xem ca hát và xem múa.
Không được giữ vàng bạc.
Không được ăn quá giờ qui định.
Như vậy với những điểm tích cực, như khơng quan tâm đến chế độ đẳng
cấp, bình đẳng giữa các chúng sinh với tinh thần “từ bi hỉ xả”, “vô ngã vị tha”,
hòa hợp, khoan dung, khuyên người ta tránh điều ác làm điều thiện… để được
giải thốt; khơng thừa nhận thượng đế và các vị thần bảo hộ. Do đó khơng cần
nghi thức cúng bái, lễ nghi của đạo Phật đơn giản, không tốn kém cho nên
tầng lớp thầy cúng khơng có lý do để tồn tại. Chính vì vậy ngay từ khi mới ra
đời đạo Phật đã được đông đảo quần chúng ủng hộ, tin theo.
1.3. Các tông phái chính và sự phát triển bước đầu của đạo Phật:
Khơng phải khi đạo Phật mới ra đời đã hình thành ngay được một hệ
thống giáo lý của tôn giáo này. Sự hồn chỉnh và phát triển của giáo lí đạo
Phật được trải quan nhiều lần đại hội, gọi là hội nghị kết tập. Thơng qua các
đại hội đó giáo lí của đạo Phật được tập hợp, chỉnh lí và phát triển.
Hội nghị kết tập lần thứ nhất: Sau khi Phật Thích Ca qua đời (483 –
TCN). Nội dung chủ yếu của hội nghị là nhằm giải quyết những bất đồng về
cách kiến giải những lời giải thích của đức Phật cũng như những nguyên tắc tu
hành mà đức Phật đề ra. Đợt kết tập này có 500 tỳ kheo tham gia và kéo dài
trong vòng 7 tháng.
Hội nghị kết tập lần thứ hai: Sau khi đức Phật Thích Ca mất được 100
năm. Vào thế kỷ thứ IV – TCN diễn ra Đại hội Phật giáo lần thứ hai, gồm 700

11


tỳ kheo tham gia và kéo dài trong vòng 8 tháng. Nội dung chủ yếu của Đại hội
này là giải quyết những bất đồng về việc thực hành giới luật và việc luận giải
kinh điển. Lần kết tập này trong nội bộ các tỳ kheo chia ra thành hai phái, đó
là phái trưởng lão có tư tưởng bảo thủ và phái trẻ có tư tưởng canh tân.
Hội nghị kết tập lần thứ ba: Diễn ra tại kinh đô Pata liputơra vào thế kỷ
thứ III – TCN do vua Asôka triệu tập với khoảng 1000 tỳ kheo, thời gian họp
kéo dài 9 tháng. Tại Đại hội này giáo lí, giới luật cùng những lời luận giải của
đạo Phật được ghi thành văn bản và chính trong đợt kết tập này các tăng đoàn
Phật giáo đã được thành lập để bắt đầu truyền bá đạo Phật ra bên ngoài Ấn Độ.
Hội nghị kết tập lần thứ tư: Diễn ra vào nửa đầu thế kỷ thứ II dưới triều
vua Kaniska, có sự tham gia của 500 tỳ kheo. Đại hội đã hoàn chỉnh kinh điển
của đạo Phật, chính trong q trình luận giải kinh điển đạo Phật chính thức
phân thành hai phái: Phái Đại thừa và phái Tiểu thừa.
Thông qua bốn lần kết tập giáo lí của đạo Phật đã hồn chỉnh và từ đó
cũng xuất hiện nhiều mơn phái tiêu biểu nhất là hai phái Đại thừa và Tiểu
thừa. Giữa hai phái Đại thừa và Tiểu thừa có nhiều điểm khác nhau: Nếu phái
Tiểu thừa (Hyayana: nghĩa là “cỗ xe nhỏ” hay “con đường nhỏ của sự cứu
vớt”) chủ yếu phát triển về phía Nam, cịn gọi là Phật giáo Nam tơng. Phật
giáo Tiểu thừa cho rằng chỉ những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt. Từ
đó đưa ra chủ trương “Tự độ tự tha” tức là người theo phái Tiểu thừa tự giác
ngộ và tự giải thoát cho bản thân mình. Phái Tiểu thừa quan niệm rằng trên đời
này chỉ có một vị Phật duy nhất đó là Phật Thích ca và chỉ có duy nhất Phật
Thích ca mới có thể cứu độ được cho chúng sinh. Cịn phái Đại thừa
(Mahayana: nghĩa là “cỗ xe lớn” hay “con đường lớn của sự cứu vớt”) lại cho
rằng không chỉ những người tu hành mà cả những người trần tục theo Phật
cũng được cứu vớt. Từ đó đưa ra chủ trương “tự độ tự tha, tự giác tự tha”, có
nghĩa là người theo Phật giáo Đại thừa không chỉ tự giải thốt cho mình mà

12


cịn có thể giải thốt cho người khác. Phái Đại thừa cho rằng Phật Thích ca là
Phật cao nhất, nhưng ngồi Phật Thích ca cịn có nhiều Phật khác như Phật A
di đà, Phật Di lặc…
Về sự giải thoát và cõi Niết bàn hai phái cũng có những điểm khác nhau.
Phái Tiểu thừa cho rằng sinh tử luân hồi và Niết bàn là hai phạm trù khác biệt
nhau. Đại thừa cho rằng sinh tử luân hồi và Niết bàn không phải là hai phạm
trù khác biệt.
Về thờ phụng: Tại chùa theo phái Tiểu thừa chỉ thờ Phật Thích ca ngồi
ra khơng có pho tượng nào khác. Người tu hành mặc áo vàng, hàng ngày đi
khất thực trong dân chúng. Tại các chùa theo phái Đại thừa, nơi chính điện thờ
rất nhiều tượng Phật. Ngồi thờ tượng Phật Thích ca họ còn thờ cả tượng Phật
A di đà, Quan âm Bồ tát… Người tu hành theo phái Đại thừa mặc áo nâu tự
lao động kiếm sống. Như vậy có hai tơng phái chính của đạo Phật là Tiểu thừa
và Đại thừa. Hai tơng phái này trong q trình phát triển của mình đã ảnh
hưởng rộng rãi tới nhiều quốc gia và nhiều khu vực khác của thế giới. Cùng
với sự tiếp thu những yếu tố ngoài lai ở những nơi đạo Phật truyền đến đã làm
cho đạo Phật trở thành một tơn giáo có tính chất quốc tế. Nơi tập trung nhiều
tín đồ Phật giáo là Đơng Nam Á chiếm 94% số tín đồ của đạo Phật trên tồn
thế giới. Và trong khu vực Đông Nam Á, Thái Lan là một quốc gia Phật giáo
tiêu biểu với sự lựa chọn Phật giáo Tiểu thừa cho con đường phát triển tôn
giáo của mình.
Chương 2
ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẠO PHẬT TỚI KIẾN TRÚC CHÙA PHẠ KẸO Ở THÁI LAN

2.1. Sự du nhập của đạo Phật vào Thái Lan:
Nói đến Thái Lan là nói đến một quốc gia Phật giáo tiêu biểu của khu
vực Đông Nam Á cũng như của thế giới. Tôn giáo truyền thống của Thái Lan

13


là Phật giáo Tiểu thừa, được bắt nguồn từ các trung tâm Phật giáo ở Srilanca
(cũng gọi là Phật giáo Hyayara hoặc Phật giáo phương Nam).
Phật giáo du nhập vào Thái Lan từ rất sớm, từ trước khi người Thái tràn
xuống đây. Các truyền thuyết và các chứng tích cho thấy Phật giáo đã có mặt
ở đây vào đầu cơng ngun, người Mơn và người Khơ me là những tín đồ đầu
tiên của Phật giáo.
Phật giáo Tiểu thừa nguyên thủy đã có mặt ở Thái Lan rất sớm, ít nhất
cũng từ những thế kỷ đầu công nguyên. Năm 214 – TCN, vua Asôca (Ấn Độ)
làm lễ, mời đức Mục kiền liên chứng giám cuộc kết tập Kinh tạng lần thứ ba.
Ngay sau sự kiện trọng đại đó nhà vua đã cho hàng lọat các nhà sư đi “hoằng
dương Phật pháp” ở tất cả các nước lân cận. Trong chín hướng đi ấy, theo cổ
sử của Srilanca, hai nhà sư Sôna và Uttaradi ở hướng thứ tám đến địa phận
Suphan Buri. Đó là vùng đất Thatong của miền Tây Thái Lan.
Khoảng thế kỷ VI nhà nước Tharavadi được thành lập. Tharavadi phát
triển từng bước, dần dần củng cố được địa vị. Có thể từ cuối thể kỷ VI
Tharavadi đã trở thành quốc gia hùng mạnh, sau đó dần suy thối, song vẫn
giữ đựơc địa vị quốc gia độc lập cho đến thế kỷ X. Tharavadi tương ứng với
vùng đất miền Đông và miền Trung Thái Lan hiện nay.
Tharavadi đã tiếp thu tôn giáo và nghệ thuật của Ấn Độ qua những di
vật tìm được cho thấy nghệ thuật của vương quốc này mang phong cách nghệ
thuật Phật giáo Tiểu thừa của Ấn Độ như: bánh xe luân hồi bằng đá, các tấm
thờ có hình Phật bằng đất nung Nakhon Pathom…Ngay ở xung quanh tháp
Phathama Cetiya đã khai quật được rất nhiều tượng Phật. Các hiện vật này
được lưu giữ trong các bảo tàng, một số hiện vật có giá trị lớn đã được đưa về
viện bảo tàng quốc gia Bangkok, trong số đó có mấy pho tượng đá xanh cịn
ngun vẹn, diện mạo và kiểu áo cà sa rất gần gũi với nghệ thuật trang phục
thời Gupta (Ấn Độ). Pho tượng có niên đại sớm nhất là pho tượng ngồi ở tư

14


thế đang chuyển pháp luân xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ VI. Ngồi ra cịn
có rất nhiều tượng Phật bằng đá, tượng kim loại, tượng đất lớn nhỏ và hình
Phật cịn nhìn thấy ở các vùng Lốpburi, Cịrạt, Supham… Ở bờ hữu ngạn sơng
Mê kơng, cịn một thơn nhỏ tên là Pongtuk, gần khu vực này tìm thấy nhiều di
chỉ kiến trúc xưa như chân đế tháp Phật bằng đất đỏ và nền điện thờ hình
vng, có chỗ cịn tìm thấy gạch vng xây chân móng và phần đáy hình ngơi
tháp gạch, cấu tạo giống với ngun hình tháp cổ ở Phathama.
Vào cuối thể kỷ thứ IX, vương triều Ăng co (Campuchia) ngày càng lớn
mạnh. Vào khoảng thế kỷ VIII Phật giáo Đại thừa đã truyền đến Tômônđáplạp
và Trảooa. Các nhà sư đã xuất gia truyền đạo Đại thừa đều xuất phát từ
Kasimra. Đến Tômôđáplạp và Trảooa đúng lúc vương triều Srivijaya hưng
thịnh, vương triều này đã tôn thờ Phật giáo Đại thừa. Khi nhà nước Srivijaya
hùng mạnh uy thế vang dội đến tận Malayxia và cả vùng Pattani và Surathani
thuộc miền Nam Campuchia ngày nay, Phật giáo Đại thừa theo đó đã truyền
vào Malayxia và miền Nam Thái Lan. Trong suốt 4 thế kỷ tồn tại, Srivijaya là
một trong những trung tâm Phật giáo lớn nhất ở Đông Nam Á. Và Phật giáo
Đại thừa dưới thời Srivijaya truyền vào miền Nam đất Thái nhưng chưa truyền
đến miền Trung và miền Bắc.
Từ Suriyavarman đệ nhất (1002 – 1050) của Campuchia, tạo sự ảnh
hưởng về nhiều mặt đến Thái Lan. Ở Thái Lan đã xây dựng được nhiều khu tự
trị: Trung tâm Lốpburi đã thống trị khu vực từ Tharavadi xuống phía Nam, cịn
trung tâm Sukhơthay thống trị lên phía bắc. Phật giáo trong thời kỳ này có cả
Phật giáo Tiểu thừa và Đại thừa song Phật giáo Tiểu thừa khơng cịn được
hưng thịnh khi nhà nước Suriyavarman bắt đầu suy vong thì Phật giáo Đại
thừa lại truyền vào Campuchia rồi ảnh hướng đến miền Trung và miền Nam
Thái Lan và đã nhanh chóng phát triển. Rất nhiều chùa chiền đã được xây


15


dựng ở vùng này. Tuy nhiên vẫn có rất nhiều người tin theo Phật giáo Tiểu
thừa.
Từ thế kỷ II đến thế kỷ I – TCN, người Thái cư trú ở các vùng đất thuộc
phía Nam Trung Quốc đã di chuyển mạnh xuống phía Nam và dựng lên hai
quốc gia là Lanxang (trên đất Lào hiện nay) và Lana (ở phía Bắc Thái Lan
hiện nay). Lana là vương quốc đầu tiên của đất nước Thái Lan. Trước khi di
cư, cư dân Lana chịu ảnh hưởng văn hóa của người Mơn và người Campuchia,
sau khi vương quốc Lana ra đời thì cư dân nơi đây lại tiếp thu văn hóa của
vương triều Pagan (Myanma). Các kiến trúc Phật giáo của Thái Lan ở thời kỳ
này mang những đặc trưng của phong cách kiến trúc Phật giáo Myanma như
chùa Bảy tháp ở phủ Chiêng mày. Do chịu ảnh hưởng của Phật giáo Pagan nên
họ đã tin theo Phật giáo Tiểu thừa. Còn người Thái từ thành Sukhơthay trở
xuống phía Nam lại chịu ảnh hưởng của Phật giáo Đại thừa truyền từ
Campuchia sang.
Năm 1155, vua Para kramabaru đệ nhất của Srilanca làm chấn hưng nền
Phật giáo đã suy vi từ lâu. Các nhà sư ở vương triều Pagan của người Môn đi
sang du học ở Srilanca. Đến khi họ đã thụ giới tỳ kheo của các tăng đoàn ở
Srilanca, rồi hoàn thành thụ học thì quay trở về nước mình truyền bá đạo Phật.
Năm 1257, ở Srilanca có vị tỳ kheo tên là Pahula từ Pagan đi sang vùng
Lục khôn ở miền Nam Thái Lan để truyền đạo, xây dựng tăng đoàn Srilanca,
được quốc vương và nhân dân chào đón. Tăng đồn Phật giáo kiểu như
Srilanca đã vào Lục khôn từ rất sớm được quốc vương tin tưởng, liền thỉnh
cầu các sư tăng thuộc Srilanca đến hoằng dương Phật pháp ở thành Sukhôthay.
Khi nhà nước Xukhơthay (1237 – 1436) ra đời thì Phật giáo mới trở
thành tơn giáo chính của người Thái Lan. Khi đã trở thành cư dân chủ thể của
một quốc gia thống nhất, thì Phật giáo cũng đã phát triển và phân chia thành
nhiều tông phái khác nhau là Đại thừa và Tiểu thừa. Song người Thái lại

16


khơng chọn những dịng vốn có lâu đời trên đất Thái, mà lại nhanh chóng tiếp
nhận một trào lưu Phật giáo mới từ Srilanca tới và đưa nó lên làm quốc giáo
đó là Phật giáo Tiểu thừa. Cho đến nay tôn giáo của vương quốc Thái Lan vẫn
là Phật giáo Tiểu thừa.
2.2. Khái quát đạo Phật thời kỳ Bangkok:
Thời kỳ Bangkok là thời đại của các triều vua Rama- vương triều này
hiện vẫn đang tiếp tục trị vì vương quốc Thái Lan. Vị vua khai sinh triều đại
này là Rama I, trước khi lên ngai vàng ông là một viên tướng có tài cầm qn
xơng pha trận mạc, tên ơng là Chăckri. Ơng phục vụ cho vương triều Thơnburi
do vua Phìa Tạc Xỉ người Hoa sáng lập nên.
Các vương quốc láng giềng của Thơnburi bấy giờ đều trong tình trạng
suy yếu.Chiang Mai lúc đó nằm dưới ách thống trị của phong kiến Mianma.
Lào Lanxang thì bị chia cắt thành ba tiểu quốc. Tình hình đó đã tạo điều kiện
thuận lợi cho phong kiến Xiêm bành trướng thế lực của mình đối với các nước
xung quanh.
Vương triều Thônburi thuộc vương quốc Xiêm, cũng như các vương
quốc láng giềng như Lào - Lanxang, Khơ me - Ăng co đều là những quốc gia
sùng bái đạo Phật. Trong quá trình đánh chiếm các vương quốc này, Chăckri
khơng chỉ cướp bóc tài sản, giết người mà ơng cịn cho qn lính cướp nhiều
tượng Phật trong các chùa chiền của các nước làng giềng để đưa về xin thờ
cùng.Từ đó Chăckri cảm thụ được những giá trị văn hóa Phật giáo của các
nước này. Sau này ơng đã cho xây dựng rất nhiều cơng trình Phật giáo mang
ảnh hướng kiến trúc của những nước mà ông đã từng đến, từng đi qua.
Năm 1782 kinh thành Thôn buri bỗng nhiên sinh ra phản loạn Chăckari
nhân cơ hội đó đã giết chết Phìa Tạc xỉn và tự mình lên ngơi vua lấy hiệu là
Rama.


17


Rama I lên ngôi, liên dời đô từ Thôn buri ở bờ phía Tây sơng Mê Nam
sang bờ phía Đơng của dịng sơng này và lấy tên thủ đơ là Bangkok. Từ đó đến
nay, thủ đơ Bangkok của Thái Lan đã tồn tại được trên 200 năm. Trong suốt
thời gian này Phật giáo được khuyết khích và phát triển hơn bao giờ hết. Tất cả
9 vị vua của triều đại Rama đều nâng đỡ và hoằng dương Phật pháp.
Vua Rama I (1782 – 1808) cùng với việc xây dựng lâu đài, cung điện
của thủ đô mới đã bắt tay ngay vào xây dựng mới và trùng tu chùa chiền.
Trong suốt thời gian trị vì của mình, ơng vừa xây dựng mới và vừa trùng tu lại
26 ngôi chùa.Vua Rama I không những chú ý đến việc quy hoạch và xây dựng
những chùa chiền mới mà cịn ln quan tâm đến mọi mặt của việc xây dựng
một ngôi chùa cụ thể – như việc ông quan tâm đến việc đặt tên cho một ngôi
chùa. Hầu hết các vương quốc láng giềng của Thái Lan để chứng minh cho sự
phát triển của đạo Phật ở nước mình thì khi đặt tên cho các ngôi chùa nổi tiếng
họ thường đặt tên là vat Luổng (có nghĩa là chùa lớn, chùa vĩ đại hay ngôi tháp
lớn nhất, đẹp nhất), là tháp Luổng (nghĩa là tháp lớn, tháp vĩ đại). Như ở
Chiang Mai chê đi Luổng, Chiang Rai cũng có chê đi Luổng.
Ở Bangkok có rất nhiều chùa lớn được xây dựng như ngôi chùa cổ có
tên là vat Nitthanaran, sau khi xây dựng xong nhà chùa đã đổi tên là vat Thaxi
xẳng phết sau đó chùa lại tiếp tục được đổi tên là Va Maharat và tên đó được
tồn tại cho đến ngày nay.
Dưới thời vua Rama I đã trưng dụng 10 ngàn dân công Khơ me và 50
ngàn người Lào đến xây dựng hoàng cung và chùa Phạ Kẹo (chùa Phật Ngọc)
ở Bangkok suốt 3 năm dịng. Ơng đã xây dựng chùa Phạ Kẹo ở trong hồng
cung và cho xây dựng 13 ngơi chùa khác nhau như chùa Bồ đề xây trong 7
năm mới xong. Năm 1808 pho tượng cao 6m đưa từ Su khô thay về đặt ở chùa
Su dassana mới được xây dựng ở trung tâm thành Bangkok.Cùng với đó, vua
Rama I ra sức cải cách và củng cố các tăng đoàn.


18


Các nhà vua kế tiếp cũng noi gương Rama I ra sức xây dựng chùa tháp
và hoằng dương Phật pháp.
Vua Rama II (1809 – 1824) xây mới và trùng tu 4 ngôi chùa; vua Rama
III (1824 – 1852) xây mới và trùng tu 27 ngôi chùa; vua Rama IV (1852 –
1868) xây mới và trùng tu 14 ngôi chùa; vua Rama V (1868 – 1910) xây mới
và trùng tu 4 ngơi chùa.
Chỉ trong vịng 5 đời vua Rama trị vì, số chùa được xây dựng là 75 ngơi
chùa (tính riêng ở Bangkok). Từ thời vua Rama V đến nay, mặc dù chưa có số
liệu thống kê đây đủ, số chùa tháp mới được xây dựng tuy không bằng 5 vị
vua đầu song khơng phải là khơng có thêm những ngơi chùa mới.
Một thuận lợi lớn cho sự phát triển của Phật giáo thời kỳ Bangkok là
trong suốt 200 năm Bangkok khơng có chiến tranh.Vì vậy chùa tháp ở đây
khơng hề bị chiến tranh tàn phá mà nó chỉ bị hư hỏng theo thời gian và do mưa
nắng. Cho nên chùa tháp ở Bangkok vẫn còn giữ nguyên được những nét huy
hoàng của thời khởi tạo.
Các nhà nghiên cứu ở trường Đại học Chula – Longkorn Bangkok đã
phân chia sự phát triển của chùa tháp thời kỳ Bangkok ra làm 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đầu từ 1872 đến 1854,đó là thời kỳ trị vì của 3 vị vua Rama
I, Rama II, Rama III. Các vị vua thời kỳ này đều rất chú ý đến việc phát triển
Phật giáo ở Thái Lan. Thời kỳ Rama III (1824 – 1851) em trai vua là Maha
Môngkut đã nghiên cứu Phật pháp tinh thông Tam tạng và hiểu biết tiếng
Phạm, tiếng Pali, tiếng Anh mong muốn cải cách Phật giáo. Năm 1829 ông
sáng lập ra phái Pháp tông.
ở giai đoạn này kiến trúc chùa tháp Bankok tiếp nối truyền thống của
kiến trúc Phật giáo thời Ayuthay. Vì vậy việc xây dựng chùa đều lấy hình mẫu
Ayuthay. Đây cũng là thời kỳ mà chùa chiền được xây dựng nhiều nhất, tiêu


19


biểu như vat Phra xari rattana xarạ taram (vat Phạ kẹo), vat Phạ chêttuphôn
(vat phô), vat Mạ hảthatu...
Các vùng đất được lựa chọn để xây dựng chùa thường là ở các vùng đất
rộng rãi ven sơng và ven các dịng kênh, có phong cảnh đẹp, thống đãng. Các
chùa được xây dựng khơng chỉ vị trí đẹp mà cịn rất thuận lợi cho việc sinh
sống và tu hành, học tập cũng như lo việc lễ Phật của nhân dân và khách đến
thăm chùa.Việc xây chùa khơng chỉ có bậc vua quan, q tộc quan tâm mà cịn
cuốn hút đơng đảo nhân dân tham gia xây dựng.
- Giai đoạn từ:1851 – 1929, đó là thời kỳ trị vì của vua Rama IV, Rama
V, Rama VI.
Vào thời Rama IV Thái Lan bắt đầu mở cửa cho người Phương Tây đến
làm ăn, buôn bán và sinh sống.Thủ đô Bangkok cũng ngày càng được thay đổi
với việc xây dựng các cơ sở vật chất theo kiểu Phương Tây, các nhà máy gỗ,
xe lửa... đã được xây dựng. Rama V tiếp tục công cuộc xây dựng đất nước của
Rama IV. Thái Lan thực sự thay đổi về mọi mặt kinh tế, xã hội, văn hóa theo
chiều hướng phát triển của Phương Tây. Sự thay đổi đó đã ảnh hưởng đến sự
phát triển của đạo Phật.Thời đại Rama V vua Chu la long kon,thì các vương
quốc xung quanh đều là thuộc địa của Phương Tây. Để thoát khỏi sự khống
chế của nước ngồi nhà vua đã tìm mọi cách như thực hiện duy tân, cải cách
hành chính, kiến thiết đất nước, đặc biệt là thực hiện các sách lược ngoại giao
khơn khéo mềm dẻo.Vì thế Thái Lan vẫn giữ được địa vị độc lập của một quốc
gia.
Rama V ra sức ủng hộ Phật giáo, tổ chức biên soạn bộ Tam tạng tiếng
Pali. Năm 1893 thành lập học viện Mahamakút Rajavidylaya trong chùa
Bovaranives làm trung tâm nghiên cứu Phật học cao cấp. Năm 1902 vua ban
hành điều ước tăng đồn, đặt thành pháp quy, dựng chùa Đại lí, Phật điện và

hành lang xung quanh đều xây dựng bằng đá mua từ Châu Âu. Đây là một

20


trong những ngôi chùa nổi tiếng ở Bangkok. Các chùa Kajpodidh, chùa
Tepsriudravas cũng được xây dựng.
Các chùa tháp được xây dựng thời Rama IV, Rama V và Rama VI nhỏ
hơn hẳn những chùa tháp được xây dựng dưới ba triều vua đầu tiên. Lúc này
trường Đại học được xây dựng nhiều hơn chùa chiền người ta bắt đầu quan
tâm đến việc học ở trường nhiều hơn ở chùa. Ngôi chùa điển hình thời kỳ này
là vat Rạt Bị Phít.
- Giai đoạn từ 1932 đến 1982, tương ứng với thời kỳ trị vì của vua Rama
VII, Rama VIII, Rama IX. Đây là thời kỳ nền kinh tế, chính trị, xã hội, kỹ
thuật Thái Lan phát triển mạnh mẽ nhất từ trước đến nay. Người ta dùng tiền
của để xây dựng cơ sở vật chất của đất nước nên chùa chiền không được xây
dựng nhiều như ở hai giai đoạn trước. Bangkok dần trở thành một thành phối
hiện đại, khoa học, kỹ thuật phát triển cao, do đó việc xây dựng cũng như
trùng tu chùa chiền cũng thay đổi.Trước kia vật liệu chủ yếu để xây dựng chùa
là gỗ nay được xây dựng bằng xi măng, sắt thép. Một số ngôi chùa mang
phong cách kiến trúc và nghệ thuật Phương Tây.
Dưới thời Rama IX, học viện của phái Pháp tông đã đổi thành Đại học
Phật giáo Hoàng Miện. Sinh viên phải học 7 năm mới tốt nghiệp. Học viên của
phái Đại tông cũng đổi thành Đại học Phật giáo Chu la long kon, chương trình
đào tạo 8 năm. Vua Rama IX theo phong tục truyền thống của Thái Lan, đã cử
hành lễ xuất gia 15 ngày ở chùa Phật Ngọc năm 1956 và do tăng vương Kim
Cương Trí thuyết giới. Hết thời hạn nhà vua lại xả giới hoàn tục.
Đến năm 1965 tăng đoàn Phật giáo Thái Lan đã tuyển chọn những tỳ
kheo ưu tú có học thức, đặc biệt là các sử tăng đã tốt nghiệp hai trường Đại
học Phật giáo, phái đi các phủ huyện trong toàn quốc để hoằng dương Phật

pháp.

21


Thời kỳ Bangkok Phật giáo tiếp tục phát triển và dần chịu ảnh hưởng
văn hóa Phương Tây. Trong thời kỳ này rất nhiều chùa được xây dựng.Như
vậy, dưới vương triều Rama (từ thế kỷ XVIII đến nay) Phật giáo Thái Lan
không ngừng được phát triển, các ngôi chùa không ngừng được xây dựng mở
rộng theo nhiều phong cách khác nhau.Có thể nói dưới vương triều Rama Phật
giáo được mở rộng hơn và ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống nhân dân.Tìm
hiểu về ảnh hưởng của Phật giáo với văn hóa Thái Lan thì quả là một vấn đề
rộng lớn, dưới đây chỉ xin giới hạn đi tìm hiểu trên một lĩnh vực rất cụ thể đó
là ảnh hưởng của Phật giáo đối với kiến trúc chùa Phạ kẹo. Trong quá trình tìm
hiểu đó có đặt trong sự đối sánh đối với một số ngôi chùa khác.
2.3. Ảnh hưởng của đạo Phật tới kiến trúc chùa Phạ kẹo ở Thái Lan.
Vat Phạ kẹo (chùa Phật Ngọc) nằm ngay ở phía trái bên trong cổng
Cung điện lớn, là ngôi chùa được xây dựng bằng vật liệu bền đầu tiên ở kinh
đô Bangkok vào năm 1782.Mơ phỏng ngơi chùa hồng gia Ayuthay. Bên trong
ngơi chùa này có đặt một “pho tượng Phật Ngọc lục” cao 75cm, được coi là
biểu tượng của vương quốc.Giờ đây bức tượng thiêng liêng này được đặt trên
đỉnh bàn thờ mạ vàng cao 11m và dưới chiếc lọng ô chín tầng. Mỗi năm ba
lần, khi bắt đầu một mùa mới, nhà vua đến làm lễ thay y phục pho tượng Phật
Ngọc. Khác với các ngôi chùa khác ở Thái Lan, vat Phạ kẹo khơng có sư. Vat
Phạ kẹo là cả một tập hợp nhiều cơng trình kiến trúc khác nhau: Các tịa nhà,
các đình tạ và các tháp lớn nhỏ khác nhau. Dãy tường của hàng hiên vây
quanh sân chùa được điểm tô bằng những bức tranh tường mô tả câu chuyện
Rama Kiên (tác phẩm Thái Lan dựa theo sử thi Ramayana của Ấn Độ) và
những cảnh trong cuộc sống thường ngày của người Thái Lan, như tình yêu,
đánh bạc, hút thuốc phiện... Những bức bích họa này được vẽ vào thời

RamaIII. Trên những tấm đá cẩm thạch dựng lên các cột đối diện với các bức

22


tranh, có khắc những bài thơ kể lại tích chuyện của tranh vat Phạ kẹo là điểm
du lịch thu hút đơng đảo người nước ngồi đến Thái Lan.
2.3.1. Ubosot.
Ubosot là một Phật đường, tại đây có điện thờ một số tượng Phật lớn và
một số pho tượng Phật nhỏ cùng đồ tế khí Ubosot là nơi nhập tu cho sư mới,
nơi thực hành các nghi lễ chỉ giành cho sư mà các tín đồ khơng được phép
tham gia.
Ở vat Phạ kẹo,Ubosot chiếm ở vị trí trung tâm, nơi đây Ubosot có diện
tích rất lớn. Ubosot ở Vat Phạ kẹo được xây bằng gạch, xi măng cốt thép, chỉ
có phần mái là còn sử dụng đến chất liệu gỗ.
Ubosot là một ngơi nhà hình chữ nhật, thơng thường tường được xây kín
và được trổ nhiều cửa sổ hai bên để lấy ánh sáng vào. Ubosot vat Phạ kẹo có 4
ngơi cột chịu lực phân bố đều ở hai bên hành lang và cả trước và sau. Các cột
chịu lực đều xây bằng gạch đặt trên bệ đá trang trí như hình một bông sen nở.
Nhưng ở một số ngôi chùa khác thì các cột chịu lực lại đặt trong lịng nàh,
cách tường khoảng 2m như ở Ubosot vat Phô.
Ubosot chùa Phạ kẹo có 3 cửa: cửa giữa dành cho vua quan hồng thân
quốc thích đi qua, cịn hai cửa hai bên thì dành cho thường dân.
Về bộ mái của Ubosot vat Phạ kẹo được chia làm 3 lớp một thượng
lương đỡ phần mái chính ở giữa là chỗ dài nhất của mái hai phía có phần mái
thứ hai thấp hơn một chút và ngắn hơn, phần mái thứ thứ ba ở ngoài cùng và
ngắn nhất.Tất cả các phần của mái đều được chia làm ba tầng, tầng cao nhất
cũng là phần nặng nhất, còn phần dưới cùng là mái của hành lang. Khung mái
làm bằng gỗ, vì kèo và mái lợp ngói.Trong nội thất của Ubosot dành 1/3 diện
tích về phía trong cùng để bày bàn thờ Phật, chỗ còn lại dành cho các tín đồ

đến lễ Phật.

23


Phía ngồi cửa trước và sau Ubosot thường có hai vị “nhắc” (hộ pháp)
cầm kiếm đứng canh. Ở vat Phạ kẹo có tất cả 9 vị “nhắc” đứng trầu trước cổng
vào Ubosot. Các vị “nhắc” có chiều cao 2m, có nét mặt dữ tợn, miệng rộng,
nhe nanh. Ngoài các vị “nhắc”, phía ngồi Ubosot Phạ kẹo cịn bày thêm các
Kinnaly.Kinnaly là loại tượng nữ thần, có trang phục gần như là áo giáp bó sát
người, tay chống trên một thanh kiếm. Điểm đáng lưu ý nhất là Kinnaly có bộ
ngực rất đồ sộ và có đi.
Về Ubosot của vát Phạ kẹo, 1778 Chăckri sau khi đánh chiếm Lào lan
sang, đã cho rước pho tượng Phật Ngọc về Bangkok. Lúc đầu chưa có nơi đặt
tượng Phật Chăckri cho đặt tạm ở Arun Thônburi. Sau khi Chăckri được lên
ngôi vua lấy hiệu là Rama I và đặt thủ đơ ở Bangkok.Ơng đã cho xây dựng
Ubosot của vat Phạ kẹo làm nơi ngự của pho tượng Phật quý giá này.
Theo sử sách của Thái Lan thì cùng với việc chiếm Lào Lan xang,
Chăckri cũng bắt về Xiêm nhiều nhân công và thợ thủ công người Lào. Ý
tưởng xây dựng một nơi đặt pho tượng Phật giống như hỏ Phạ kẹo Viêng Chăn
của vua Rama I đã được các nhân công và thợ thủ cơng người Lào thực
hiện.Vì vậy về cơ bản thì Ubosot vat Phạ kẹo Bangkok giống hỏ Phạ kẹo
Viêng Chăn. Nhưng Ubosot vat Phạ kẹo vẫn có những đặc trưng khác hỏ Phạ
kẹo Viêng Chăn. Cụ thể:
- Hỏ Phạ kẹo Viêng chăn được tơn nền cao đến 1,5m, nên nhìn cả ngôi
nhà như được nâng lên cao.Ubosot vat Phạ kẹo Thái Lan nền thấp nên cả ngơi
nhà khơng có được dáng thoáng như ở hỏ Phạ kẹo Viêng Chăn.
- Hỏ Phạ kẹo Viêng Chăn chỉ có hai cửa, cịn Ubosot vat Phạ kẹo Thái
Lan có ba cửa.
- Nếu so sánh tranh tường và trang trí tường ngồi Ubosot thì hỏ Phạ

kẹo Viêng Chăn không thể sánh được với vat Phạ kẹo Bangkok.

24


Ngoài ra Ubosot vat Phạ kẹo Bangkok cho dù lấy hình mẫu hỏ Phạ kẹo
Viêng Chăn song nó vẫn ảnh hưởng mạnh mẽ của phong cách xây dựng thời
Ayuthay. Đó là phía ngồi của căn nhà được trang trí bằng những đường lượn
của một con thuyền và vì vậy nhìn từ bên ngoài Ubosot này giống thân của
một con thuyền; cịn bộ mại của nó với nhiều tầng và lớp giống hết một bộ
cánh buồm, khiến cho nhìn từ xa cả ngơi nhà giống hệt một con thuyền buồn
hồn chỉnh.
Ubosot ở vat Phạ kẹo được xây dựng theo kiểu truyền thống. Nhưng
trong một số ngơi chùa thời kỳ Bangkok thì Ubosot được xây dựng đã kết hợp
hài hòa giữa phong cách truyền thống Thái với phong cách kiến trúc Phương
Tây, như Ubosot ở vat Rạt Bị Phít được xây dựng dưới thời Rama V. Vua Chu
la long kon đã cho xây dựng vat Rạt Bị Phít với hình dáng bên ngoài vẫn là
phong cách kiến trúc Thái truyền thống nhưng bên trong thì hồn tồn phỏng
theo phong cách kiến trúc Pháp.
2.3.2. Vi hản:
Vi hản là nơi thực hành các nghi lễ, hội hè Phật giáo, nơi các tín đồ được
phép tham gia.
Vi hản là một ngơi nhà hình chữ nhật được xây tường bao quanh và trổ
nhiều cửa sổ để lấy ánh sáng. Hai hàng cột được xây dựng dọc theo lòng nhà,
cách tường 2m và khoảng cách mỗi cột cách nhau 2m. Mái của Vi hản cũng
giống bộ mái của Ubosot. Vi hản chùa Phạ kẹo được xây dựng vào thời Rama
III, mãi đến thời Rama IV mới hoàn thành.
Ở vat Phạ kẹo tính từ ngồi vào trong gồm các phần: Phần ngồi cùng là
nơi các tín đồ đến lễ Phật; Phần tiếp theo là nơi các nhà sư tụng kinh và chúc
phúc cho các tín đồ; phần trong cùng chiếm khoảng 1/3 diện tích Vi hản là nơi

bày bàn thờ Phật.
Ubosot và Vi hản được coi là kiến trúc chính ở hầu hết tất cả các ngơi
chùa, song ở vat Phạ kẹo đã xuất hiện kiến trúc rất quan trọng trong mặt bằng
kiến trúc chùa này.
- Đó là mondop và prasạt.
25


×